Hai
cánh
cửa trước trổ ra giàn bông giấy
bên con ngõ cụt, một cánh mở
nhìn sân sau lấp lánh ánh sáng
của trời xanh mùa Tết. Không gian giữa
các khung cửa ấy là chỗ ngồi
viết. Viết gì ? trong tiếng vòi nước
xối xả từ nhà hàng xóm ào
sang qua sân sau, và giọng hai ông bà
nội cùng chị vú em đang dài ra,
xúm xít dỗ ngọt đứa cháu
biếng ăn ngoài cổng rào sân
trước. Nhất là những còi xe, la
ó, hò hét mừng thắng trận bóng
đá ngàn năm một thuở của
vạn người dân tràn ra đường
phố còn oang vỡ trong đầu. Thế mà
bỗng dưng tất cả đột nhiên im
bặt, dù chỉ phút giây cũng đủ
cho các sợi thần kinh được trùng
xuống. Rồi từ một tầng lầu gần
đây thanh thản thả ra những nốt
dương cầm một bài Etude thanh thoát,
chúng bay lên, lẩn vào các đám
mây đọng bông trên mảnh trời
lơ lửng sân sau. Tiếng đàn còn
non, đôi khi ngập ngừng, trật nốt,
làm nhớ cô gái nhỏ năm nào
tập đàn vào những buổi trưa
xa. Ngồi đó, chìm vào mơ mộng,
hồi tưởng rồi mong ước. Chẳng
hẳn ước một không-tiếng-động
mà giá được lựa chọn tiếng
này thay tiếng khác.
Đêm
đầu tiên trở về
thành phố, gió vốn thiếu lại bị
chặn ngừng trước cửa kính căn
lầu cao. Đêm ồn ào, đêm ngột
ngạt. Lơ mơ, trăn trở mãi mới
thiếp đi nhờ thiếu ngủ. Chưa được
bao lâu bị choảng dậy bất thần
trong không gian còn đen của 4 giờ
sáng. Điệu nhạc quen thuộc ‘‘Khi
xưa ta về lại nhớ ta đi. Đi đâu
loanh quanh cho đời mỏi mệt…’’
gióng lên từ dưới con đường.
Kèn oang oang, trống thùng thùng chiêng
xoang xoảng họa theo đánh nhịp. Vậy
mà nằm yên đó, nghe và ngỡ
ngàng, lại còn thêm chút gì
thích thú. Ô, cõi đi về của
anh Sơn sao nổi lên vào giấc này?
Người ta yêu nhạc anh đến thích
ứng vào hoàn cảnh, ngay cả trong tang
chế? Nhưng khi chuyện đi về và cả
‘‘Anh nằm xuống sau một lần đã
đến đây…’’ chấm dứt
thì đột nhiên đội kèn đám
ma hứng khởi thổi bài Phật Giáo
VN, nhịp điệu bất kể. Lúc đầu
hồ hởi như đang thúc giục lực
sĩ chạy đua, lúc sau lè nhè quả
là khóc người chết. Rồi lại
vùng lên chạy đua, rồi lại bất
ngờ ỉ ôi kẻ quá cố. Kéo
hai đầu chiếc gối áp chặt vào
tai. Thở dài, tội cho người nằm
đó. Hỏi ra mới biết đám
tang phải lên đường giờ ấy để
tránh kẹt xe, chứ không do ngày lành
giờ tốt. Những đoàn đưa tang
kèn trống đi qua phố phường im lìm
chưa kịp sáng ấy thả xuống giấy
tiền giấy vàng như bươm bướm.
Nhưng nhìn kỹ không thấy tiền có
ảnh bác Hồ, mà nhiều nhất là
‘‘vé’’, vé 100 đô in
hình tổng thống Hoa Kỳ, rồi đến
các tờ màu hồng hay màu lá
non có ảnh vua quan đội mão Trung
Quốc. Chắc hẳn rất khó lòng mua
được bát cháo lú, trả tiền
đò sang sông hay hối lộ âm binh
của Diêm Vương bằng tiền Việt.
