Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Báo cũ / Số 18 / Chân dung một chế độ

Chân dung một chế độ

- Đơn Hành — published 01/01/2011 00:15, cập nhật lần cuối 06/02/2011 23:23


Chân dung một chế độ


Đơn Hành

 

Đa số người Việt, kể cả người cộng sản, muốn đấu tranh cho tự do, dân chủ. Đối tượng của họ là ai? Ở Việt nam ngày nay, phe nào, gồm những ai, nắm chính quyền, và nắm tới mức nào? Ngay người cộng sản cũng không biết được!

Chế độ Việt Nam thuộc loại chế độ toàn trị (totalitarisme, theo định nghĩa của Hannah Arendt) chưa hoàn chỉnh. Quá trình hình thành chế độ toàn trị do các đảng cộng sản tiến hành có mấy đặc điểm phổ biến:

1. Thủ tiêu, vô hiệu hoá tất cả các lãnh tụ có tầm vóc, tên tuổi, uy tín của đảng.

2. Thủ tiêu, khai trừ, vô hiệu hoá đảng viên có lý tưởng, có ý thức trách nhiệm, bằng hai biện pháp cơ bản: thanh lọc, và kết nạp ồ ạt đảng viên mới, lấy thịt đè người.

3. Vô hiệu hoá Nhà nước, các tổ chức quần chúng, dùng chúng làm cây kiểng bình phong cho đảng.

4. Vô hiệu hoá bản thân đảng, dùng đảng làm bình phong cho ban chấp hành trung ương.

5. Vô hiệu hoá ban chấp hành trung ương, dùng nó làm bình phong cho bộ chính trị.

6. Vô hiệu hoá bộ chính trị, dùng nó làm bình phong cho tổng bí thư, ban bí thư, ban tổ chức trung ương.

7. Dùng công an kiểm soát, kiềm chế tất cả các tổ chức mặt tiền cũng như nội bộ đảng, ở mọi lớp vỏ, mọi cấp bực.

8 Phân tán bản thân công an thành nhiều guồng máy, đan chéo nhau, khiến ngay cả thủ trưởng công an cũng không nắm được toàn bộ guồng máy này.

Khi nó hoàn chỉnh, cái “thể chế” lạ lùng này có một đặc điểm hoàn toàn mới lạ, khó hiểu: bất cứ ai, ở bất cứ cương vị nào, kể cả thủ trưởng công an, bất cứ lúc nào, cũng có thể bị loại trừ mà không tài nào đoán được vì sao và quyết định cuối cùng do ai!

Phương pháp, những bước đường thực hiện quá trình này có thể khác nhau. Bước đầu của nó, bước khó khăn nhất, là loại trừ đảng viên thời dựng đảng, thường là người đi tới chủ nghĩa cộng sản vì lý tưởng, vì ý thức trách nhiệm.

Năm 1945, đảng cộng sản Việt Nam có khoảng 5000 đảng viên, trong đó có khoảng 1800 nằm tù. Đảng ấy có tính chất tiên phong rõ rệt. Từ đó tới 1953, đảng ấy phát triển trong lò thử thách của kháng chiến chống Pháp. Theo tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam, lúc đó có 740.000 đảng viên. Tình hình Việt Nam lúc đó khá đặc biệt. Lực lượng duy nhất đáng kể, có tổ chức, là đảng Lao động. Nhưng chính quyền quốc gia lại nặng tính chất mặt trận dân tộc. Những người như ông Lê Đức Thọ, thậm chí ông Trường Chinh, không có vai trò, quyền hành lớn trong chính quyền. Lúc đó, “ vai trò lãnh đạo của đảng” không là một nguyên tắc của chính quyền.

