Trí thức
Suy nghĩ gần xa
Trí thức
Ng. V.
Chất xám, trí tuệ, trí thức... là những từ thời thượng. “Trí” cũng được gắn thêm vào “công, nông”, để thành “công, nông, trí”. Nhưng e rằng tuỳ nơi, tuỳ người, trong, ngoài, từ “trí thức” không được định nghĩa giống nhau, do đó có thể gây ra một sự hiểu lầm đáng tiếc.
Có nơi hiểu “trí thức” theo nghĩa “có bằng cấp” (có lẽ vì vậy mà có lúc có người hám bằng cấp mà không trọng sự hiểu biết tương xứng), có người định nghĩa “trí thức” là “người làm việc bằng trí óc” 1 (nhưng trong một xã hội công nghiệp hoá cao, đôi khi khó phân biệt được ranh giới giữa lao động trí óc và lao động chân tay). Ở các nước đã phát triển, ngày nay, nhiều người hiểu “trí thức” theo nghĩa “không những là người làm việc bằng trí óc, mà đồng thời còn là người quan tâm đến những vấn đề nhân bản, đến sự tiến triển của xã hội, của thế giới, của nhân loại...”, phần nào phân biệt với những người làm việc bằng trí óc mà chỉ chăm chú làm việc nghề của mình, mà người ta gọi là những “chuyên gia kỹ thuật” 2. Phải chăng cũng na ná như sự phân biệt, rất ý nhị, giữa “sĩ phu” và những người “làm thơ, làm phú” thuở xưa?
Cùng hiểu định nghĩa như nhau, thì mới có thể đại khái đồng ý với nhau về “chỗ đứng và vai trò của người trí thức trong xã hội”. Nếu người trí thức chỉ là người “chuyên gia kỹ thuật”, thì đúng là họ chỉ làm việc chuyên môn, còn “chuyện đời” thì để cho người khác lo. Còn nếu hiểu người trí thúc theo nghĩa “sĩ phu” của thời hiện đại, thì dễ chấp nhận vai trò của họ trong những việc nêu ý và đề nghị giải pháp, làm nhân chứng cho thời đại, phê bình, tranh luận phải trái, nghĩa là dễ chấp nhận sự tự do phát biểu ý kiến...
Nhưng người “trí thức” chỉ tranh luận ý kiến. Khi đi vào hành động, họ sẽ bước qua ranh giới của người làm chính trị. Đó lại là một chuyện khác!
1 Như Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1977.
2 “Kỹ thuật” hiểu theo nghĩa rộng.
Các thao tác trên Tài liệu