Đi
đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…
Ở thành phố nêm người và
xe cộ ấy thì dợm bước ra đường
là thấy loanh quanh và…nản. Nản
mồ hôi, nản bụi bặm, nản tiếng
xe rồ, còi bóp, đụng xe. Từ đụng
xe hay chèn nhau dẫn tới chửi thề, cãi
lộn ngay giữa lòng đường nghẹt
cứng hoặc bên vỉa hè, đầu
con hẻm. Lâu quá, sống xứ người
không nghe chửi lộn, cái món bao giờ
cũng có bài có bản. Ngày xưa
con nít tò mò nghe khoái tai, ngày
nay nghe nhọc lòng mệt mỏi... nghĩ ngôn
ngữ mình càng giàu có, thật
tượng hình tượng âm trong phạm
trù này. Trong khi ngược lại, cầm
tờ báo trên tay mà thấy chữ
nghĩa sao bây giờ lắm lúc bị rút
ngắn đến kỳ lạ : trường
chuyên XY, tour độc, bác bỏ đình
chỉ Vedan … Đọc cái tựa sau cùng
trên một nhật báo mà giật mình
: Vedan thản nhiên thải nước đầy
chất độc xuống sông, hôm trước
báo chí vừa loan tin Vedan bị đóng
cửa trong khi chờ điều tra thế mà
qua dăm ngày đã được hoạt
động lại? Hoá ra đọc vào
bài mới hay “bác bỏ đình
chỉ Vedan” là chạy tít cho gọn
câu “bác bỏ ý kiến không
bắt Vedan đình chỉ hoạt động’’.
Bà chị họ già, giáo viên mẫu
mực năm xưa, gỡ mục kỉnh, vất
đoạch tờ báo xuống đất :
‘‘Viết thế thì bố ai hiểu!
báo với chí, ngôn với ngữ!”. Vội đùa cho vui : ‘‘Ấy, viết
thế mới khích người ta mua báo
chứ chị!’’ Rồi kể lại
chuyện đi ăn bún ốc gia truyền Hà
Nội.
Một
người
đàn bà đẫy đà áo
thun nhếch cao hơn bụng, quần jean chẽn
vào quán, hướng xuống bà bán
bún ngồi ghế đẩu đang đơm
:
–
Cho một bát, vừa to vừa nhỏ!
Nghe
vậy, ngừng và, thắc mắc hỏi chị
bạn đã đưa đến đây
: Sao
bà ấy không gọi một bát vừa
thôi cho gọn, lại kêu vừa to vừa
nhỏ làm chi cho dài dòng hở chị?
Chị bạn đang ăn chưa kịp trả
lời.
Một
ông khác đã
bước ngay sau :
–
Này, một chấm nóng, vừa to vừa nhỏ.
Chị
bạn bấy giờ bật cười giải
thích : Bún ốc ở đây có
thể ăn nóng (nước dùng
nóng chan thẳng vào bún, cách này
gọi là chan) hay ăn nguội (nước
dùng nguội để ngoài như ăn
hủ tíu khô, thực khách nhấc
từng gắp bún chấm vào nước
ốc chứ không múc đổ từ từ
vào bún, cách này gọi là
chấm lạnh, cũng có thể ăn chấm
nóng nếu muốn nước ốc nóng).
Còn vừa to vừa nhỏ là cho cả ốc
lớn lẫn ốc bé. Hai việt kiều
được chị mời đi ăn cười
: Mình nhà quê quá, đi ăn ở
thủ đô chẳng phải dễ. Phải
biết cách gọi, vắn tắt nhất
nhưng đầy đủ, bà hàng mới
không nhầm lẫn, y hệt như một ‘‘đá
đen’’ hay ‘‘nâu nóng’’.
Và cả tấm bảng kẻ xanh đỏ
‘‘Sơn sửa nữ, Cạo tỉa nam’’
trước một cửa hiệu cắt tóc,
sơn móng tay nam nữ dựng giữa phố
đông người.
Một
cô
cháu sau này nghe chuyện liền bảo :
–
Cái ấy không hay bằng giai thoại khác, cũng ở Hà Nội, trong một hiệu
ăn đặc sản bán thịt chú vâu và nàng ụt, hầu bàn lớn tiếng xướng vào nhà
bếp còm-măng của ba thực khách : “Hai lợn ăn thêm, một chó mới vào!”
