Nước như nước mắt
Nước như nước mắt
Nguyễn Ngọc Tư
Đừng sợ hãi, dù vì nó mà người ta sống, chết… (*)
1
Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai.
2
Dựa theo truyện ngắn này của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, nhà điện ảnh Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã viết kịch bản và thực hiện cuốn phim truyện NƯỚC 2030.
Phim sẽ chiếu lần đầu tiên ở Pháp tại Studio de la Clef, 34 rue Daubenton, Paris 5e (M° : Censier-Daubenton) 20g30 thứ năm 7.1.2016. Buổi chiếu dành riêng cho người có giấy mời. Vì số chỗ có hạn, xin giữ chố trước bằng email :
Nhà chức trách nói rằng họ đang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sản của họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn, chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ… “Những người đầu tiên trông thấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàng đã đứt”, nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôi chỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng, chúng tôi dựa trên nhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngò gai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.
Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ôm xiết chồng đang nằm thõng thượt trên
cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình
vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi
thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bên sườn. Khi
lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi,
chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được.
Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta
đang nhâm nhi ngò gai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và
xốc ôm chồng tha về ghe.
Dưới sạp ghe hai con cá Bạc Đầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ
trước vợ chồng Sáo giăng lưới bắt được. Cá bị nước đuổi ốm tong teo
nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may
quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại.
Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến vậy, đến nỗi nó đã
chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mình như quý cặp cá
này.
Cá Bạc Đầu luôn đi thành đôi, là loại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như
chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Má chồng Sáo hồi còn sống thường
thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt mật cặp cá Bạc Đầu
thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻ con bên xóm
đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lửng thửng bay về phía Sáo nhoi
nhói. Chồng Sáo cà rỡn, “bắt được cá Bạc Đầu rồi vợ con sanh một lần
bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ…”. Má chồng không chờ được, lúc bà chết
bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùng để xông da thịt
cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắc nuôi hy
vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá một
lần hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳn, Sáo
lại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh. Người Châu Thổ hay
nói, bắt tao tả đau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con
cá Bạc Đầu, tức là chẳng thể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ
không tự mình trải qua. Sách “Bi ký” chép lại, năm 813 đã có một làng
chài lưới bị tàn sát vì giữ lại cá Bạc Đầu mà không cống nộp cho vua.
Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáo quý cuốn
sách đó như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước đột
ngột dâng.
Giờ con cá của những đồn đãi, con cá huyền thoại, con cá vì nó mà người
ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo, đuôi màu xám đậm rồi phai dần
cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín. Cái chết cận kề
không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽ khàng,
như âu yếm như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi
đã quá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.
3
Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữa tháng Giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh
bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên ghe.
Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớm hơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa
tàn vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng
trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bung nở hết. Chồng Sáo cứ
tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.
Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanh nhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ
khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om… Mấy thứ cỏn con
này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ mà thiếu sả ớt,
cá trê nướng mà không gừng… là anh băn khoăn lắm. Anh nói thà không ăn,
chứ ăn vầy không đúng điệu.
Chồng Sáo ưa nói hai từ đúng điệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng
trăng tròn quá nhìn không đúng điệu, phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng
vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi là đúng điệu. Con lá lóc này
phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu. Sống giữa trời
nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức.
Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ểnh ra, se miết mấy ngón tay
da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong
sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồng Sáo tắm cả xô, tắm
đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khi nghe bảo “em
nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”. Đêm nào trước lúc ăn nằm
với nhau bao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang
đúng điệu, bắt đầu từ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó
này sau đó kia, anh nhẩn nha đến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe
cái gì đó xộc tới chới với. Nó không thích vậy nhưng không dám nói,
biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻ con không chịu ra đời.
Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúng điệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng
cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ bán là không đúng điệu,
nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát. Có năm
trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán cho
thương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa
căng bóng mới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt
dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.
Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới
nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước
theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng.
Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tới
đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo
nhau lên ghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống
được, đem bán rẻ mạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới,
chẳng được bao nhiêu tiền.
Chồng Sáo không lấy chuyện đó làm phiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ
rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫn làm mặt tỉnh queo. Cả xứ này
bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáo nói vậy. Chỉ một lần
duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đã chết queo,
anh mới dựng đũa kêu trời.
Trời im ắng ở trên cao, trong ngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay
quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc có thể lăn
cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình, cạnh mái nhà
mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại ốm
ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào
sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến
nỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá Sầu Ngư, đành ăn cơm với muối
hột.
Sầu Ngư bình thường vẩy màu xám bạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt,
đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm. Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ
rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xác người. Chồng Sáo vừa ghét
vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói, “Cái thứ ham sống tới nỗi bất chấp tội
lỗi…”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.
Sáo đâu có ngờ có ngày mình phải bảo vệ chồng khỏi miệng cá Sầu Ngư.
4
Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeo trong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm
ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dưới nhà lên. Lúc lau rửa cho chồng,
men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tan chảy Sáo thấy buồn
quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòm xuống nước,
lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn của
nước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.
Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo. Cũng mệt mỏi và đuối sức như những
con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển, họ
chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanh rười rượi của cỏ
cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta
chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì
giành nhau cành củi trôi sông…
Riêng chồng Sáo thì chết vì thèm rau. Hàng xóm bảo, không phải, nó chết
vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi ra khỏi cái xứ trần ai này được.
Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàu coi sinh mệnh người
như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cho lắm đâu mà
nhẫn tâm quá thể ? Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câu
đó. Sao vậy, tại sao, vì sao ?
- Thời thế loạn rồi, đất không còn thì có thứ gì còn.
Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ông nói bữa trước đi ngang bè rau nghe có
tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầy không chết đi, sống làm chi mà
làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai, mắc mớ gì tới cái bọn
sống sung sướng trên cái bè rau đó.
Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên,
anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa, vậy chồng mình chết chỗ khác thì
mình đỡ đau lòng hơn sao ? Sáo giật mình nghĩ vậy khi vừa khóc dứt.
Trong nỗi ân hận Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứ ngồi chơi,
nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyện
những vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện
ở đâu đó con chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt… Hoặc họ không nói
gì cũng được, ca hát cũng được… Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi
sáng là nhà chức trách xả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp
chèo ghe đi lấy sẽ không có nước nấu cơm, tắm giặt…
Sáo chỉ còn một mình.
Một mình.
Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếp lửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không
nổi. Bụng không đói miệng thì đắng nhưng Sáo phải ăn, để chờ người ta
trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lại chèo ghe tới chỗ nhà
chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơi cờ, khi thì
thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thì họ
chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào ? Như thể có rất nhiều sự thật
nằm nhấp nhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với
tướng tá xơ rơ, túi áo lép kẹp của Sáo.
Hơi thất vọng, Sáo chèo trong chảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn
thấy cái lưng dài nhằng của chồng mình trên mái nhà. Em chồng Sáo mang
nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏi chị Hai làm gì vậy. Sáo
nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị xởn tóc chị xơ cờ kìa.
Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáo nín đi, như thể Sáo xởn tóc là một
cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnh đi nấu cơm cho em chồng
ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đã quen sống và làm
lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đi cưới hai
bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gà
mà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh. Năm mười chín tuổi, nghe má
ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người
má nó chọn, lý do “thằng đó có tới chục ngoài công đất”. Sáo nhìn thấy
chồng lần đầu khi anh đang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung
vinh cọng cỏ mần trầu, nó tự hỏi đây sẽ là chồng mình sao ? Lễ ăn trầu
uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nó lại hỏi đây là chồng mình sao ?
Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vành tai, vẫn hỏi chồng
mình đó sao ? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái người đang lật ra
ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.
