Lao động là tự do...
LAO ĐỘNG LÀ TỰ DO…
Xuân Sương
Cracovie hay Krakov, Kraków, là thành phố cổ xưa nhất và quan trọng nhất của Ba Lan, có từ thế kỷ VII, từng là thủ đô, trước Varsovie. Với số dân chưa tới 800 nghìn, nó là thành phố lớn thứ hai và thường được coi là trung tâm thực sự của xứ sở này với truyền thống và quá khứ huy hoàng cả nghìn năm, cũng là tâm điểm văn hóa và khoa học. Nơi đây, Karol Wojtyla đã từng là Giám mục rồi Tổng giám mục của thành phố, trước khi thành Giáo hoàng Jean Paul II vào năm 1978. Cùng năm đó, Cracovie được Unesco ghi tên vào Di sản thế giới, rồi năm 2000 là Thủ đô Âu châu về văn hóa.
Thành phố trí tuệ là thế nhưng cũng là sân khấu bi thảm khó lường nhất vào những năm bị Đức chiếm đóng : từ 1939 đến 1945, 90% dân Do Thái đã bị Quốc xã sát hại. Các nhà sử học đưa ra con số tối thiểu là hơn 2 triệu sinh linh, nhưng chính xác kể cả những cái chết vô danh thì tới hơn 4 triệu. Số người sống sót hiếm hoi lại khổ sở vì cuộc tàn sát ngày 11-8-1945 và bị sách nhiễu dài dài sau đó. Hiện tại chỉ có khoảng mấy trăm người sống rải rác, cố ý không tụ họp thành cộng đồng như trước.
Trại Auschwitz
Chúng tôi bước qua cổng sắt mang hàng chữ “Lao động là tự do” bằng tiếng Đức, Arbeit macht frei, do Heinrich Himmler dựng lên ngày 27-4-1941. Đây là những từ tiêu biểu cho con đường thánh giá của tù nhân. Nhưng chỉ là bản sao, vì chính bản đã từng bị một thanh niên tân-nazi đánh cắp năm 2009, và được lưu giữ trong viện bảo tàng sau khi tìm thấy lại.
Nếu tiêu đề «Arbeit macht frei» đến từ quyển tiểu thuyết của Lorenz Diefenbach vào cuối thế kỷ 19 là một biểu tượng tốt đẹp, kể chuyện một tay chơi và một kẻ gian dối tìm được con đường chính trực nhờ làm việc đều đặn, thì về sau giới cực hữu cố tình biến nó thành khẩu hiệu mang âm hưởng xấu xa độc ác, mà chính quyền Nazi không ngần ngại áp dụng tối đa.
Dừng chân trước dãy nhà biển số 24, cô hướng dẫn nói đây là nơi mà tù nam tốt, gương mẫu, được “hưởng ân huệ”, là được một số nữ tù “phục vụ”. Có người đặt câu hỏi không thể trả lời là lúc đó, tâm trạng nữ tù như thế nào, có sẵn lòng an ủi bạn tù nam hay không. Gì thì gì, tâm trạng con tù đâu phải là điều Nazi lưu ý.
Các dãy nhà gạch màu nâu đỏ, được xây dựng năm 1940 từ bàn tay những người tù Do Thái đầu tiên, chứa đựng những vật thể bình thường nhưng mang di tích tinh thần đau đớn bất thường nhất của nhân loại. Hằng hà va ly, giày, bàn chải răng, lược, bín tóc, mắt kíếng, hộp đựng xi đánh giày… nằm bên kia khung kính gây lạnh xương sống cho khách tham quan. Có thể thấy trước mắt những con người bị trấn lột các thứ thân quen ấy để bước vào phòng ngạt hoặc áp lưng vào tường chờ đạn.
Những tấm hình thân thể chỉ còn da bọc xương gây cho mình cảm giác tội lỗi được no đủ. Cái bàn dài lạnh lùng với nhiều chiếc ghế nơi hỏi cung; mớ rơm khô chểnh mảng trên nền đất đã thường ẩm ướt vì những cơn tiêu chảy của tù nhân; giường nhiều tầng; dãy bồn cầu cáu bẩn… Và ngoài những thứ đó, giữa hai dãy nhà số 10- 11 là bức tường được dựng lại, kỷ niệm “bức tường chết chóc” xưa kia, nơi tù nhân đứng chờ hứng đạn. Du khách trân trọng đặt lên mặt đất vài cánh hoa, vài ngọn đèn cầy…
Tấm hình 4 đứa trẻ từng làm vật hy sinh cho các thí nghiệm y khoa của tên bác sĩ Mengele, mệnh danh là “bác sĩ của thần chết”, 4 bộ xương trần truồng, lỏng nhỏng, trái ngược với nét mặt hồn nhiên hình như đang cười mỉm, vô tư nhìn du khách ái ngại ngắm nghía mình. Trên 200 nghìn bộ xương như vậy, chỉ 700 còn sống sót.