Năm 1953, cuộc thanh lọc bắt đầu, đẫm máu: cải cách ruộng đất, rồi chỉnh đảng. Tài liệu về sự kiện này còn hiếm hoi, nhưng cũng đủ để xác nhận: bộ máy điều khiển cải cách ruộng đất đã giết 11.000 đảng viên, khai trừ, cách chức một số (không khẳng định được) đảng viên, đoàn viên, cán bộ... và thay vào đó một lớp người nhờ vả nó mà có quyền lực, thậm chí có tư duy “mới”! Theo “thống kê” của ban cải cách ruộng đất, 40% đảng viên, cán bộ, thuộc thành phần phản động, là người của địch gài vào tổ chức? Tỷ lệ khôi hài đó tiết lộ quy mô của cuộc thanh trừng nội bộ đảng. Không biết, sau cải cách ruộng đất, trong đảng còn lại được bao nhiêu người đã gia nhập đảng trên cơ sở ý thức cách mạng của cá nhân mình mà còn được trọng dụng, tin cậy? Song song với cuộc thanh trừng này, đã hình thành một bộ máy quyền hành tập trung vào ban tổ chức trung ương? Bộ máy ấy đã làm bàn đạp cho các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ củng cố quyền lực năm 1960? Điều chắc chắn là từ đó: a/ quyền lực nhà nước đặt dưới quyền lực của đảng, b/ các lãnh tụ lịch sử như Hồ Chí Minh, Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, và ngay cả Trường Chinh, ngày càng bất lực. Một thủ tướng, đồng thời là ủy viên bộ chính trị, mà không có quyền bổ nhiệm bộ trưởng của mình nghĩa là gì? Nghĩa là, đơn giản, ông không thực sự nắm chính quyền. Một đại tướng, đồng thời là bộ trưởng bộ quốc phòng và uỷ viên bộ chính trị, lúc điều quân, chỉ còn là một uỷ viên bình thường của Quân uỷ trung ương là thế nào? Là không còn quyền điều khiển quân đội nữa.

Có lẽ nếu chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1954 bằng sự toàn thắng thì chế độ Việt Nam đã mau chóng đi vào khuôn mẫu Staline, và người nắm quyền lực duy nhất còn lại có lẽ là ông Lê Đức Thọ. Nhưng chiến tranh, tuy thuận lợi cho sự hình thành chế độ toàn trị, cũng tạo điều kiện cưỡng lại nó. Trong chiến tranh, nhất là một cuộc chiến tàn bạo, dai dẳng như chiến tranh Việt Nam, nắm một guồng máy vô danh không đủ để tồn tại, huống chi là chiến thắng. Nếu chỉ cần bấy nhiêu, phương tiện kỹ thuật, trình độ tổ chức của Mỹ đã thắng từ lâu. Cứ coi chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Vịnh cũng đủ thấy. Chiến tranh là một loại quan hệ giữa người với người. Chiến thắng đòi hỏi ý chí chiến đấu và tổ chức, ý chí của những con người có tổ chức, tổ chức của những con người có ý chí chiến đấu tới cùng. Trong chiến tranh, lý tưởng cộng sản của đảng viên, đoàn viên, lòng yêu nước của quần chúng, quân đội... là điều kiện tồn tại của bản thân cái guồng máy hình thành qua cải cách ruộng đất. Ông Lê Đức Thọ giỏi nắm guồng máy, nhưng chưa hề có tác phẩm lý luận đáng kể, chưa hề sáng tạo một khẩu hiệu chính trị có sức lôi cuốn quần chúng. Ông Lê Duẩn, ngược lại, là một trong những lãnh tụ cộng sản viết lách nhiều nhất, tạo ra một số luận điểm lý thuyết, khẩu hiệu có thể dùng để củng cố niềm tin và cổ vũ quần chúng. Hai người này bổ sung cho nhau.

Phải tới năm 1975, trong hoà bình, quá trình “xây dựng” chế độ toàn trị mới phát triển hết mình theo lôgíc riêng của nó, dẫn tới sự vô hiệu hoá hoàn toàn Nhà nước, đảng và đảng viên. Các lãnh tụ lịch sử lần lượt về hưu. Các tổ chức quần chúng bị tê liệt hoá, biến thành cây kiểng, bình phong. Các cấp chính quyền, quân đội, đảng, ồ ạt đổi tay, ngày càng lệ thuộc một bộ máy duy nhất: công an. Trước khi ông Lê Đức Thọ chết, lãnh tụ số hai của đảng là một ông... Nguyễn Thanh Bình, không ai biết là ai! Một con người của bóng tối! Trong thời gian này đảng cộng sản mở hai đợt kết nạp đảng viên, và nhiều cuộc thanh lọc ráo riết. Ở Việt Nam, có chuyện tiếu lâm: mỗi lần đảng kết nạp đảng viên, xã hội sạch sẽ thêm một tí. Đủ thấy dân đen tinh mắt.