Má Sáo vui lắm, gói gém mấy lễ, bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ
con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, má giả đò vu vơ khoe với một
khách thương hồ quen, không lâu sau, anh ta cũng lấy con gái nhà giàu
dưới chợ.
Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất – thứ mà vì nó mà Sáo lấy chồng – trở
nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cái rẫy nào đâu.
Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làm mất.
Em chồng rút trong túi xách ra bộ đồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà
nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Món quà còn nguyên niêm mạc,
chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áo đẹp mặc cho đúng
điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửi thề, “Má,
thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan…”. Giờ thì em chồng im
lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chôn
chúng theo.
Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo, thằng em chồng cười khào, con dao bấm
trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sáng quắc. Nó nói “công lý ở trong
tay mình mà, chị Hai…”
Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưng em giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó
là những lần em thực thi công lý hay bị công lý của nhóm giang hồ khác
thực thi lên. Không thẹo người ta không biết mình dân giang hồ, em khoe
vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết là có văn
hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của
em công bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm
lại những món đồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi
dạng, bị tháo rã ra bán đầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn
trộm về biểu, "xin lỗi anh chị Hai tao, mầy !", và thằng kia cun cút
cúi đầu.
Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏ thó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu
với một bè rau đông người lắm của. Em chồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn
chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồi vào bụng, gạo sẽ sôi
thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng người ta hể hả bàn
tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồ còn
đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự may mà nhà
chức trách tiếp cứu kịp.
Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đi coi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết.
Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hê khi nhìn thi thể đó. Sáo sợ
cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơi thở một con người
bỗng dưng biến mất. Ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửa da thịt
chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.
Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phải xuôi ghe tới văn phòng của nhà chức
trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồng không nằm trên bàn mà bị
trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn tròn lại. Sáo thở phào
nhẹ nhỏm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậy mấy bữa
qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai ? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh.
Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít
sìn sịt :
- Chị buồn con c. gì, tụi nó bắt tui như bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là
tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.
Câu nói làm Sáo rúm ró. Sáo biết người đàn ông tên Giang đó, lầm lì ít
nói, da ngăm đen mắt sâu, hai bàn tay đều chai. Và tóc gội sương gió
cứng đến nỗi nếu ai đó để anh ta gối đầu lên đùi, họ sẽ nghe vừa nhột
ran vừa đau nhoi nhói. Người đó đã từng hiền lắm, ngập ngừng mãi mới
dám nắm bàn tay con gái, nhưng theo lời em chồng Sáo thì giờ anh ta đã
đổi thay quay quắt như con cá Sầu Ngư. Sáo muốn đi tìm coi anh ta nhuốm
đỏ tới mức nào.
Sáo sẽ đi. Nó quyết định vậy khi nhìn theo em chồng bị người ta đưa đi
mất. Nhanh đến nỗi Sáo nhận ra công lý thật ra đâu có già nua hay chậm
chạp hay đui mù. Sáo thấy mình vừa mất hết, cả người thân cuối cùng và
chút niềm tin cuối cùng. Nhưng cái cảm giác đó thật sự rõ ràng khi nước
bắt đầu rút, Sáo đào xuống năm lớp dá, rồi kéo cái thứ đất ngâm lâu
bủng beo trong nước đó, đắp lên cho chồng.
Chờ những mầm cỏ Đuôi Mèo lún phún lên xanh, Sáo chèo ghe đến bè rau
Đại Thanh. Nhắm mắt thì nó cũng chèo được tới cái chuỗi xanh ngằn ngặt
ở ngã ba sông Sắc, chỗ sông Mê cắt qua.
5
Bè đang tuyển người làm. Những nhân công cũ sợ giang hồ đòi công lý nên
xin nghỉ quá nửa. Sáo bị xua đuổi ngay khi trờ tới, họ nhận ra vợ của
thằng oan gia bứt ngò. Nhưng vì người ta biết Sáo nên nó vẫn cắp cái
nón trong nách nấn ná chờ. Hồi lâu có người kêu, cô kia tên gì để tôi
ghi hồ sơ ? Ông ta hỏi mà vẻ mặt thảng thốt như không hiểu cái câu vừa
rồi sao lại tuôn ra khỏi miệng, như thể đang nghĩ mướn con này chẳng
khác nào rước giặc vô nhà, sao ông chủ mình ngu vậy ?
Cũng ngơ ngác, Sáo nói tên mình. Ngay lập tức trên danh nghĩa nó trở
thành người của bè rau. Dù Sáo chỉ muốn tới hỏi người đàn ông tên Giang
đó có thật đã muốn chồng nó chết không. Sáo nghĩ người đó sẽ im lặng
hoặc nói không, vậy đỡ quá. Chối bỏ nghĩa là còn biết sợ hãi. Nhưng con
rể của nhà giàu Đại Thanh, người quản lý bè rau mênh mông này, anh ta
nói có. Anh ta nhìn thẳng vào Sáo, nói có, nó – đáng – chết…". Anh ta
vẫn rám nắng chắc chắn vạm vỡ như năm bảy năm trước, mắt vẫn rười rượi
sâu. Mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn thản nhiên, mà buốt nhức
:
- Em sẽ làm gì tôi ?
Sáo chết trân. Nó không biết. Nó đinh ninh là anh ta sẽ chối bay chối
biến và nó cắp nón ra về, an ủi mình đã tìm được sự thật giống như sự
thật. Nhưng anh ta thừa nhận, trâng tráo như Sáo không thể làm gì được.
Sáo sẽ chạy tới nhờ nhà chức trách đang ngủ gục hay sẽ đòi công lý bằng
dao bấm giống như em chồng?
Ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Vài ba bận chèo ghe trở lại, cũng chừng ấy lần lủi
thủi quay về, Sáo nghi chắc tại phải chèo xa mệt mỏi nên sự căm thù hao
hụt. Nó quyết định ở lại làm công cho bè rau. Ở đây nó sẽ tích tụ được
những cơn giận dữ, đến khi chúng căng chật, nổ tung thì đường đến căn
phòng của tên gian ác cũng gần.
Và nơi này làm cho Sáo không bao giờ nguôi oán giận. Sáo gánh nước tưới
những giồng ngò gai và tưởng tượng cái tối chồng mình khoái chí nhấm
nháp chúng, chắc anh không kịp rửa, chắc trong cái vị cay nồng có lẫn
oi oi mùi rơm mục. Sáo ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn
chân tê tái bởi ý nghĩ chồng mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau
đớn ở đây (dựa theo sự thật của ông bán củi). Trầm mình dưới khúc sông
bên hông bè để ủ rơm tươi, Sáo đánh dấu lên dòng nước chỗ người ta đã
dìm chồng nó xuống (vịn vào sự thật của thím bán bánh dừa).
Có lần lửa bùng lên tới mặt, Sáo đã chạy tới căn phòng đó, khi xô cửa
bỗng bàn tay Sáo chui tọt vào vạt áo. Một đứa trẻ đang ngồi trong lòng
người đàn ông, nó đang vùng vằng cằn nhằn cha không biết chải tóc làm
đầu nó đau lắm luôn. Anh ta nhác thấy Sáo liền nói, “cô để lần sau…”.
Ừ, Sáo không muốn khi xiên con dao trong túi nó qua ngực người đàn ông
đó lại có đàn bà và trẻ con trông thấy. Đi men theo những giồng gừng về
dãy nhà ngang nơi dành cho những người làm công ngủ, tiếng con nít thỏ
thẻ vướng chân làm Sáo trợt chân té sấp. Nó gượng bò dậy khỏi những
vũng nước săm sắp, nghĩ phải chi mà vợ chồng nó cũng có đứa con như
vậy, chắc bọn nó sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau, sẽ không phải tìm
kiếm mỗi đêm dù nó mệt đến rã rời, chỉ muốn ngủ thôi. Và đứa con sẽ làm
Sáo thôi nhớ tháng ngày trôi nổi.
Trưa thứ bảy ca nô đưa trẻ con ra bè, chiều chủ nhật trẻ con vào trong
chợ. Vợ của người đàn ông, tức bà chủ của Sáo thì tới bè mỗi buổi
chiều, lúc các máy nước công cộng đã khóa chặt và những người không lấy
nước kịp sẽ ghé qua chỗ chị ta mua nước với giá cao. Cuối chiều cho tới
nửa đêm, thương lái nườm nượp tới để giành giật nhau từng bó rau, chị
ta đứng bán rồi sáng hôm sau cũng biến mất sau con đê kiên cố sừng sững
như tường thành bọc quanh thành phố. Nó cao tới mức những người lam lũ
như Sáo cảm giác bị bỏ rơi, bị rời ra, thấy mình nhỏ nhoi như kiến, cỏ.
Nó nhắc nhớ nắm xương của ba Sáo đã lạc mất bên dưới tầng tầng lớp lớp
nhà cao. Nó nhắc nhớ ba mươi sáu bậc thang mà Sáo đã dò dẫm từ mặt đê
xuống ghe cùng với xác chồng.
Nên nhìn thấy bà chủ là Sáo nghe giận. Chị ta cứ lai vảng hoài nên mỗi
tuần Sáo chỉ còn lại chừng bốn mươi tiếng đồng hồ để tiếp cận kẻ thù,
mà không phải lúc nào kẻ thù cũng ở một mình, bởi người làm công cứ dập
dìu qua lại. Trắc trở nhiều khi đến từ trong Sáo, bởi đôi lúc đứng nhìn
một vạt cải con xanh non, đôi lúc đi ngang giồng quế đang trổ bông, hay
bước chân giẫm lên một lá gừng già… mùi thơm nồng nàn làm người Sáo
lỏng lơi ra, nhẹ bỗng. Vậy đâu có được. Nó ở đây để đòi công lý cho
chồng, sao lại quên chỉ vì mùi hương của những thứ cỏ cây này.
Nhưng trước những đọt ổi non, những giồng rau húng lủi, đống rơm
mới…Sáo vẫn không cầm lòng nổi. Sáo đã nhớ chúng biết bao nhiêu, từ khi
nước đuổi lấp ló phía chân trời.
6
Sáo sống gần như đơn độc trên bè. Thui thủi. Bạn làm công dè dặt, đám
bảo vệ canh chừng, và Sáo biết mình đi đâu làm gì cũng có người ngó
theo, khi da diết khi mãnh liệt, khi hờn mát khi chua chát. Có cảm giác
người ta rọng nó ở lại bè rau chỉ để Sáo quẩn quanh trong tầm mắt, nó
không phải thả ghe chơi vơi chài lưới chật vật kiếm sống trong mùa nước
đuổi.
Sáo hơi tuyệt vọng, nó vẫn chưa trả được thù chồng. Người xóm Rẫy ghé
qua bè mua rau đổi nước cắt Sáo bằng ánh mắt căm ghét đến rát mặt, ý
nói "thứ người gì tệ bạc, đi làm tôi mọi cho giặc...". Sáo càng nôn
nóng, sợ năm dài tháng rộng mớ màu xanh ngằn ngặt trên bè sẽ loang hết
mảng tím bầm trong lòng nó. Vậy đâu có được. Nhưng kết thúc bằng cách
xiên một mũi dao thì quá dễ cho anh ta. Cái cảm giác sống mà mất hết,
nhìn thấy mọi thứ chung quanh tàn rữa mới ghê. Nhưng những thứ mà kẻ
thù yêu quý Sáo đều không thể chạm vào. Trẻ con, đàn bà, và cả những
giồng rau trái thênh thang trên bè - thứ mà mùa nước đuổi trắng xóa
những chân trời, chúng là vàng. Có thể anh ta còn thứ quý giá hơn, Sáo
đang tìm kiếm. Nó tới gần anh ta hơn, tới mức có thể nghe giữa những
cơn nín thở là tiếng nuốt nước bọt lục cục trong cổ họng. Có lần vô
tình cùng khiêng chung một cái lu, Sáo bỗng thấy cảnh này sao giống đôi
vợ chồng đang chuẩn bị đón mưa đầu mùa, ý nghĩ làm nó giật mình buông
tay làm lu rớt xuống mấy ngón chân anh ta tươm máu. Sáo đau, đến nỗi nó
tin rằng nếu lưỡi dao thấu qua ngực anh ta chắc nó là người gục xuống.
Phát hiện đó làm Sáo về luẩn quẩn gần mộ chồng ân hận cả ngày. Oán đong
đầy lại. Sáo bắt đầu ráo riết tìm kiếm, bằng cách nhìn rười rượi vào
mắt anh ta mỗi khi chạm nhau giữa mấy luống cà chua, dưa chuột. Bằng
cách vu vơ hát lên một câu hát cũ, hoặc ra ngồi nhìn trời nước chỗ cây
quao. Trời ơi, khi mà mỗi tấc đất trên bè này đều là một tấc vàng, thì
người ta bứng trồng lên đó một cây quao, chẳng làm gì cả, trái không ăn
được lá lại hôi rình.
Anh ta không thèm giải thích. Con người kỳ cục đó hùng hục làm giàu,
nhưng có khi Sáo thấy anh ta đứng ngó bạn hàng vây quanh vợ mình, ngó
những xấp tiền xập xòe bằng cái nhìn trống rỗng, tựa như chúng vô
nghĩa. Dù nhiều tiền thì gì cũng có, có cả nhà chức trách hồ hởi ghé
chơi. Bạn làm công lâu năm vui miệng kể hồi lập bè anh ta cũng chỉ nói
với vợ một câu, “tôi ra sông làm rẫy, em ưng thì theo…” Bè dứt khoát
phải đặt ở ngã ba sông Sắc, người xóm Rẫy đi chợ đằng nào cũng phải
ngang qua. Vợ anh ta nghĩ chắc chồng nhớ sông, nhớ quãng đời lênh đênh
nên quyết ra bè sống. Sau này nước đuổi, rau trái quý như vàng, bên nhà
vợ khen con rễ biết nhìn xa trông rộng. Sáo nghe chuyện nghĩ, thì anh
ta hại chồng nó chết mà có giải thích gì đâu.
Mỗi khi nhìn những bông quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng,
thằng gian ác thằng gian ác, mình căm thù mình căm thù mình căm thù.
Như thể không đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như người yêu cũ mất.
Vậy đâu có được.
Một bữa người ta cho phun thuốc khắp nơi trên bè. Mọi bán mua vốn đang
tấp nập bỗng dưng ngưng bặt. Bà chủ của Sáo cũng không trèo đê ra với
chồng. Tắm đêm giữa chừng Sáo để nguyên quần áo ướt xông vào căn phòng
người đàn ông đó. Anh ta nằm im lìm như mặt ao ngày không gió, cả khi
bọc tay nó trong bàn tay chai cứng vì từng chèo chống sông hồ.
- Em đi với tôi nghen…
Sáo muốn khóc. Câu nói này Sáo đã nghe lần đầu dễ chừng bảy năm trước,
hồi chưa lấy chồng. Sáo đùng đưa chân khỏa nước trên sông, nói má em
bệnh không ai lo. Lần thứ hai ngồi dưới chòm quao lập lòe đom đóm, nó
nói má em nhận lễ của người ta rồi. Lần thứ ba là vào một mùa mưa, bữa
đó đi chợ, đứng đụt mưa ở hiên nhà người ta, gió tạt làm hai ống quần
sũng nước, Sáo bỗng nghe ai đó nói “em đi với tôi nghen…”, như tha
thiết như thương hại, xót xa… Nó đi hết chặng đò rồi, về tới nhà vẫn
còn nghe. Chục bữa sau vẫn nghe. Sáo không đi chợ nữa, cần gì thì chồng
đi hoặc nhờ hàng xóm tiện thể mua giùm.
Nhưng Sáo có cài bao nhiêu cửa, có ngồi miết trong buồng thì vẫn nghe
“hãy đi với tôi…”. Bằng thứ âm thanh chỉ mình nó biết, nó nói đâu có
được, tui mắc nấu cơm cho chồng tui, người khác không biết ý ổng nấu ăn
sẽ ấm ức lắm. Như bữa ở chợ Sáo nói mắc đi mua chỉ về cho chồng vá
chài. Sáo luôn phải bận bịu, vướng víu vì ai đó, dù đôi lúc giữa đêm
Sáo mặc lại áo, nó nghĩ nếu đi với Câu Nói thì giờ chắc mình được ngủ
rồi.
Lần cuối cùng Sáo nghĩ tới chuyện nắm tay Câu Nói ra đi, là khi chồng
Sáo nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò gai nêm canh cá Bạc
Đầu. Nhìn theo anh rẽ lân tinh lấp lánh như con tôm mon men vào ven đó,
Sáo nghĩ, nếu con cá, cọng ngò có thể làm anh vui vẻ tới vậy, thì không
nó cũng không sao. Nó muốn có một đứa con được tạo thành bởi tình yêu
chớ không phải bởi phép màu của cá. Đang nghĩ bùi ngùi bỗng có người
tới gọi, chồng bây bị người ta đánh té xuống nước chết queo rồi. Sáo
chôn cất cuộc đi, vì mắc tang tế, đòi công lý cho chồng, cúng quảy
người nhà chồng. Chớ ai.
Hôm đó, Sáo chôn cất luôn những ý nghĩ chạy trốn vẩn vơ. Giờ người đàn
ông này lại bảo, “Em đi với tôi nghen – Cũng câu nói hôm xưa, giờ nhuốm
màu vô vọng – Chồng em có còn đâu…”. Sự vô vọng của năm chữ đằng sau
phả hơi lạnh tới cả cái gật đầu của Sáo, ừ thì đi.
7
Cả hai không xếp hành lý, thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi
về phía bờ mà ai cũng biết là đã không còn bờ từ nước đuổi. Sau lưng,
bè rau càng lúc càng rực rỡ. Ngọn đèn chong Sáo kê sát vách mùng giờ
chắc đã bén lửa lan vào tận những đụn rơm phía ngoài. Người đàn ông bơi
cạnh Sáo không một lần ngoái lại. Sáng hôm qua khi tiễn con gái nhỏ trở
vô trong chợ, anh ta đã xiết nó đến nỗi nó kêu đau. Như không có lần
sau. Giây phút đó Sáo nhận ra thứ anh ta quý nhất, đến nỗi sẵn sàng từ
bỏ tất cả để có được. Là Sáo.
Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu mà người này cứ đòi phải đi
cho được, bảy năm trời không chịu thôi. Ừ vậy thì đi. Hai đứa bơi mãi
trong ánh lân tinh réo rắt dìu dặt. Nước tràm trụa trên mặt, nước mặn
xót mấy cái chân răng. Bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể
chìm trôi, có thể quên hết quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã vô
tình làm chồng nó chết, bởi một cơn nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng
đạp rào là sẽ được bước qua.
Quanh hai con người đau đớn, cá Sầu Ngư đang nhơ nhởn họp bầy.
… Đoạn, có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi không biết, tôi đâu có
lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi.
Nguyễn Ngọc Tư
(*) Từ Bi Ký
NGUỒN : Sầu
Riêng (blog Nguyễn Ngọc Tư)
Các thao tác trên Tài liệu