Buổi chiều, cơn mưa nhỏ lắc rắc lên khu trại, lên du khách bàng hoàng đi từ dãy nhà nọ sang dãy kia để chứng kiến những điều cho đến bấy giờ chỉ nghe qua sách vở hay phim ảnh. Muốn chụp hình cũng thấy dường như bất kính. Cứ như thấy mồn một những con người không còn là người nữa đang vật vựa giữa sống chết, bị sỉ nhục, đọa đày, cùng khổ…
Dưới thời nước Pháp bị Đức thống trị, ngày 27 tháng 3 năm 1942, chuyến tàu đầu tiên từ Pháp chở dân Do Thái đến Auschwitz này, để rồi họ chịu cùng số phận như bao tù nhân khác, không còn là con người, không còn tên họ, không còn tóc, chỉ có con số mang trên bộ áo quần sọc xám. Đó là một vết nhơ trong lịch sử của đất nước mang tiếng bao dung, rộng lượng và nhân quyền. Vì vậy tháng 7 năm 1995, Tổng thống Jacques Chirac can đảm nhắc lại thời đen tối đó dưới quyền Thống chế Pétain, thay mặt quốc gia công khai nhận trách nhiệm và nói lên lời hối lỗi. 74 chuyến tàu mang 76 nghìn người Do Thái rời nước Pháp để không bao giờ trở lại, là một gánh nặng tinh thần mà Pháp không thể quên.
Đây là trại lớn nhất do Nazi xây cất, cũng là trại hoạt động lâu dài nhất. Nó đứng lâu được nhờ cách tổ chức kỹ thuật có hiệu quả công nghiệp, giúp Nazi hoàn thiện được nhiều cách thức tiêu diệt tù nhân. Bầu trời ở đây cũng xanh, mây vẫn trắng, buổi chiều vẫn mang nét đẹp u buồn. Nhưng trong không khí âm hưởng của tháng ngày tai ương dường như vẫn còn bảng lảng…
Trại Birkenau
Để đáp ứng nhu cầu, Himmler cho xây thêm trại Auschwitz 2 đủ chứa 100 000 tù nhân, là Birkenau, cách trại kia 4 cây số. Hẳn chúng ta đã ít nhiều thấy qua phim ảnh hay sách báo cách nhồi nhét tù nhân lên những toa tàu mà chuyến đi có khi kéo dài cả chục ngày, không vệ sinh, không ăn uống. Trại này được dựng lên với chủ đích tàn sát tù nhân.
Chiếc cổng và đường sắt, vật vô tri đã tiếp đón năm 1944 đoàn tàu đầu tiên chở dân Do Thái từ Hung Gia Lợi chạy vào, hiện vẫn sừng sững trong chiều. Nó có tên “cổng vào cửa chết”, bước qua khỏi nó, vào trong kia là coi như kết thúc một đời. Những dãy nhà gạch hay ngay cả bằng gỗ từng chứng kiến bao cuộc đời tiêu vong nay vẫn còn nguyên vẹn, như các trang sách mở thách thức độc giả ghé mắt nhìn qua. Ở đây, người ta đã tổ chức một cuộc tàn sát dân Do Thái Âu châu rất có hệ thống. Dãy bồn cầu tiêu là một tảng xi măng dài, khoét lỗ tròn. Hình ảnh gợi nhớ phim Danh Sách của Schindler: để tránh bị bắt đưa vào lò thiêu, một bé trai đã chui trốn vào một trong các lỗ tròn ấy! Mỗi ngõ ngách, mỗi vật dụng đều hàm chứa bao nỗi niềm, nói lên bao tâm sự, kể lể bao bất hạnh đời người.
Các
lò
thiêu hay phòng gaz
ngạt,
được xây sâu ở
cuối
trại,
đã bị phá hủy vào tháng 11
năm 1944 để
xóa sạch
dấu
vết diệt chủng.