Ngày nay, tìm hiểu ai thực sự nắm quyền ở Việt Nam thật không phải chuyện dễ. Đằng sau các lớp bình phong, kể cả bộ chính trị, ai nắm những gì? Cuối cùng, ai nắm công an, quân đội và thực sự nắm tới mức nào? Ngay người đảng viên cũng không thể biết được?

Phải chăng chế độ cộng sản là một loại chế độ tôn giáo? Điều này đúng một phần, phần ngoài mặt. Về lý thuyết, nó dùng một thần linh (Lịch sử) làm nền tảng cho quyền lực. Nhưng mọi thể chế tôn giáo đều dựa vào hai yếu tố: a/ lòng sùng đạo của quần chúng; b/ một tổ chức công khai, có mặt, có ngọn, có ngành. Ngay trong một chế độ như thế, quyền lực cũng có giới hạn, có ranh phận. Từ trên xuống dưới đều có chức, có phận, có tên, có quyền và trách nhiệm thực thụ. Chế độ toàn trị khác hẳn. Nó không cần lòng sùng đạo của quần chúng để tồn tại, đó chỉ là một lớp son chẳng mấy ai chú ý, nhất là những người nắm quyền lực.

Phải chăng chế độ hiện hành ở Việt Nam là chế độ công an trị? Điều đó hiển nhiên, nhưng cũng chỉ đúng một phần. Nó che lấp tính đặc thù của chế độ. Trong một chế độ công an trị, tổ chức công an, tuy bí mật, vẫn là một hệ thống thông suốt, dưới quyền chỉ huy của một thủ lĩnh. Mặt tiền của nó trung thực với thực thể của nó. Đánh gục đầu não của nó, nó sẽ tan rã. Chánh quyền ông Diệm, ông Nhu, đoạn cuối, mang tính chất ấy. Chế độ toàn trị mang tính chất khác: một Beria 1 quyền bính đến thế, chỉ cần hai lính quèn cũng đủ bắt và loại. Nhưng toàn bộ hệ thống quyền lực lại không sứt mẻ, ngay Khroutchev cũng phải phục tùng. Chế độ toàn trị là một loại chế độ công an trị vô danh.

Vậy chế độ hiện hành ở Việt Nam là chế độ toàn trị? Cũng lại chỉ đúng một phần. Từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, nó đều có điểm giống và điểm khác cơ bản với Liên xô thời Staline. Thường dân tỏ ra nhạy bén hơn chính khách và các nhà lý luận chính trị khi định nghĩa nó: mafia da vàng. Trong tư cách ấy, quyền lực của những người thực sự nắm quyền ở Việt Nam hôm nay không thuộc loại quyền lực chính trị. Nó là quyền lực vô danh của mafia.

Quyền lực chính trị, chính quyền, là một hình thái quan hệ cộng đồng công khai giữa người với người. Nó hình thành khi con người cùng hành động trong không gian công cộng. Qua quá trình ấy, con người tạo và trao quyền lực cho nhau, ở nhiều mức độ, bằng nhiều phương pháp, qua nhiều hình thức khác nhau. Bất kể phương pháp, hình thức nào hình thành ra nó, chính quyền luôn luôn mang tính chất công khai. Nó có mặt tiền khớp với thực thể của nó. Vì thực thể ấy thể hiện quan hệ cộng đồng giữa con người, nó có một tính đặc thù: nó chỉ tồn tại hữu hiệu khi con người tin tưởng vào nó. Người nắm chính quyền thực sự có quyền lực khi chế độ chính trị thể hiện luật chơi được một cộng đồng dân tộc chấp nhận, bảo vệ, nuôi dưỡng. Nói thế nghĩa là: văn hoá là nền tảng cuối cùng của mọi thể chế chính trị. Điều này không có nghĩa chế độ chính trị có thể độc lập hoàn toàn với nền tảng kinh tế. Nhưng, trên cùng một nền tảng kinh tế, con người có thể sáng tạo nhiều chế độ chính trị khác nhau, có khi một cách rất cơ bản, thí dụ như nền dân chủ Athènes xây dựng trên cơ sở kinh tế nô lệ! Tiềm năng sáng tạo ấy nằm trong văn hoá của các cộng đồng người.