Ồ
không, những chuyện đi ăn này nào
phải tiếng động, đấy là ngôn
ngữ.
Nhưng
có đôi khi chẳng dễ tách rời
tiếng nói và tiếng động, và
cũng không phải bao giờ chúng cũng
đinh tai nhức óc ở xứ này. Thành
thị ồn đến nổ đầu, trở
về vũng biển lại chẳng ngờ nghe
thấy những tiếng rì rầm tan vào
bóng đêm u uất một cảnh chợ
âm hồn. Trời sập tối đã
lâu, con đường từ trên núi
xuống biển vòng ngang mấy ngôi chùa
và nhà cửa um tùm cây cối.
Đường gần chân núi chỉ leo
heo ánh đèn treo cổng vài căn
nhà, không đủ chiếu các khúc
quanh. Ở một khuỷu đường, dưới
tán cây đen sẫm và cành lá
lao xao trong gió phát ra tiếng rì rầm
như cất từ lòng đất. Chõi
mắt nhìn kỹ mới thấy loáng
thoáng ánh lờ nhờ của manh áo,
của chiếc nón lá che sương, của
những nải chuối sáp, chuối sứ
bày ngay trên sỏi đất. Vậy mà
họ có đến gần chục người
đang mua bán. Những người đàn
bà lao động cực nhọc, thợ khuân
gạch khuân hồ, quét đường,
nhặt ve chai…suốt cả một ngày,
giờ tụ về đây trong đêm tối
để bán mua vài nải chuối mấy
quả cam, dăm gói lá thuốc nam. Hay
phải chăng chỉ để gặp gỡ,
chuyện trò, than thở. Hẳn là thế,
bởi hầu như không thấy bóng họ
động đậy, không nhìn thấy cử
chỉ mua và bán. Chỉ cây lá
nghiêng chao cùng gió và những lập
loè đom đóm bay quanh. Đêm tối
khiến họ ngại cất to tiếng để
nói với nhau bình thường, hay cái
thì thầm là do vất vả khuân vác
cả ngày đã rã rời mỏi
mệt? Một khác biệt vô cùng giữa
âm thanh rủ rỉ phận người ấy
với giọng đơn đớt, đanh đảnh
trong khắp phố phường thủ đô
vốn khi xưa thanh lịch.
Biển
này phía tây nên sáng
sớm mây thường về phủ các
con thuyền đánh cá sơn đỏ
sơn xanh neo đầy khoảnh vịnh. Đi
càng xa khúc đường vòng càng
vắng xe, người tập thể dục hay
chạy bộ thưa hơn. Sương giờ ấy
chưa tan và sóng dồn lên trắng
xoá. Vậy mà nhiều ngày đạp
xe qua đây vào giấc đó, ngay từ
xa đã nghe tiếng người đàn
ông ấy. Ông ta gầy lỏng khỏng,
đứng lênh khênh trên bờ lề
lát các ô thạch bản mài nhẵn.
Mặt hướng thẳng ra biển, miệng la
lớn mắng mỏ giận dữ. Cứ mỗi
câu tung ra là cánh tay phải phất lên
theo như để thảy tất cả lời
nói xuống nước. Cố gióng tai
cũng chẳng thể nào nghe rõ ông
ta chửi gì, trừ mấy chữ lập đi
lập lại : cá, cua, sò, hến, cho đã
đời, cha mẹ mày, mày làm gì
tao. Có lúc ông không rủa nữa
mà tiến sát bờ kè, chúc đầu
gào vào những bọt sóng nổ bung
trên các phiến đá. Một vài
khách bộ hành đi qua liền tách
xa dăm bước, họ không ngó, không
tỏ vẻ ngạc nhiên thể như cảnh
tượng này đã quá quen thuộc.
Chẳng phải bao giờ ông cũng đứng
đó một mình. Có vài buổi
sáng một người khác trẻ hơn,
hai tay khoanh sau mu đầu trọc, một chân
mang dép cao-su nhảy lò cò quanh ông
ấy, chân kia khỏng khiu đen như khúc
củi cháy co lên thành một con cò.
