Hồi ức tuổi thơ: Bên kia sông
Bên kia sông
Văn Ngọc
Tình
cờ một hôm, ngay giữa Paris, tôi gặp được một người đồng hương Hà
Nam Ninh, không những cùng làng, cùng họ, mà ông cụ còn biết rõ cả gia
đình nhà tôi. Nhân nói chuyện đến con sông chảy qua làng, tôi mới được
biết đến cái tên chữ của nó : Châu giang. Cái tên nghe sao mà thơ mộng,
chẳng bù với cái tên nôm na mà hồi tản cư về đây năm 1947, tôi vẫn
thường nghe người dân địa phương gọi là sông Tắc, hay Tắc giang. Ông cụ
người làng, hồi trẻ chắc có được học đôi chút chữ nho, cứ ngâm đi ngâm
lại mãi : "Châu giang nguyệt... Châu giang nguyệt",
chắc hẳn đó phải
là một bài thơ chữ nho nào đó của các cụ ở quê tôi ngày xưa. Con sông
này một đầu thông với sông Đáy, một đầu trước kia đổ thẳng ra sông
Hồng, nhưng từ lâu rồi, có lẽ đến cả hàng trăm năm nay, đã được ngăn
với sông Hồng bởi một con đê lớn. Con đê này đi ngang qua huyện Nam
Xang cũ, tức huyện Lý Nhân bây giờ. Ở đó có cái chợ huyện khá đông vui.
Những ngày mới tản cư về đây, tôi đã được lên đây chơi nhiều lần trước
khi cả dãy phố huyện bị tàn phá. Đây cũng là khúc đường chiến lược
trong kháng chiến lần thứ nhất, quân địch vẫn thường dùng thay cho
đường số 1 hay bị đánh mìn phá hỏng, để đi từ Hà Nội xuống Nam Định.
Đầu năm 47, khi bọn chúng bắt đầu đánh ra khỏi Hà Nội và đi về luôn qua
đây, thỉnh thoảng lại đổ xuống các làng để càn quét. Cứ mỗi lần nghe
thấy tiếng ầm ì của xe tăng từ phía trên đê vọng về, và chưa thấy báo
động, nghĩa là bọn chúng chỉ đi qua thôi, không càn, thế là chúng tôi
lại ra bờ sông sau nhà, đứng nép mình sau những bụi tre, bụi ruối, nhìn
lên đê để quan sát, và đếm từng chiếc xe tăng đi qua. Con đê này còn có
một vai trò rất quan trọng về mặt thuỷ lợi, nó che chở cho cả hai huyện
ở giáp bên, là Lý Nhân và Duy Tiên lúc mùa nước lên.
Con sông chảy qua làng tôi có dòng nước quanh năm trong xanh in bóng
những rặng tre và những ruộng mía, ruộng ngô mọc sát tới tận bờ nước.
Khi bài Làng tôi của Văn Cao ra đời, và được phổ biến ở khắp hậu
phương, cũng là lúc chúng tôi còn ở đây, cứ mỗi lần hát bài này lên lại
thấy rưng rưng xúc động, vì hình ảnh cái làng trong bài hát sao mà
giống cái làng của chúng tôi thế, cũng có dòng sông, khung thuyền, cũng
có bóng tre, bóng cau, cũng có nhà thờ đạo...
Trên dòng sông, từ lúc trời còn mờ sương, đã có những chiếc thuyền
giăng lưới đánh cá, nhịp gõ vào mạn thuyền nghe đều đều, ròn rã, lúc xa
lúc gần, làm vang rộn cả một khúc sông.Tôi không bao giờ quên được
những mẻ lưới đầy những con cá dầu, mình trắng loá như bạc, những mẻ cá
tươi rói, ngon lành, mà chúng tôi đứng chờ từ sớm với cái rổ để mua ở
ngay bờ sông.