Quyền lực của mafia đương nhiên cũng là một hình thái quan hệ giữa người với người. Nhưng nó không thuộc loại quyền lực chính trị. Nó thuộc loại quyền lực của rừng già. Nó hình thành qua sự cấu kết trong bóng tối của những kẻ vô danh, sử dụng bạo lực dưới dạng khủng bố để hà hiếp, trấn áp đồng loại. Vì nó thuộc loại quan hệ rừng già, nó không cần, không muốn, không thể thể chế hoá được, nó không thể có mặt tiền trung thực với thực thể của nó. Nó phải núp sau những bình phong bất lực như đảng, Nhà nước, tổ chức quần chúng. Chính nó lập ra những bình phong bất lực ấy. Chính nó tổ chức những đại hội đảng, bố trí thành phần ban chấp hành trung ương, bộ chính trị, ban bí thư, ban tổ chức trung ương. Chính nó đặt ra những nguyên tắc sinh hoạt và hành động khiến không ai tài nào biết được ai thực sự trách nhiệm cái gì trong đảng. Xuyên qua đảng, nó giựt giây Nhà nước, tổ chức quần chúng. Người ta sợ nó như con thú sợ rừng già: nó không có mặt, không có tên. Sự sợ hãi của thời nguyên thuỷ ấy chính là điều kiện tồn tại của quyền lực mafia. Khủng bố ngầm là vũ khí cơ bản nhất của nó. Vì thế, ngay trong thế mạnh, nó vẫn ngại phải dùng tới toà án, ngại lộ diện. Điều kiện tồn tại cơ bản nhất của nó là bóng tối. Lôi được nó ra ánh sáng, bắt nó hiện nguyên hình, là mở màn khai trừ nó. Không phải tình cờ mà chính sách đã dẫn nó tới sự tiêu vong mang tên Glasnost! Không phải tình cờ mà nó suy thoái nhanh khi nó buộc phải lộ mặt mới hành động được. Không phải tình cờ mà trong chính sách đổi mới của đảng cộng sản Việt Nam, điều khó đổi mới nhất là công khai hoá quyền lực, là nói thẳng, nói thực.

Ngày nào quyền lực kiểu mafia chi phối được toàn bộ xã hội, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, trong bất cứ lĩnh vực sinh hoạt nào, ngày đó hình thành chế độ toàn trị. Ngày đó nó có thể cử bất cứ ai, càng ít bản lĩnh càng tốt, vào các cơ quan bình phong của nó, kể cả bộ chính trị. Khi “đại diện” khốn khổ của nó phải công khai đảo chính Gorbatchev, mọi người ngỡ ngàng chứng kiến một mớ anh nhợt nhạt, nháo nhác như thây ma: họ đã phải lộ mặt dưới ánh đèn.

Quá trình hình thành chế độ hiện hữu ở Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh phức tạp, có nhiều yếu tố thuận và nghịch khuynh hướng hình thành quyền lực kiểu mafia. Yếu tố thuận lợi đầu tiên là sự khủng bố những người yêu nước của thực dân, đế quốc, dồn họ vào hoạt động bí mật. Yếu tố thuận lợi thứ hai chính là chiến tranh. Chiến tranh đòi hỏi tổ chức và kỷ luật thép. Chiến tranh cách mạng giữa một lực lượng ban đầu nghèo nàn, yếu ớt, với một đại cường quốc, đòi hỏi một tổ chức bí mật tối đa. Người chiến đấu biết vì sao mình chiến đấu, không biết ai thực sự lãnh đạo mình.

Cưỡng lại khuynh hướng trên, có một số sự kiện.

1. Chiến tranh cách mạng Việt Nam, đoạn hai, tiến hành trong sự tranh chấp giữa Liên xô và Trung quốc. Những nhà lãnh đạo Việt Nam phải luôn luôn chơi trò đi trên dây căng, tìm thêm đồng minh ở những phía khác. Qua quá trình này, người Việt cũng hiểu phần nào giá trị hết sức tương đối của chủ nghĩa quốc tế vô sản và tấm lòng vị tha đáng khả nghi của hai ông anh lớn. Khroutchev và Chu Ân Lai bắt tay nhau, ép Phạm Văn Đồng ký Hiệp định Genève 1954, Khroutchev chủ trương đưa hai nước Việt Nam vào Liên Hiệp quốc, Mao Trạch Đông vừa hô hào đánh Mỹ, vừa tổ chức tiếp đón Nixon, rồi cả Liên xô và Trung Quốc cùng cúp viện trợ quân sự sau 1973. Bấy nhiêu cũng đủ để người Việt thấy tính chất hết sức tương đối của các chủ nghĩa cộng sản!