Tiếp theo là “cuộc
diễu hành chết chóc”
vào
đầu năm sau của gần 60 nghìn tù nhân bị đẩy đến
các trại tập trung khác về phía tây, như Dachau hay
Bergen-Belsen
(nơi
mà Anne Frank đã trút
hơi thở cuối cùng ở tuổi 15,
và để
lại
cuốn nhật ký vang danh thế giới).`
Một tuần sau, quân đội Nga giải phóng nơi đây, lúng
túng khó khăn tìm cách giải quyết số tù nhân còn lại,
toàn người già và bệnh tật. Phía
bên ngoài trại, mùa này đồng lúa đang chín vàng và hoa
dại vẫn vui vẻ đùa với gió chiều…
Lễ
hội văn hóa Do Thái của Cracovie diễn ra ngay ở Kazimierz,
cách thủ đô Varsovie chừng 120 km.
Nếu
hình ảnh hai địa điểm trên không thay đổi nhiều và
là nơi tưởng niệm, thì khu
Kazimierz (vốn là nơi một cộng đồng Do Thái quan trọng
từ thế kỷ XVI từng sinh sống đến trước Thế chiến
thứ II) đã hoàn toàn bị bỏ hoang suốt
khoảng 50 năm sau khi Thế chiến thứ II chấm dứt. Nhờ
cuốn phim độc đáo Danh
Sách của Schindler
do Steven
Spielberg
thực hiện tại chỗ, cả thành phố bừng sống dậy từ
những năm 90. Một khu Do Thái không
còn Do Thái nữa, nay là
điểm lôi cuốn du khách tới tham quan, là khu sinh hoạt
của nghệ sĩ và sinh viên.
Du khách
đến nơi từng là phim trường và khám phá nhiều
tiệm
ăn
nho nhỏ ấm cúng,
cà phê
rộn ràng,
tiệm sách, hành
lang nghệ
thuật, cuộc sống về đêm… Cũng là một trong những
nơi lưu
niệm
chính của cộng đồng Do Thái. Khu
chợ nhỏ thân
thiện
buôn bán vật dụng làm quà,
thực phẩm.
Du khách trẻ ăn bánh mì thịt nướng, ngồi bệt xuống
vỉa đường hân hoan thú vị…
Nằm
về phía nam Kazimierz
là
ghetto do
Quốc
xã dựng
lên
từ tháng 3-1941, chất chồng khoảng
20 nghìn dân Do Thái. Để
tưởng nhớ, một
nghệ sĩ đã đặt giữa quảng
trường trung tâm nhiều chiếc ghế, mỗi
ghế tượng trưng cho 1000 người bị
nhốt tại
đây trước khi bị đưa
đến
Auschwitz.
Bảy
nhà thờ đạo Do Thái ở Kazimierz phần
lớn
mở
cho du khách hay dùng làm nơi triển lãm, chỉ
có Remuh là nhà thờ cổ nhất thứ hai, xây vào năm 1556,
là còn mở cho dân hành đạo.
Vào đây, nam du khách được tặng Kippah
màu rượu chát đặt trên đỉnh đầu. Trong khuôn viên là
nghĩa trang xưa cổ nhất của Cracovie, và là một trong
những nghĩa trang đầu tiên của châu Âu, ra đời từ năm
1535. Những ngôi mộ âm thầm đón nhận từ người viếng
một vài viên sỏi, mỗi viên tượng trưng cho một đóa
hoa. Đây là một trong những công trình quý báu nhất của
văn hóa Do Thái.
*
Lịch
sử đau buồn ấy dù đã sang trang, nhưng kỷ
niệm vẫn còn nhức nhối. Nhiều tượng đài là dấu
tích, quan trọng nhất là tượng đài những Người
hùng của ghetto ở
Varsovie,
kỳ tích chiến đấu trong một
chuyến đày ải của Nazi tháng 1 năm 1943 nhằm thanh toán
bốn-năm chục nghìn Do Thái.
Tại
tượng đài này, trong chuyến công du Ba Lan đầu tiên của
chính quyền Tây Đức, Thủ tướng Willy Brandt sau khi đặt
vòng hoa, đã lùi lại chiêm nghiệm vài giây rồi quỳ
xuống bực thềm trước sự ngỡ ngàng của bao ký giả.
Đó là ngày 7-12-1970, trong nghi lễ chính thức tưởng niệm
dân Do Thái bị sát hại. Cử chỉ tượng trưng rất cao
quý này dù gây nhiều tranh cãi, năm sau đã mang lại cho
ông giải Nobel hòa bình, vì nó biểu hiện sự ăn năn của
người Đức đối với dân Do Thái, và cũng là bước
quyết định trong sự hòa giải giữa Đức với Ba Lan.
Hình ảnh này được ghi lại vào năm 2000 bằng một tấm
bia
gần đó.
Tháng
8-2015
Khu
Kazimierz
Xuân
Sương
Các thao tác trên Tài liệu