Hồi ức tuổi thơ: Đồng chiêm
Đồng chiêm
Văn Ngọc
Gia
đình nhà tôi tản cư về quê nội Hà Nam thấm thoát đã được một năm.
Làng tôi ở ngay gần đường số 1, đường chiến lược nối liền Hà Nội với
Nam Định, cho nên hay bị càn quét. Lần cuối cùng, cách đây không bao
lâu, chúng tôi đã phải chạy dạt vào đến tận Duy Tiên và ở nhờ dân làng
Giáp Ba mấy tháng trời, chờ cho yên rồi mới dám quay trở về làng mình.
Lần này trở về Dũng Kim, ngôi nhà gạch hai tầng của thầy tôi đã bị phá
tan hoang. Không còn chỗ ở nữa, chúng tôi phải ở cái nhà ngang, trước
kia dành cho gia đình vợ chồng anh trưởng Tôn, người trông nom vườn
tược cho thầy tôi từ ngày xưa. Anh trưởng Tôn trước kia, cùng với anh
Thém (xem Hà Nội những ngày khói lửa), là thợ cả trong xưởng làm đồ da
của thầy tôi ở trên Hà Nội trong nhiều năm, nên anh đối với chúng tôi
rất là thân thiết. Bây giờ cả hai gia đình cùng ở chung dưới một mái
nhà, nhưng nhà nào vẫn giữ nếp sinh hoạt của nhà nấy.
Gia đình anh chị trưởng Tôn làm lụng quần quật suốt ngày, sáng dậy từ
bốn năm giờ sáng để ra đồng, hay lên vườn làm việc, mà quanh năm chỉ ăn
dong, ăn khoai. Đây cũng là cái cảnh nghèo khổ chung của phần lớn dân
làng tôi, nhất là từ khi có chiến tranh, trai tráng trong làng trước
kia ở trên Hà Nội làm nghề đồ da với thầy tôi, nay không có việc làm
nữa, phải trở về quê làm ruộng, hoặc đi bộ đội.
Còn gia đình nhà tôi là dân buôn bán ở trên tỉnh, bây giờ về đây không
biết làm gì cả, mà tiền ăn thì cứ ngày một cạn dần. Thầy tôi lúc chạy
đi chỉ mang theo được có một số tiền nhỏ, tiêu chưa được mấy tháng đã
hết. Ruộng nương ở nhà quê, thầy tôi cho họ hàng làng nước làm, từ bao
nhiêu năm nay không bao giờ lấy của ai một đồng xu nào, bây giờ về đây,
mặc dầu gặp bước khó khăn, nhưng cụ cũng không muốn đòi hỏi gì của ai
hết. Tính cụ khí khái đã quen, chỉ biết cho thôi, chứ không biết ngửa
tay xin ai cái gì bao giờ cả, nhất là đối với những người mà cụ coi vào
hạng đàn em trong làng. Đối với người làng này, cụ vẫn được coi như một
thần tượng, một mình tay trắng làm nên, đã cưu mang, dạy nghề làm đồ da
cho hầu hết trai tráng trong làng từ hai ba thế hệ nay. Cụ cũng đã là
người xây đình, xây miếu, xây chùa, đào ao, đào giếng, cho làng.
Ngôi nhà gạch hai tầng, mới ngày nào còn là nơi đoàn tụ của mấy gia
đình từ Hà Nội, Hải Phòng, tản cư về đây, bây giờ chỉ còn lại những bức
tường không có mái che và những khung của sổ trống hốc, nhìn thấy trời.
Nhưng rồi chúng tôi cũng quen đi với khung cảnh mới. Cuộc đời tản cư
vẫn cứ tiếp tục và chúng tôi sẽ còn phải trải qua nhiều thử thách khác
nữa.
Từ sau khi làng tôi bị quân Pháp càn quét lần cuối cùng, và hàng loạt
tai hoạ đã xảy ra ở đây, một không khí lo âu đè nặng lên xóm làng và
trong tâm tư mọi người.
Lúc
này, gia đình nhà tôi bắt đầu túng thiếu thật sự. Một ông "chú" họ,
có máu mặt ở xóm đạo bên kia sông, nhận lời mua lại của thầy tôi tất cả
đống vì kèo bằng gỗ tứ thiết dỡ ra từ ngôi nhà tây cũ. Nhưng với vài
ngàn đồng lúc bấy giờ, ăn cũng không được bao lâu. May mà ở quê tôi cá
mú, thịt thà cũng rẻ, rau cỏ lại càng không hiếm. Ngay đằng sau nhà
chúng tôi có con sông gọi là sông Tắc. Trên sông có xóm chài cũng thuộc
xã Dũng Kim. Dân xóm chài không phải gốc gác vùng này, nghe đâu lưu lạc
từ trong Thanh, trong Nghệ ra. Mỗi sáng, chúng tôi ra bờ sông đón mua
những mẻ cá tươi còn nhảy ở trong rổ, mà giá có vài hào bạc. Đất quê
tôi là đất bồi, đất phù sa, cho nên đây chính là quê của lạc, của mía,
của đỗ tương, của khoai lang, dong, riềng, của su hào, bắp cải, cải ta,
v.v. Cho nên, mặc dầu trong nhà túng thiếu, nhưng chúng tôi cũng chưa
đến nỗi chết đói.
Tôi còn nhớ mãi những bữa cơm thanh đạm, cả về chất lẫn lượng, nhưng
vẫn giữ được cái phong cách Hà Nội, với những món ăn rất thường, như
tôm rang, dộng rang, cà nén, cà dầm tương, canh mướp, canh rau muống,
đậu rán chấm tương, trứng bác với tương, lạc rang chấm nước mắm, v.v.
toàn dùng những thực phẩm rẻ tiền mà ở Hà Nội chúng tôi cũng vẫn thường
ăn. Lâu lâu, chị tôi cho ăn sang hơn, bữa cơm có cả thịt gà (do chúng
tôi nuôi), cá dầu rán, cá bống kho, v.v.
Làng tôi ở một vị trí tương đối hẻo lánh, nên chúng tôi từ khi về đây
không hay biết một tí gì về tình hình chiến sự chung. Tin tức bên ngoài
không mấy khi lọt được tới đây, báo chí cũng tuyệt nhiên không có để mà
đọc. Hoạ hoằn, khi nào anh tôi đi đâu xa về, mới có được một vài chuyện
để kể cho cả nhà nghe.
Tình hình đã đến lúc phải kiếm ra một việc gì làm ở đây để sinh sống.
Trong thời gian ở nhờ trong huyện Duy Tiên, chúng tôi được biết là ở
làng Đọi Lĩnh, ngay dưới chân núi Đọi, người ta có nghề kéo sợi, dệt
vải, làm ăn phát đạt lắm. Một gia đình trước kia cũng là thương gia ở
Hải Phòng, chạy cùng với chúng tôi từ Dũng Kim vào Duy Tiên, đã sắm
guồng và mua con bông về cho con cái làm thử, thấy cũng dễ, nên mách
cho chúng tôi cùng làm. Thế là tôi được cử sang Duy Tiên học nghề để về
dạy lại cho cả nhà. Lúc ấy tôi mới mười ba tuổi. Được thầy tôi và anh
chị tôi giao cho nhiệm vụ quan trọng này, trong bụng lấy làm hân hoan,
sung sướng lắm, tôi đi một mình sang Duy Tiên vì đường lối đã quen
thuộc từ trước rồi. Vài ngày sau, anh tôi vào đón tôi ra. Hai anh em
mang theo về một chiếc guồng làm mẫu. Thầy tôi nhờ anh trưởng Tôn đóng
ngay cho ba chiếc khác giống như hệt.
Anh trưởng Tôn trước kia đã làm thợ da lâu năm với thầy tôi, sau về nhà
quê lại quen với những công việc đan lát, làm các dụng cụ bằng tre, nên
anh khéo tay lắm. Anh chỉ nhìn qua chiếc guồng mẫu một lần, rồi lẳng
lặng vác con dao rựa đi đẵn một cây tre về. Thế là chỉ nội trong ngày
hôm sau, anh đã làm xong ba chiếc guồng mới tinh, để cho ba chị em
chúng tôi bắt đầu truyền nghề cho nhau và đi vào sản xuất. Khoảng một
tuần lễ sau, chúng tôi đã kéo được mẻ sợi đầu tiên đem vào trong Đọi
Lĩnh bán. Mọi sự trôi chảy cả, người ta còn khen là sợi của chúng tôi
quay khéo nữa. Chỉ có một điều là tiền lời lãi thu vào không được là
bao nhiêu so với công sức bỏ ra. Về nhà ai nấy đều thấy là không bõ,
thế là cái dự án đó bị dẹp đi.
Ít lâu sau, một người trong làng, cũng là thợ cũ của thầy tôi, rủ anh
tôi đi vào Nho Quan, Hoà Bình buôn nứa, rồi chở nứa về đến sông Cái
bán. Thầy tôi bằng lòng để cho anh tôi đi với một cái vốn là 500 đồng.
Mười lăm ngày sau, anh tôi chở được bè nứa về đến chỗ ngã ba Chợ Sông,
rồi nhắn người về qua làng báo cho chúng tôi biết, và xin phép thầy tôi
cho tôi đến thăm bè nứa của các anh. Gọi là "bè nứa", nhưng thật ra
đây là những cây bương, thân rất to và thẳng, trông thật sướng mắt.
Thân cây bương, như còn mang theo cái dư hương hoang dại của núi rừng.
Tôi được ngủ một đêm trên bè nứa, vừa thích, nhưng cũng vừa sợ, vì nằm
giữa trời, xung quanh trống trải, bè không có khoang, không có mái,
trong đêm khuya bến sông mênh mông, tối như mực, chỉ thấy ở tít tận
đằng xa một vài chấm lửa, và thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng bì
bõm như tiếng con vật gì đang bơi lội ở dưới nước.
Chuyến đi buôn nứa của anh tôi rốt cục cũng chẳng ăn thua gì, vì tính
ra cũng được quá ít lời lãi, mà lại tốn không ít công sức. Anh lại xin
phép thầy tôi, vác ba-lô đi về những vùng Diêm Điền , chợ Đại, v.v.
Đương tuổi thanh niên, lúc đó anh tôi thực ra chỉ mới có mười tám tuổi,
nhưng đã được đi nhiều nơi ở hâu phương, và anh hay kể cho tôi nghe
những chuyện vui anh gặp ở dọc đường. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ là
những câu chuyện những ngày đầu kháng chiến, dân thành thị ra ngoài rồi
gặp lại nhau ở những nơi buôn bán sầm uất, nhộn nhịp như : Đồng quan,
Vân Đình, Chợ Đại, v.v. Có một dạo anh được đi theo đoàn ca kịch Khu Ba
sang đến tận Thái Bình, lấy làm thích thú lắm.
Một
hôm, ông Bá Mỹ, chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Dũng Kim dẫn một anh
cán bộ tỉnh, dáng người Hà Nội, đến chơi nhà thầy tôi. Chị tôi nhận ra
anh là một sinh viên đại học đã cùng học với chị ở Hà Nội. Hai người
trò chuyện lân la đến chuyện chị tôi muốn tìm một chỗ dạy học. Anh cán
bộ cho biết là ở Bối Cầu, cách Dũng Kim chừng 30 cây số, vừa mới mở một
trường trung học, chị tôi có thể xin vào đấy dạy được. Anh viết giấy
giới thiệu và chỉ cho chị tôi đường đi Bối Cầu.
Thế là vài ngày sau, một sáng sớm, chị tôi và tôi khăn gói lên đường đi
Bối Cầu, trong lòng nửa mừng, nửa lo. Mừng vì thấy loé ra một chút hi
vọng, còn lo vì sang bên ấy lạ nước, lạ cái, không biết người ta như
thế nào, và cái trường kia ra sao. Nhưng đã đến nước này, thì đành phải
liều thôi.
Hai chị em bước rảo, không ai nói với ai nửa lời. Chị tôi tính tình rất
cương quyết, đã định việc gì thì như đinh đóng cột. Bây giờ chỉ còn một
nước là đi tới thôi, không còn thể nào do dự được nữa.
Vừa đi, tôi vừa nghĩ ngợi, vừa thương cho chị, mà cũng vừa lo cả cho
phận mình. Hơn một năm nay, tôi không có được lấy một cuốn sách để đọc,
hay để học. Thật ra, từ ngày tản cư về đây, chưa có lúc nào tôi thấy
buồn chán. Cuộc sống ở nông thôn đã dạy cho tôi nhiều cái mới lạ, khơi
dậy trong tôi những tình cảm sâu kín của mình đối với thiên niên, đối
với đồng ruộng… Sau này, nghĩ lại tôi càng thấy rằng không thể có bài
học nào quý báu hơn là bài học ấy.
Chúng tôi đi qua những xóm làng chưa hề đặt chân tới, mà dường như đã
quen biết từ lâu. Vẫn những vòm tre rậm rạp, gần gũi, vắt ngang qua
những con đường đất, hai bên là những bụi xương rồng, bụi mây, hay bụi
râm bụt, đằng sau là những vườn cam, quít. Chúng tôi vừa đi vừa hỏi
đường, thỉnh thoảng lại dừng lại nghỉ ở một quán hàng nước bên đường,
dưới gốc đa, gốc gạo.
Đi mãi, đến một nơi giống như một con đê nhỏ. Đằng trước mặt chúng tôi
mở ra một khoảng trống bao la. Ánh sáng ở đây làm loá mắt. Nhìn xuống
hai bên là đồng chiêm, nước ngập đến tận chân trời. Gió ở đây cũng
nhiều hơn, lạnh hơn.
Ngay bên đường, trước mặt chúng tôi có một quán nước, đông người lui
tới tấp nập. Trên đường đê, người ta gồng gánh, chào hỏi nhau í ới : "Các
bác về đâu đấy ạ ?". "Chúng em lên Yên Đổ đây.". Trong quán
hàng
nước, người ta cũng tỏ ra quen biết nhau như thể những người vẫn thường
đi lại trên con đường này, hoặc có thể chỉ là một cách làm quen : "Bác
người đâu đấy ạ ?".
Cái ngôn ngữ rất chân phương đặc biệt ấy của người dân ở nông thôn miền
Bắc, phải bắt gặp và nghe thấy trên những quãng đường quê này, mới thấy
thấm thía được cái hay của nó. Giọng nói của người địa phương Hà Nam
Nnh có một cái gì chắc nịch, mặn mà. Có lẽ ở miền Bắc, vùng này là một
trong những vùng, cùng với Hà Nội, có giọng nói rành rọt hơn cả. Sau
này, tôi mới được biết rằng đây chính là vùng có truyền thống hát chầu
văn rất độc đáo.
Chúng tôi hỏi thăm đường về làng Bối Cầu. Người ta chỉ xuống cánh đồng
chiêm trước mặt, về phía bên trái, và bảo chúng tôi : "Bối
Cầu ở ngay
trước mặt kia kìa !". Chúng tôi nhìn theo tay chỉ, thì thấy ở
tít đằng
xa, đến hơn một cây số, một xóm làng nằm chơ vơ như một hòn đảo nhỏ
giữa đồng nước mênh mông.
Chúng tôi rời đường đê, đi rẽ xuống con đường ruộng nhỏ dẫn thẳng đến
cái làng nổi trước mặt. Đường có quãng phải lội. Trời chưa đến nỗi rét
lắm, nhưng ở giữa nơi đồng không mông quạnh này, hai chị em vẫn thấy
chân tay lạnh cóng. Gió thổi lướt từng đợt nhẹ trên mặt ruộng nước, làm
gợn lên những vết nhăn, báo hiệu cái rét mướt của mùa đông. Nhìn những
vết nhăn trên mặt nước, không hiểu sao, ngay từ hồi nhỏ, tôi vẫn thấy
lòng như se lại, cũng như cảnh những người nông dân áo tơi nón lá, đi
co ro giữa những cánh đồng mưa gió, vẫn hay làm cho tôi ái ngại. Tôi
nghiệm thấy cái giá rét thường hay dễ đi vào trí nhớ cùng với nhừng kỷ
niệm sung sướng hay đau khổ trong một đời người.
Sau này, xa quê hương, cái giá rét ở đồng đất nước người không bao giờ
làm tôi quên được cái giá rét giữa đồng chiêm ngày ấy, và kỷ niệm này
luôn luôn theo đuổi tôi, ngay cả trong những giấc mơ. Có một dạo, đã
lâu lắm rồi, lúc đó tôi chỉ độ mười bảy, mười tám tuổi, đang học trung
học ở Pháp, hè đến hay sang Anh làm việc, vừa để kiếm tiền, vừa để học
tiếng, trong những trại canh nông ở vùng Kent, phía nam Luân Đôn. Vào
những ngày cuối tuần được nghỉ, nằm trong lều mái vòm bằng tôn, nghe
gió heo hút từ đồng xa thổi về, tôi vẫn hay nghĩ đến cái giá rét ở quê
nhà trong những kỷ niệm thời thơ ấu, từ cái gió heo may của Hà Nội mỗi
độ thu sang, đén cái rét trên cánh đồng chiêm làng Bối Cầu, giữa một
vùng nước trắng xoá.
Nhưng lúc này, chúng tôi như không còn để ý đến cái rét nữa. Hai chị em
tay nải vác vai, quần xắn lên quá đầu gối, cứ thế lội băng băng qua
những đoạn đường ngập nước.
Đi hết con đường ruộng, sang tới bờ bên kia là làng Bối Cầu. Chúng tôi
dừng lại để rửa chân, đi dép lại đàng hoàng, rồi mới bước vào làng.
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi, mà sau này tôi còn nhớ mãi, là một
bụi tre ngà nằm ngay trước cổng làng. Đây là bụi tre ngà đầu tiên mà
tôi được nhìn thấy. Thân tre to, óng mượt, màu còn đẹp hơn cả màu ngà,
chắc tuổi phải già lắm. Từ bụi tre phát ra những tiếng kẽo kẹt của thân
tre cọ vào nhau. Đúng là "tre ngà đưa võng"! Vẻ đẹp thần tiên của bụi
tre ngà làm chúng tôi đứng sững lại như trước một hiện tượng quý hiếm,
kỳ diệu của thiên nhiên.
Vào đến chỗ hẹn, chúng tôi được gia đình của ông hiệu trưởng đón tiếp
hết sức tử tế. Ông hiệu trưởng đi công tác vắng đến đêm mới về tới nhà.
Bà vợ ông người Huế, các cô con gái đã lớn, nói giọng Hà Nội. Chị tôi
trước kia quen làm dáng, sau một năm trời về sống ở nhà quê, không có
phấn sáp, nên chị hay có mặc cảm mỗi khi đi ra ngoài, và tự coi mình là
"người rừng rú", còn người ta mới là người thành thị. Mà quả thật như
vậy, ở đây người ta vẫn còn văn minh lắm, còn cả điã bát kiểu để ăn
cơm, các cô còn để tóc quăn, còn có thuốc để đánh răng, v.v.
Bà hiệu trưởng cho chúng tôi ăn một bữa cơm, không biết có phải là cơm
Huế không, chỉ biết là có một cái gì đó rất thanh cảnh, đài các hơn là
bữa cơm thường của một gia đình miền Bắc. Tôi chỉ còn nhớ có món cá hấp
chấm với một thứ tương mịn, có thể là tương mơ, ăn rất ngon. Cơm được
xới vào những cái bát xinh xinh, nhỏ chỉ bằng những cái chén. Phải
chăng đây cũng là một cách ăn "thanh đạm" để tiết kiệm như gia đình
chúng tôi ở bên Dũng Kim ? Nhưng lúc đó, chúng tôi chỉ thấy sao người
ta văn minh, lịch sự thế !
Chị tôi hỏi chuyện các cô con gái bà hiệu trưởng về chương trình học
hành. Mọi sự như đã có sắp xếp đâu vào đấy rồi, làm chúng tôi cũng yên
trí. Tối đến, tôi được ngủ trên một chiếc phản gỗ rộng có màn và chăn
đắp đàng hoàng. Nửa đêm, ông hiệu trưởng đi công tác ở xa về, cũng chui
vào ngủ ghé, nhưng rất ý tứ, sẽ sàng, không làm một tiêng động nhỏ. Rõ
ràng những người này là những người tử tế lịch sự, tôi nghĩ vậy trong
cơn mơ màng, rồi lại chợp ngủ thiếp đi ngay.
Sáng
hôm sau, tôi từ biệt chị tôi và gia đình ông hiệu trưởng lên đường
quay trở về Dũng Kim.
Một lần nữa, tôi lại phải lội qua cánh đồng chiêm. Gần tới bờ bên kia,
bỗng nhiên nghe thấy nhiều tiếng súng nổ từ xa và ở trên đê người ta xô
nhau chạy hớt hơ, hớt hải, vừa chạy vừa kêu : "Tây càn ! nó
sắp xuống
tới đây rồi !". Và người ta đổ xô nhau chạy về một phía.
Lúc này, trong bụng tôi phân vân vô cùng, không biết có nên quay trở
lại Bối Cầu với chị tôi, để chị em có nhau không, hay là về Dũng Kim
với thầy tôi. Cuối cùng, tôi lấy quyết định về Dũng Kim, vì tôi nghĩ
chị tôi có đi theo người ta dạy học ở cái trường kia, thì cũng là một
điều hay thôi, chứ về Dũng Kim đã chẳng làm được gì, lại không kiếm
được ra tiền để nuôi thân, nuôi gia đình.
Ngoảnh nhìn lại cái làng nổi ở giữa cánh đồng chiêm đằng sau lưng, tôi
chợt có một ý nghĩ trẻ thơ, ngộ nghĩnh, lúc ấy, là giá mà làm thế nào
bắn được một mũi tên vào trong ấy đưa tin cho chị tôi để mọi người chạy
cho kịp ! Nhưng đấy cũng chỉ là một ý nghĩ viển vông của trẻ con, còn
thực tế trước mắt là phải chạy nhanh đi khỏi chốn này.
Tôi đi một mạch không nghỉ, đến khoảng hai ba giờ chiều thì về tới Dũng
Kim. Kể lại chuyện Tây càn bên Bối Cầu cho thầy tôi và cả nhà nghe, ai
nấy đều lấy làm lo lắng.
Ăn cơm chiều vừa xong, thì đã thấy chị tôi lù lù về đến nơi, quần áo,
mặt mũi lấm đầy bùn. Thế là cả nhà lại vui vẻ trở lại. Thầy tôi, như để
tự an ủi, lại nói lại cái câu nói muôn thuở của các cụ : "Còn người là
còn của…". Chị tôi tuy vừa chạy về mệt đứt hơi, nhưng cũng kể lai ngay
cho chúng tôi biết là, khi được tin Tây càn, trường lấy quyết định dời
đi nơi khác, có lẽ là lên Việt Bắc. Người ta hỏi chị có thể theo được
không, chị đã phải từ chối, vì nghĩ đến chúng tôi, và thế là lại khăn
gói vác vai, lội một mạch qua cánh đồng chiêm để quay trở về Dũng Kim.
Nhiều năm sau, nghĩ lại đoạn đường gian nan của chúng tôi ngày ấy, tôi
thấy quả là chúng tôi, cả hai chị em, khi đó tuy tuổi còn non nớt, mà
có những lúc đã phải lấy những quyết định thật là hệ trọng, có thể thay
đổi cả cuộc đời mình.
Sau này, cái kỷ niệm về Bối Cầu còn đeo đuổi chúng tôi mãi, và trong
nhiều năm, lúc hai chị em còn ở gần nhau, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn
hay nhắc nhở đến câu chuyện cũ.
Giờ đây, sau bao nhiêu năm rồi, hình ảnh cánh đồng chiêm ngày ấy vẫn
luôn luôn có mặt trong suy nghĩ của tôi về người chị thân yêu.
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Chương 06: Hà Nội những ngày khói lửa
Chương 07: Ăn Tết làng dừa
Chương 08: Hà Nội mến yêu
Chương 09: Những ngôi nhà xưa
Chương 10: Ăn tết bên ngoại
Chương 11: Tết Trung Thu
Chương 12: Giấc mơ xưa
Chương 13: Những nhớ thương ngày cũ
Chương 14: Cái chất lãng mạn tuyệt vời
Chương 15: Dạo chơi hồ Tây một chiều chủ nhật
Các thao tác trên Tài liệu