2. Bản thân chiến tranh là một cản trở to lớn đối với sự hình thành, củng cố và phát triển quyền lực kiểu mafia. Chiến tranh là thử thách lớn nhất với mọi tổ chức, mọi con người. Nó đòi hỏi ý chí chiến đấu và chiến thắng của quần chúng, của quân đội, của đảng viên, đoàn viên. Chiến tranh chấm dứt khi một đối thủ bị tiêu diệt hay mất hết ý chí chiến đấu. Cái ý chí ấy, tiền. vũ khí, kỹ thuật, kỷ luật, công an đều không đủ khả năng xây dựng, duy trì. Mỹ đã thua vì, tuy dư tiền, dư vũ khí, dư kỹ thuật, dư khả năng tổ chức, nhưng lại thiếu ý chí chiến đấu của quần chúng. Đảng cộng sản đã thắng vì có ý chí ấy và có đủ người Việt Nam chia sẻ ý chí ấy. Chính vì thế, trong chiến tranh nó còn tồn tại được với tư cách một cái đảng, chưa bị guồng máy quyền lực kiểu mafia kia rút ruột, hớp hồn: nó là bia đỡ đạn cho guồng máy ấy.

3. Người Việt không có truyền thống cuồng tín. Kiến thức bị giới hạn của họ về thế giới hiện đại khiến họ dễ chấp nhận niềm tin của những người đứng mũi chịu sào trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, mặc dù họ chẳng hiểu biết gì về chủ nghĩa mác xít. Niềm tin này nặng tình cảm, đạo đức hơn lý trí, tôn giáo. Một khi đất nước đã độc lập, thống nhất, chẳng mấy ai ham tử vì đạo.

4. Cuối cùng, quá trình hình thành chế độ Việt Nam hôm nay, sau thời chiến, khai triển lúc phe xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện. Bản thân Liên xô và Trung Quốc không đủ khả năng nuôi đỡ, dù ở mức ngắc ngoải, một nước đông dân như Việt Nam. Kinh tế Việt Nam sớm đi vào khủng hoảng, buộc đảng cầm quyền phải “đổi mới”. Quá trình hình thành chế độ toàn trị, do đó, cũng bị chựng lại ở một số khâu, đặc biệt khâu kinh tế.

Hiện nay, chế độ thực của Việt Nam là hậu quả của những sự kiện hỗn độn ấy. Về kinh tế, Việt Nam đã đi vào thị trường tư bản quốc tế, đang lao vào phương thức sản xuất tư bản rừng, nặng tính mại bản, buôn người, bán nguyên liệu hơn tính sản xuất. Về quyền lực, có hai quyền lực song song. Đảng cộng sản tuy đã thủng ruột, nhưng chưa hẳn đã đứt ruột. Nó chưa thành đơn thuần một cây kiểng, một bình phong. Nó còn giữ vai trò quan trọng, mặc dù đã tê liệt khá trầm trọng. Guồng máy công an vô danh, quyền lực mafia, tuy rải rác khắp các nơi, các cấp, nhưng chưa nuốt chửng xong cả đảng lẫn quân đội, thậm chí chưa thống trị được toàn bộ guồng máy công an. Ba lực lượng có tổ chức duy nhất ở Việt Nam hôm nay là: đảng cộng sản, guồng máy công an vô danh, quân đội. Quân đội là lực lượng dễ bị lũng đoạn nhất, nhưng đồng thời khó kiểm soát nhất, vì lính gắn bó với dân, chỉ là lính tạm thời. Dùng quân đội nhân dân khó, dùng lính nhà nghề, lính đánh thuê dễ hơn. Khuynh hướng xây dựng quân đội nhà nghề có cơ phát triển mạnh. Ba lực lượng này vừa kèn cựa với nhau vừa đan chéo nhau. Cuộc tranh chấp sẽ dẫn tới gì? Một chế độ đảng trị hay quân phiệt bình thường? Một chế độ toàn trị? Một chế độ nào khác? Không ai tiên đoán được.