Đi đến một chỗ có hàng quán, có bán cả thịt chó, trông thấy mấy chú cầy
đã được thui sạch, luộc chín, treo lủng lẳng ở trên cái sào tre trước
quầy, bác và cậu tôi chắc thèm cái món này lắm, và như để thoả mãn óc
tò mò của chúng tôi, hai người lẳng lặng ngồi xuống ghế, gọi mấy đĩa
cho cả chúng tôi cùng được thưởng thức. Lần đầu tiên trên đời tôi được
ăn thử mấy miếng thịt chó và dồi chó, thấy ngon lạ, so với thịt gà hay
thịt lợn, thật hơn hẳn một bậc. Nhưng thịt chó có cái hương vị riêng
của nó, nghĩa là khá mạnh, và có lẽ chỉ những người nào thích nhắm nháp
với ly rượu đế, hay thích nếm những "của ngon vật lạ", mới có thể mê
được.
Vào những buổi chiều yên ả, mặt sông phẳng lặng như một tấm gương, phản
chiếu những màu sắc êm dịu của hoàng hôn...
Quê tôi ở hai bên bờ con sông đó. Làng tôi tên chữ là Dũng Kim, nhưng
tên nôm lại là Đặm, ngày xưa chia làm Đặm Cả, Đặm Hai. Cái tên nôm na
này có thể đã có từ lâu lắm, nhưng chính xác vào thời nào, thì không ai
biết, chỉ biết là có ít ra là từ trước thời Gia Long.
Làng gồm có bốn thôn : thôn thượng, hay xóm trên ; thôn hạ, hay xóm
dưới ; thôn Nguyễn Xá ở bên kia sông; và xóm chài, hay vạn chài, ở
ngay trên sông.Tất cả dân làng đều cùng một họ Phạm, trừ dân vạn chài
từ nơi khác đến, nghe đâu từ trong Thanh, trong Nghệ ra. Giáp giới với
làng tôi có làng Phúc Thuỷ họ Lã và làng Mạc, phần đông họ Nguyễn. Ngày
trước, các cụ trong làng, những lúc chè chén vui vẻ ở ngoài đình, hay ở
nhà thầy tôi, vẫn hay thích nhắc đến cái câu chữ nho "nhất xã tứ thôn", như thể một bằng chứng rằng làng mình đã được ghi trong văn tự là
như thế, không thể nào khác được. Mặc dầu biết mình nghèo khổ, "khố
rách áo ôm" đấy, nhưng các cụ vẫn rất hãnh diện với làng quê của mình.
Các cụ vẫn tin rằng đã có một thời làng Dũng Kim trù phú lắm, đất đai
sang đến tận bên Hưng Yên, "tiền xanh xếp làm vách" kia mà !
Cái tên Dũng Kim cũng có cái sự tích của nó. Tương truyền, một hôm vua
Gia Long đi kinh lý qua đây, thấy cảnh đẹp, ruộng đất phì nhiêu, bèn
phong cho làng cái tên Dũng Kim. Theo các cụ, chữ "Dũng" ở đây nghĩa
là "dùng" (?), còn "Kim" là "vàng" ! Có cụ lại bảo rằng trước kia
tên làng là "Lũng kim" , nghĩa là "lũng vàng" ! Nhưng còn cái tên
Đặm kia, thì không ai biết nguồn gốc từ đâu, cũng có thể chỉ là từ chữ
đậm, như đậm nét, đậm đà, mà ra.
Trên thực tế, dân Dũng Kim ngày xưa chỉ nổi tiếng nhất là qua câu ngạn
ngữ : "Trộm làng Mạc, bạc làng Dũng Kim" ! Bạc đây là cờ bạc, nhưng
bạc cũng có cả cái nghĩa bạc bẽo, "ăn xổi ở thì" nữa. Tuy nhiên, nói
đến cờ bạc, thì ngày trước làng nào mà chẳng cờ bạc, rượu chè, đâu chỉ
riêng gì làng Dũng Kim ! Nhưng đúng là dân Dũng Kim thích cờ bạc, rượu
chè. Tôi còn nhớ mãi những lần xảy ra cãi nhau, đánh nhau ở ngoài đình,
hay trong lối xóm, khi các cụ đã ngà ngà say. Còn cái máu cờ bạc, thì
cứ nhìn đám trai làng đi lên Hà Nội làm ăn, cũng đủ thấy. Vào những
ngày tết nhất thường kéo dài đến cả tháng, họ thức thâu đêm để đánh
bạc, có được đồng lương nào là nướng vào cờ bạc. Cũng may mà làm việc
với thầy tôi ngày ấy theo kiểu gia đình, nên ăn ở họ không phải lo gì
hết.
Ăn trộm, ăn cướp, thì cũng không riêng gì làng Mạc mới đi ăn trộm, ăn
cướp. Những năm 44-45 đói kém, và trước đó nữa, ngay cả dân Dũng Kim
đêm hôm cũng bôi nhọ mặt đi ăn cướp lẫn nhau, không kiêng nể gì nhà bà
con họ hàng mình ở ngay cùng xóm. Người ta nhận ra được cả mặt mũi của
những ông chú, ông bác, những người có tên tuổi trong làng, cầm đầu đám
cướp, nhưng không ai dám hé răng, mở miệng nói ra, vì sợ bị trả thù.
Hồi
tản cư về đây, trong hai năm ròng, tôi đã có dịp biết mặt những tay
"đầu trộm đuôi cướp" ở cái làng này. Thực ra, đó không phải là cái
tính bẩm sinh ra của người dân vùng quê này, mà chỉ là do nghèo khổ lâu
đời và thất học, nên mới trở thành như vậy.
Thầy tôi, ngày xưa thường hay "ta thán" (ca thán) về cái "dân tình bạc
nhược" ở quê mình. Nhưng đây lại là một chuyện khác, một nghĩa khác nữa
của chữ bạc.
Còn bạc, là bạc bẽo, thì chẳng biết dân Dũng Kim có bạc thật không,
nhưng nghèo thì nghèo xơ, nghèo xác. Chả thế mà vào những năm đầu thế
kỷ này, thầy tôi đã phải kéo cả làng lên Hà Nội dạy cho làm nghề đồ da
để sau làm việc với cụ. Sau này, lành nghề rồi, một số người đã vào Sài
Gòn lập nghiệp và mở ra những cửa hiệu làm và bán đồ da đầu tiên ở phố
Lê Thánh Tôn. Trong một ngôi nhà ở phố này, người ta còn để cả chân
dung, bài vị thờ thầy tôi, không chỉ như một người họ hàng bề trên, mà
còn như người thầy của họ, tổ sư của nghề làm đồ da.
Đúng là dân Dũng Kim chỉ giỏi cái việc đi làm ăn xa. Thầy tôi vẫn
thường dùng cụm từ "tha phưong cầu thực" để chỉ cái thân phận của
những người họ hàng quê mình. Ngày xửa, ngày xưa, đã có người sang đến
tận bên Tân Calêđôni.
Đất Dũng Kim ngày trước không có được mấy người biết chữ nghĩa, và gần
như chẳng có ai đỗ đạt cao. Nhưng có một điều rất lạ, và cũng lại rất
dễ hiểu, là đất này đã đẻ ra được một Phạm Tất Đắc, người thanh niên đã
làm ra bài thơ "Chiêu hồn nước" lúc chưa đầy 18 tuổi ! Có lẽ phải tìm
nguyên nhân ở trong chính những điều kiện sống, trong sự cùng khổ của
con người ở vùng quê này.
Dũng
Kim thượng, hay xóm trên, tức Đặm Cả cũ, nơi có đình chùa, miếu
mạo, và cũng là nơi chôn rau cắt rốn của gia đình họ nội nhà tôi từ đời
tổ tiên. Đây cũng là thôn nghèo nhất trong bốn thôn, vì đất chật người
đông. Thời trước, mỗi suất đinh được có chưa đầy ba sào ruộng để cày
cấy, sau này mới được chia thêm đến bốn năm sào.
Dũng Kim hạ, hay xóm dưới, khá hơn, có nhà có con được gửi lên tỉnh đi
học. Xóm dưới cách xóm trên một cánh đồng đất bồi dài gần ba cây số,
nằm dọc theo bờ sông, nhưng lại không thuộc về đất Dũng Kim. Nguyên hồi
trước, còn thời Pháp thuộc, có một tay lý trưởng tên là Lý Lượng, hay
lên chợ uống rượu, rồi nợ nần nhiều quá, không có tiền trả, một hôm y
đành phải gửi lại cho nhà hàng...cái địa bạ trong đó có bản đồ ranh
giới đất đai của làng mình ! Rồi chưa kịp chuộc lại, thì một tay láu cá
ở làng bên biết chuyện, mua ngay lại của nhà hàng cái địa bạ đó, và cho
xây lên ở giữa cánh đồng nọ một cái miếu, và bảo đấy là đất của họ. Đến
khi thưa kiện lên phủ, lên huyện, thì làng Dũng Kim không còn bằng cớ
gì nữa, vì địa bạ đã bị mất rồi !
Thôn thứ ba của xã Dũng Kim ở bên kia sông, có tên gọi là Nguyễn Xá.
Thôn này theo đạo Ki-tô và là thôn giàu nhất, vì đất rộng mà người lại
thưa. Thời trước, mỗi suất đinh được tới hơn một mẫu ruộng. Thôn này
cũng có cái sự tích ly kỳ của nó, xuất phát từ cái câu chuyện tay Lý
Lượng đánh mất địa bạ của làng, làm cho một số đất đai của làng Dũng
Kim ở bên kia sông rơi vào tay những làng khác, trong đó có làng Tường
Thuỵ. Nghe nói ở bên làng này có một ngôi đình trước kia là đình làng
Dũng Kim ! Việc xảy ra dưới triều một vua nhà Nguyễn. Sau kiện tụng mãi
không được, làng mới đi nhờ một ông cố đạo có thế lực chạy chọt giúp
cho, mới lấy lại được một phần đất, là thôn Nguyễn Xá, với điều kiện là
những ai muốn sang ở bên ấy và theo đạo Ki-tô thì được chia thêm ruộng
đất. Cái tên Nguyễn Xá cũng chỉ mới được đặt vào dịp đó.
Thôn thứ tư, là xóm chài, còn được gọi là vạn chài, hay vạn Nghệ, sống
ở trên sông Tắc. Dân vạn chài nghe đâu từ trong Thanh, trong Nghệ ra,
trước kia có công chở thuyền lính cho vua Gia Long đi "khai sáng", nên
sau được vua cho nhập vào làng này.
Hồi chạy càn năm 47, gia đình nhà chúng tôi đã được xuống ở dưới thuyền
với dân vạn chài trong mấy hôm. Cuộc sống trong những khoang thuyền quả
là rất đặc biệt. Từ cái dáng đi đến hình dạng của những người dân chài
đều khác với người ở trên bờ, do ảnh hưởng của những động tác ở trên
thuyền : ngồi, đứng, đi lại, chèo chống, lặn lội. Những ngày sống ở
thuyền, tôi không nhớ rằng đã một lần nào được ăn cá ! Ngược lại, không
hiểu vì thói quen, hay vì muốn biệt đãi gia đình nhà chúng tôi, mà
người ta chỉ mời chúng tôi ăn rặt những món thịt và trứng !
Sông nhiều cá, nên dân chài ở đây làm ăn khấm khá, trong khi dân ở trên
bờ, nhất là dân xóm trên, nhiều năm đói khổ, người lớn, trẻ con manh áo
cũng không có mà mặc, đến bữa chỉ có nồi cháo cám, hay củ dong, củ
riềng để ăn thay cơm.
Điều
mà mãi sau này tôi mới biết tiếc rẻ và ân hận, là suốt trong hai
năm trời tản cư về đây, tôi đã chỉ biết có xóm trên, xóm dưới và xóm
chài, còn thôn Nguyễn Xá ở bên kia sông, chưa bao giờ tôi được đặt chân
tới ! Trong khi đó, gần như hàng ngày chúng tôi vẫn bơi lội ở trên
sông, và đôi khi sang đến tận sát bờ bên kia. Không những thế, nhiều
lần, người mà tôi gọi là "chú Phó Vinh" ở bên ấy sang chơi với thầy
tôi, vẫn thường hỏi tôi có muốn sang chơi xem lò mật của chú không, vì
chú biết tôi thích xem trâu kéo mía và rất thích ăn mật mía.
Phải rất nhiều năm về sau, do một sự tình cờ bắt tôi phải suy nghĩ, tôi
mới chợt nhận thấy sự thiếu sót này. Đây chính là một trong những điều
nói lên cái thơ dại của tôi ngày ấy. Lẽ ra tôi phải sang chơi bên
Nguyễn Xá ít ra một lần, cho biết bộ mặt của cái xóm đạo làng mình, cho
biết nhà chú Phó Vinh và cái lò mật của chú, cho biết bên kia sông và
xa hơn nữa, đằng sau thôn Nguyễn Xá, còn có cái gì. Tôi thấy sao ngày
ấy mình lại có thể thiếu tò mò đến thế được ! Chính một nửa làng mình
đó, cách có một con sông nhỏ, mà mình không biết tìm sang thăm. Có lẽ
vì ngày đó, muốn sang sông, bình thường vẫn phải đi đò, và nếu muốn đi
bộ sang, phải đi vòng khá xa, lên đến chỗ bãi đất bồi ở tận đầu làng,
nên tôi cũng ngại. Nhưng cái lý do chính, vẫn là ngày đó, tôi không
thấy được sự cần thiết phải sang bên kia sông làm gì ! Ngày đó, quả là
tôi còn chưa biết suy nghĩ. Tôi đã sống một cách hồn nhiên theo bản
năng, và thiếu hoàn toàn óc tìm hiểu.
Hình ảnh thôn Nguyễn Xá, đối với tôi, cho đến ngày nay vẫn chỉ là những
rặng tre um tùm soi bóng xuống dòng sông, và vượt lên khỏi những ngọn
tre là cái gác chuông nhà thờ quét vôi màu nhạt. Còn thôn bên ấy giàu
có ra sao, cây cối, ruộng vườn, nhà cửa, có giống hai thôn ở bên này
sông không, tôi vẫn không làm sao hình dung được.
Trong nhiều năm, tôi đã không bận tâm đến cái điều mình đã lỡ không làm
ấy, và tôi đã quên đi như biết bao nhiêu chuyện khác. Cho mãi đến gần
đây, cái điều không có gì là quan trọng ấy bỗng nhiên trở thành một câu
hỏi day dứt. Những gì mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt ở bên kia
sông lại chính là những điều tôi cần được biết bây giờ, để tự giải
thích cho mình một vài sự kiện, tuy cũng chẳng có gì là quan trọng cả,
nhưng nếu không thì không sao hiểu được.
Mùa
hè năm 1984, khi tôi có dịp trở về thăm làng Dũng Kim lần đầu tiên
sau 37 năm xa cách, trong số những chuyện đổi thay ở làng quê, tôi được
người làng cho biết hai sự kiện mà lúc đó tôi cũng chỉ nghe thoáng qua,
không chú ý, vì tôi cũng chỉ ở lại Dũng Kim có vài giờ, rồi đã phải lên
Hà Nội có việc ngay. Lần đó tôi cũng không có đủ thì giờ để nghĩ đến
chuyện sang thăm bên Nguyễn Xá !
Sự kiện thứ nhất là Thể, đứa cháu đích tôn của thầy tôi, sau khi anh cả
tôi mất, đã bán hết cả ruộng vườn và cái nhà tây hai tầng của thầy tôi
ở Dũng Kim cho một người trong làng từ vài ba năm nay.
Sự kiện thứ hai, là Thể bây giờ là đại tá đã về hưu và về sống ở dưới
Nam Định. Vào những năm Mỹ đánh phá miền Bắc, Thể lúc đó đương là trung
tá pháo binh, đã đem cả một trung đoàn về đóng ở bên Nguyễn Xá và rất
ít khi sang bên này sông, là nơi có nhà ông nội mình.
Hai sự kiện không có gì liên quan với nhau lắm, và cũng không cùng một
tầm quan trọng.
Khi nghe cái tin thứ nhất, tôi hơi sửng sốt và cảm thấy có một cái gì
không ổn, và mặc dầu tôi không trách gì Thể, vì tôi vẫn quý Thể từ hồi
nhỏ, nhưng trong bụng cũng thấy hơi buồn buồn, như cảm thấy một sự mất
mát. Nhưng nguyên do nào đã khiến cho người cháu con anh cả tôi phải
lấy quyết định bán mảnh vườn, miếng đất, và ngôi nhà của ông cha đi,
cho đến bây giờ tôi vẫn chưa biết rõ. Có những lỗ trống trong hiểu biết
của tôi về hoàn cảnh gia đình, họ hàng, và nói chung, về quê hương vào
những năm ấy, làm cho tôi nhiều khi không tự giải thích cho mình được
một số hiện tượng.
Cũng như việc tôi chưa bao giờ đặt chân sang bên kia sông, và do đó
không thể hiểu được vì sao Thể đã chọn vị trí thôn Nguyễn Xá để đóng
quân, vì một trung đoàn pháo binh không phải là ít, mà nếu đất bên ấy
cũng hẹp như đất bên Dũng Kim thượng, thì đứng cũng không có chỗ, chứ
đừng nói gì đến đóng quân và ăn ở trong một thời gian dài ! Theo tôi
hiểu, ngày đó, Thể đem quân về đây cốt để bảo vệ quãng đê Nga Khê -Tắc
giang, đồng thời cũng là để mở rộng trận địa phòng không bảo vệ cả miền
Bắc. Việc Thể được phân công cùng với trung đoàn pháo binh của mình về
bảo vệ quãng đê này hẳn không phải là một chuyện ngẫu nhiên, và cái lý
do khiến Thể đóng quân ở bên kia sông, chắc cũng chỉ là một lý do kỹ
thuật. Vì tôi tin chắc rằng Thể rất nắm địa hình, địa thế của vùng này.
Những năm trước đó, tôi có nghe nói Thể vẫn hay về Dũng Kim.
Có nhiều điều mà tôi vẫn muốn tìm hiểu, để nhìn thấy rõ hơn vùng quê
nhỏ bé của mình, cũng như để biết rõ hơn những người thân trong cái đại
gia đình nhà mình hồi nhỏ.
Nhiều khi dĩ vãng và hiện tại trải ra trước mắt tôi như một bức hoạ
lớn, trong đó có những phần mà tôi biết rõ đến từng chi tiết nhỏ, nhưng
đây đó vẫn có những khoảng trống, như những mảnh puzzles còn thiếu. Đây
không phải là những điều mà tôi đã quên đi, mà là những điều tôi đã
không được sống, hoặc không được chứng kiến tận mắt.
Bên kia sông tượng trưng cho tất cả những gì mà tôi đã không được sống
ở quê nhà và không được tận mắt nhìn thấy trong quãng đời đã qua.
Đó cũng là cái tuổi thơ mà tôi đã sống dang dở, để lại đằng sau bao
nhiêu niềm ước mơ, mà không biết đến ngày nào mới thực hiện được.
Tôi vẫn ước mong bao giờ được trở lại Dũng Kim, để lấy đò sang bên kia
sông, và đi thăm cái nửa quê hương mà khi xưa mình chưa bao giờ đặt
chân tới.
Hết.
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Chương 06: Hà Nội những ngày khói lửa
Chương 07: Ăn Tết làng dừa
Chương 08: Hà Nội mến yêu
Chương 09: Những ngôi nhà xưa
Chương 10: Ăn tết bên ngoại
Chương 11: Tết Trung Thu
Chương 12: Giấc mơ xưa
Chương 13: Những nhớ thương ngày cũ
Chương 14: Cái chất lãng mạn tuyệt vời
Chương 15: Dạo chơi hồ Tây một chiều chủ nhật
Chương 16: Đồng chiêm
Chương 17: Về thăm quê cũ
Chương 18: Quê ngoại
Các thao tác trên Tài liệu