Thoạt đầu cứ tưởng anh ta bị
liệt nhưng thỉnh thoảng anh lại đổi
chân và tiếp tục bành bạch, lúc
nhanh lúc chậm, miệng hát ba nốt mi
son đô, mi son đô. Hai người cứ
thế diễn một màn kịch múa bi
hài. Người đàn ông chẳng hề
để ý tới đồng nghiệp, ông
xê dịch từ bờ kè ra lề đường,
anh nọ cứ thế quanh theo, không một lời
hay ánh nhìn trao đổi. Chỉ khi ông
kia chúc đầu vào các phiến đá
thì anh ta ngừng, hai chân chạm đất,
tay buông thõng, đợi chờ.
Không
biết sao lại cố gắng đạp xe ra
biển đúng vào khoảng đó để
bắt gặp họ trong bình minh xám. Để
nghe tiếng dép cao-su bẹp bẹp trên mặt
đá hoa cương của hè đường,
và những câu chửi rủa càng lúc
càng to hơn nhưng lù mù ý
nghĩa, nên tiếng nói đã biến
thành tiếng động. Chúng bỗng
quen thuộc như vóc hình dễ tổn
thương của hai người đàn ông
ấy. Cho đến một hôm, trên khúc
đường vòng giữa núi và
biển đó chợt xuất hiện một
bóng người đi về phía họ,
ngược chiều gió. Dáng anh này
cao hơn, mớ tóc lù xù bay vuốt
về sau càng lộ gương mặt hóm
với gò má nhô. Áo sơ-mi dài
gần chạm gấu chiếc quần ngắn trên
đầu gối, hai vai co lên rụt xuống
nhịp nhàng. Linh cảm bảo đây là
diễn viên thứ ba còn thiếu của
màn kịch.
Nhân
vật mới
từ sương và bóng núi đi
tới, sau lưng không một ai, chỉ có
nền biển xám nhập nhoà những
con tàu đen trắng ngoài khơi. Khi anh
ta đến gần mới thấy miệng mở
to, không vành môi, không răng, một
lỗ bầu dục đen ngỏm. Nghe như có
tiếng o o từ đó phát ra. Có
thực chăng, hay đấy chỉ là gió.
Chợt chững người. Edward Munch. Đến
đúng chỗ hai người nọ, ‘‘tiếng
kêu’’ bỗng ngừng, gió tự
nhiên lặng, những sợi tóc dài
như các tua cờ rách tươm bươm
rũ xuống. Hai nhân vật kia cũng chẳng
thèm quay nhìn, nhưng cùng thôi nhảy
lưng tưng và thôi rủa xả. Ba người
đứng yên, ba thân thể thõng
thượt, gương mặt lặng lờ quay
về biển, miệng mồm khép kín.
Tất cả bỗng im phắc, bất động,
một bức tranh, một tấm ảnh. Những
tiếng hát tiếng kêu, gào và
chửi bên ngoài cùng với tiếng
nói ẩn ức rút từ ruột gan con
người đã được tung hê
vào biển mênh mông? Sóng chợt
biết câm. Một thinh lặng bất thần,
ngỡ ngàng, trầm uất. Nhưng phút
giây thôi, rồi tiếng kêu xoay người
tiếp tục bước, miệng lại há
to thành lỗ đen, cặp vai nhoi nhoi đều
đặn theo bước chân. Tiếng rủa
và tiếng hát kia lại quay ra diễn
tiếp vở tuồng. Cùng lúc ấy
taxi, gắn máy ồ ồ xành xạch, và
tiếng còi rao mài dao mài kéo chói
tai của cái loa gắn trên chiếc xe ba
gác từ một khu phố đông dân
cư ồn ồn đổ ra. Chúng đập
vỡ, phá tan không gian yên ả sớm
mai, át luôn cả sóng biển. Nhưng
cũng nhờ thế mới có thể kéo
mình ra khỏi cái vùng không- tiếng-
động của bức tranh lạ lùng, lạnh
băng kia để nhấn chân lên bàn
đạp, tiếp tục con đường trong
gió lộng. Trở về với sân trước
sân sau và khoảng ngồi nghĩ ngợi.
Mai
Ninh
(tháng
chạp, Mậu Tí)