Những người mong muốn dân chủ, tự do cho đất nước, trong đó có người cộng sản chân chính, thuỷ chung với lý tưởng nhân đạo của mình, nhưng muốn quét sạch cái chủ nghĩa xã hội hiện thực mà họ nếm mùi đã quá thừa, cần nhận diện rõ đối thủ đích thực của mình: con bạch tuộc vô danh vô diện đang cắm vòi vào đảng, công an, quân đội, nhà nước và tài sản quốc gia.

Riêng với người cộng sản chân chính, đối thủ của họ không ở ngoài Việt Nam, không nằm trong quần chúng nhân dân, bất kể từng lớp nào. Nó nằm ngay trong lòng đảng. Nó là cái nọc độc các đồng chí cố vấn Trung Quốc đã cấy vào đảng cộng sản Việt Nam từ thời cải cách ruộng đất. Phải bứt nó đi, mới có cơ xây dựng lại một đảng lành mạnh, phục vụ lý tưởng, một thành viên bình thường của dân tộc. Hiện tượng cựu đảng cộng sản Lituanie, sau khi mất chính quyền, không còn gì hấp dẫn với giống bạch tuộc nữa, thắng cử trong một cuộc bầu cử tự do, đáng để cho mọi người suy ngẫm.

Những người hô hào chống cộng một cách hồ đồ, vơ đũa cả nắm, miệt thị đồng bộ các lãnh tụ của đảng cộng sản và kháng chiến Việt Nam, toàn bộ những người cộng sản Việt Nam, không những chơi trò trứng chọi đá vô bổ, mà còn tạo cho con bạch tuộc kia điều kiện thuận lợi nhất để núp sau cái “chiến tranh” ấy mà lớn mạnh. Do đó, chính nó cũng nỗ lực tưới dầu vào ngọn lửa còm, đồng nhất tất cả người Việt ở hải ngoại với vài tổ chức “chống cộng” le que, gây căng thẳng tối đa làm hoả mù cho nó. Trong khi đó, nó trịnh trọng trải thảm đỏ rước tư bản quốc tế vào kinh doanh.

Con bạch tuộc vô danh kia là đối thủ đích thực của mọi phong trào và đảng phái chính trị, bất kể chính kiến, kể cả của đảng cộng sản Việt Nam, vì quyền lực nó nhắm không thuộc loại quyền lực chính trị mà thuộc loại quyền lực mafia. Do đó, nó chỉ có thể sống và lớn mạnh trong bóng tối. Vũ khí nguy hiểm nhất đối với nó không phải súng đạn mà là ánh sáng, là nói thẳng, nói thật, nói công khai. Như Dương Thu Hương chẳng hạn. Lôi được nó ra ánh sáng, nó sẽ khắc khoải ngay. Hiện nay nó sợ nhất ánh sáng của thị trường, của thông tin, ngôn luận. văn học và nghệ thuật. Vì sao?

Vì ăn mút giữa thanh thiên bạch nhật của thị trường tự do khó hơn bòn rút ruột gan của nhà nước, của nhân dân trong bóng đêm của “thể chế” toàn trị. Tuy vậy, dưới dạng tư sản đỏ, cấu kết với tư sản quốc tế, nó có khả năng chiếm quyền lực kinh tế. Nếu chuyện ấy thành, nó sẽ thôn tính cả đảng, quân đội công an, nhà nước, bằng... dollars. Ngược lại, nó bất lực trước ánh sáng của thông tin, ngôn luận, văn học và nghệ thuật, vì khả năng tồn sinh của nó gắn liền với quy luật của rừng già. Nó có thể tự thích hợp với thị trường tự do, không thể tự thích nghi được với tự do thông tin, ngôn luận...

 

1 Người phụ trách bộ máy công an dưới thời Stalin. Năm 1953, sau khi Stalin chết, Beria bị thủ tiêu.

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
Nouvel Obs, soirée Indochine, la colonisation oubliée 25/04/2024 18:30 - 22:00 — 67 av. Pierre Mendès France, 75013 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
CONFÉRENCE DÉBAT 24/05/2024 19:00 - 23:00 — la Médiathèque JP Melville (Paris 13e)
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss