Kịch “Rừng trúc” và sáng tạo của bộ ba thần thánh…

Nguyễn Thị Minh Thái

599687

Anh Tú và Lê Khanh trong Kịch “Rừng trúc” – Nhà hát kịch Tuổi trẻ

Có lẽ chỉ sau văn chương, sân khấu Việt hiện đại là lĩnh vực nghệ thuật có nhiều thành công sáng giá nhất trong sáng tạo vở diễn về đề tài lịch sử. Một vở diễn được coi là thành công về đề tài lịch sử, theo đúng quy luật sáng tạo sân khấu, tất yếu phải hội đủ ba điều kiện cơ bản: kịch bản viết hay, đạo diễn giỏi tổ chức vở diễn, và diễn viên sắm vai kịch thật sáng, thật chuyên nghiệp trên sân khấu. Một khi diễn viên đã lên sân khấu, thành “ông hoàng bà chúa” của nghệ thuật biểu diễn, thì đằng sau họ, chắc chắn phải có kịch bản của nhà viết kịch, được chuyển ngữ sang cái diễn, từ bàn tay dàn dựng của đạo diễn, nhằm đạt đến đời sống khác thường của ngôn ngữ sân khấu: đời sống của vở diễn, chứ không còn là của con chữ nữa! Bởi thế, tác giả của vở diễn, mới được chỉ định và xác nhận, chính là đạo diễn, người cho vở diễn hiển lộ trên sân khấu, và đã phải “chết đi” cho cái sống của diễn viên sắm vai kịch trên sàn diễn.

Trong khá nhiều thành công của vở diễn thể loại kịch về đề tài lịch sử của thời điểm hai thập niên cuối, vắt từ TK XX sang TK XXI, tôi cho rằng thành công của vở “Rừng trúc” là trường hợp điển hình nhất của thể loại kịch lấy lịch sử làm đề tài và lịch sử đã được người-sân-khấu xử lý rất nghệ thuật, bởi sự hạnh ngộ của bộ ba thần thánh: Nhà viết kịch-Nhà đạo diễn và Nhà nghệ sĩ biểu diễn, lần lượt với 3 cái tên chói sáng: Nhà văn Nguyễn Đình Thi (viết kịch), Đạo diễn NSND Nguyễn Đình Nghi (dựng vở) và NSND Lê Khanh (sắm vai chính Lý Chiêu Hoàng). Với cách nhìn ấy, tôi xác định bài viết này của tôi là một loại nghiên cứu trường hợp (case study): nghiên cứu và bình luận về một bộ ba thần thánh đã làm nên một tác phẩm sân khấu huy hoàng về đề tài lịch sử: “Rừng trúc”.

 Một. Tín niệm riêng về viết kịch lịch sử của Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Đình Thi không phải là người thích lập ngôn về việc viết kịch lịch sử, song ông yêu vô cùng lịch sử ngàn năm Thăng Long Hà Nội, nơi chính ông đã phát hiện hồn cốt văn hóa thâm sâu của nó, ngay trong ca khúc Người Hà Nội nổi tiếng của ông, với câu hát còn xanh mãi với thời gian: Hà Nội là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”. Trong nhịp đi hải hà của lịch sử kinh thành Hà Nội, Nguyễn Đình Thi vô cùng yêu Hà Nội trong Tết nguyên đán cổ truyền. Trong “Hồi ức về kịch” (Sách của ông, “Tác phẩm chọn lọc”, Thay lời bạt, Nxb Sân Khấu, HN), ông mê Tết Hà Nội đến thú nhận: “ Tôi có 3 vở kịch viết trong những ngày Tết, Hoa và Ngần viết vào dịp Tết Giáp Dần, (đầu năm 1974). Rừng trúc, Tết Mậu Ngọ (đầu năm 1978) và Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tết Kỷ Mùi (đầu năm 1979). Cả ba đều lấy việc xảy ra ở Thăng Long-Hà Nội và kết thúc ở cảnh Tết. Tôi có mong mỏi thầm là vào dịp năm mới truyền thống của dân ta, có được kịch diễn cho công chúng xem để góp chút phần nhỏ vào niềm vui lớn của mọi nhà và mọi người”.

Những tâm sự này thật giản dị và khiêm cung, nhẹ như “mong mỏi thầm” của nhà văn mê viết kịch về lịch sử Hà Nội, và đằng sau nó, đã giấu kín một tín niệm viết kịch lịch sử về Hà Nội. Theo Nguyễn Đình Thi, có lẽ viết kịch trong không gian thiêng Hà Nội dịp Tết Nguyên đán cổ truyền là cách nhắc nhủ tốt nhất và trước hết cho chính người cầm bút, đặng khơi dậy từ kí ức ngàn năm Thăng Long-Hà Nội những sự kiện và con người Hà Nội hào hoa, rồi kết thúc kịch bằng cảnh Tết, để người Hà Nội hôm nay có niềm vui thế sự trong những ngày năm mới sang trang. Ý tưởng viết kịch lịch sử về Hà Nội đã đành sáng láng thế, với ngầm ý cả một tín niệm riêng về đề tài lịch sử Hà Nội sâu sắc thế, nhưng, trong thực tế dàn dựng và biểu diễn cả ba vở kịch, nhất là hai vở kịch lịch sử: Nguyễn Trãi ở Đông Quan, và Rừng Trúc, đã khiến Nguyễn Đình Thi chỉ nhận được …nỗi buồn thế sự. Ông buồn bã nhớ lại: “Tiếc rằng 3 vở kịch Tết của tôi đều không được may mắn: vở Hoa và Ngần, đạo diễn Dương Ngọc Đức dựng cho Đoàn kịch Hà Nội, Thanh Tú vai Ngần, năm 1975, đã tổng duyệt, nhưng không được ra mắt” và được biểu diễn duy nhất một đêm cho đồng nghiệp và Nguyễn Đình Thi để “an ủi tác giả”.

Song, hai kịch bản về lịch sử lại có khác biệt. Vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan có số phận  khá hơn. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dựng cho Đoàn kịch nói Trung Ương, nhân kỉ niệm 500 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Nghệ sĩ-vua hài kịch Trần Tiến xuất thần vai Nguyễn Trãi. Vở ra mắt Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1980 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, hoành tráng và lộng lẫy, chiếm được cảm tình sâu sắc của đồng nghiệp sân khấu, nhưng lại theo Nguyễn Đình Thi, vẫn là tiếc nuối: “Vở được diễn thêm ít buổi rồi phải thôi, vì không được phép tiếp tục”.

Đến Rừng trúc, viết năm 1978, ngay khi ráo mực, Nguyễn Đình Thi đã hân hoan đem đến tòa soạn Tạp chí Sân khấu,51 Trần Hưng Đạo, đích thân đọc cho Lưu Trọng Lư, Xuân Trình, nhà sử học Lê Văn Lan, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Ánh, tôi, cùng toàn thể đồng nghiệp là phóng viên tạp chí nghe. Tất cả đều choáng ngợp bởi cách viết kịch lịch sử rất quyết liệt, đáo để về cuộc chuyển giao quyền bính đầy bi kịch lịch sử giữa nhà Lý, giữa Lý Chiêu Hoàng, với nhà Trần, Trần Cảnh, trên sự thiết kế  chuyển giao ngai vàng thiên tài của “kiến trúc sư” Trần Thủ Độ. Từ đó, nhà Lý mất ngôi vương, phải chuyển sang nhà Trần. Và kịch bản đã không chỉ thế, nó còn “ém nhẹm” trong đáy chữ sâu thẳm, một nỗi buồn nhân thế mênh mang của chính Nguyễn Đình Thi, mà chính tôi nghe ông đọc từ ngày xa xưa ấy, cách nay đã vài chục năm, cũng thấm thía mà nảy sinh hồ nghi về khả năng “hiện thực hóa” kịch bản trên sân khấu. Dường như không có khả năng ấy thì phải. Vì thế, dù Đoàn kịch Điện ảnh lúc bấy giờ đã để ý, mà không thể dàn dựng được.

Riêng đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, đem lòng yêu kịch bản này, nhiều năm đối thoại và nghiền ngẫm cách dàn dựng với Nguyễn Đình Thi, nhưng phải hơn hai chục năm sau, năm 1999, cùng sự trợ giúp của đạo diễn Phạm Thị Thành, (bởi ông đã rất yếu mệt). Sau đó, trong tờ chương trình của Rừng Trúc tham dự Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1999, đã ghi tên Nguyễn Đình Nghi-PhạmThị Thành đồng đạo diễn vở kịch này). Kịch bản Rừng Trúc đến năm đó, mới lần đầu thực sự được sống thân phận vở diễn, như lẽ ra nó phải sống bằng chính thân phận ấy mới phải, ngay từ năm 1978.

Trong hai kịch bản về đề tài lịch sử Thăng Long-Hà Nội của riêng Nguyễn Đình Thi kể trên, có thể thấy rõ những kinh nghiệm xử lý nghệ thuật trong cách viết loại kịch bản đặc thù này, từ một nhà văn rất nổi tiếng, và cũng là vấn đề đầu tiên phải giải quyết của cả quá trình dàn dựng vở kịch này trên sân khấu.Vậy thì điều gì dẫn Nguyễn Đình Thi đến với việc viết Rừng Trúc và lựa chọn cái xung đột xuyên suốt về quyền bính giữa hai triều đại Lý-Trần, thông qua những số phận cá nhân trong lịch sử, và được nhà văn tái tạo, hư cấu, nhằm tạo tác nên một kịch bản hay, đến mức kịch bản ấy bị trắc trở về số phận sân khấu, đến tận 21năm sau, mới được Nguyễn Đình Nghi dàn dựng cho Nhà hát Tuổi Trẻ biểu diễn thành công, đoạt Huy chương Vàng Hội diễn kịch toàn quốc năm 1999?

 Rốt cuộc, Nguyễn Đình Thi lại rất hài lòng về sự kiện này, cho đó là “hạnh phúc muộn” và thoáng chút bùi ngùi cho số phận một vở diễn khác: “Dù sao tôi cũng được nhìn thấy các nhân vật kịch của tôi sống trong ánh điện sân khấu. Tôi nghĩ đến anh Nguyễn Huy Tưởng, khi vở Vũ Như Tô của anh được diễn, thì anh đã mất trên 30 năm…”.

Rừng Trúc, thực ra, đã được Nguyễn Đình Thi suy ngẫm nung nấu từ lâu về ý tưởng viết kịch lịch sử. Những ngày áp Tết Mậu Ngọ 1978, ông đã tìm thấy ở cạnh Hồ Tây, (Nhà sáng tác của Hội Nhà văn VN ở Quảng Bá), một không gian thuận lành nhất cho ông trả món nợ kịch lịch sử-thế sự mà Nguyễn Đình Thi trót cưu mang trong chính thời điểm ngổn ngang suy nghĩ riêng tư của ông lúc bấy giờ. Trốn vào góc Hồ Tây một mình, ngày ngày viết kịch, ông ngắm mặt hồ Tây no mắt từ trên đê cao với những đợt sóng xô màu thép lạnh, xa xa dãy núi Ba Vì, bên kia là sông Hồng sóng đỏ phù sa, bãi bờ xanh biếc. Ngay trước mắt là cỏ cây hoa lá trong vườn. Ngắm mãi gốc mai nhỏ, gầnTết lấm tấm đầy hoa trắng muốt rung rung trong gió bấc, ông “nôn nao thấy cuộc sống đẹp kỳ diệu vượt hết mọi tưởng tượng”. Nguyễn Đình Thi thấm vào lòng cảnh tượng ấy mỗi ngày và thú nhận, chúng đã lặn sâu “vào kịch tôi viết. Trong Rừng Trúc, tôi cho Lý Chiêu Hoàng từ bỏ cung điện, lên ở ven hồ này, trong một căn nhà gỗ khiêm tốn. Ở đây, nhân vật của tôi đã nói với Trần Thủ Độ: “Thưa quốc công, việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không phải là nhỏ hơn”. Và ông đắc ý chọn màn vĩ thanh thật ý nghĩa cho chính nhân vật Lý Chiêu Hoàng mà ông yêu dấu: Giáp Tết Mậu Ngọ 1258, sau khi nhà Trần đánh bại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Nguyên, ven HồTây hoa đào bắt đầu nở trong vườn. Lý Chiêu Hoàng lòng đã bình yên đón mùa xuân mới với thay đổi lớn trong đời và đã nhận được hạnh phúc…

Nhân vật kịch Lý Chiêu Hoàng ở kịch bản này rõ ràng đã được xây dựng trong những cảm niệm sâu xa về lịch sử của riêng Nguyễn Đình Thi, và trở nên độc đáo bởi đã được khơi nguồn từ những va chạm nhân thế của Nguyễn Đình Thi với thời cuộc. Bằng cách viết trầm tư lịch sử, từ cái nhìn đương đại, Nguyễn Đình Thi đã đụng đến vấn đề sáng tác cơ bản nhất của nhà viết kịch về đề tài lịch sử: viết về nhân vật lịch sử trong thì hiện tại của tâm thế nhà văn đương đại.

   Hai: Cuộc hạnh ngộ thần thánh của bộ ba trong Rừng Trúc

 Và cái viết độc đáo của  Nguyễn Đình Thi trong kịch bản Rừng Trúc đã là câu trả lời tường minh, vì thế, chính nó đã xui khiến việc tìm kiếm được tri âm sân khấu để tạo lập một vở diễn hay về đề tài lịch sử, đích thị phải là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, người đã không ngưng chờ đợi, suy tư suốt hơn hai mươi năm trời để dàn dựng bằng được Rừng Trúc, từ văn bản mà ông cho là thật sáng giá về kịch lịch sử của Nguyễn Đình Thi. Kể từ đây, ta lại được chứng kiến sự sinh nở vật vã một ngôn ngữ khác, đến lượt nó phải được được hình thành từ văn chương kịch: ngôn ngữ dàn dựng sân khấu của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, cho cái diễn của Lê Khanh vai Lý Chiêu Hoàng, cùng dàn diễn viên giỏi nghề của Nhà hát Tuổi Trẻ.

Không chỉ Nguyễn Đình Thi có tín niệm mĩ học riêng về cái viết kịch lịch sử.Theo quan niệm khá tương đắc của Nguyễn Đình Nghi, kịch lịch sử bao giờ cũng buộc phải là những kịch bản về người anh hùng trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam. Vậy nên, kịch lịch sử nào, theo ông, cũng đương nhiên phải có ít nhất “một nhân vật lịch sử đáng kính yêu”, nếu không, đạo diễn không đủ tình yêu sân khấu để dàn dựng kịch. Theo Nguyễn Đình Nghi, “trong quá trình lịch sử lâu dài hình thành tính cách riêng, dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra vô số những nhân vật lịch sử đầy bản lĩnh và hết sức đáng yêu”, và chính những nhân vật kiểu này, như Lý Chiêu Hoàng, khi được tái hiện trong kịch lịch sử của Nguyễn Đình Thi, đã quyến rũ Nguyễn Đình Nghi nảy sinh nội lực bất ngờ để dàn dựng, và để liên tiếp tự sinh, cho đến khi hiện hình vở diễn Rừng Trúc. Đương nhiên, sau hơn hai chục năm chờ đợi, ông dồn hết tâm nguyện sáng tạo của mình cho Lê Khanh, diễn vai Lý Chiêu Hoàng, cặp đôi với Anh Tú, vai Trần Cảnh.

Chính Nguyễn Đình Nghi đã tái sinh một Lý Chiêu Hoàng, bước ra từ Rừng Trúc của Nguyễn Đình Thi, một bà hoàng tài sắc vẹn toàn, đa cảm, đa tình, đầy uy nghi và quyết đoán trí tuệ, với những cử chỉ lịch sử cao quý, xứng hợp nhất  với sự tồn vong của giang sơn, đất nước, trong tình thế lịch sử nguy ngập, và sẵn lòng nhận chịu về mình bi kịch của cả vương triều nhà Lý, lẫn bi kịch riêng của chính mình, và nhận chịu cả sự chỉ định khắc nghiệt nhất của số phận lịch sử.

Chẳng phải cũng chính Nguyễn Đình Nghi đã chỉ dạy như một người thầy lớn cho Lê Khanh cách vào vai kịch Lý Chiêu Hoàng, sống trọn vẹn cả thân xác lẫn tâm hồn cho nhân vật đấy sao? Và Lê Khanh đã hóa thân vào nhân vật thâm sâu đến mức, khi kết thúc vở diễn, đêm nào Lê Khanh cũng thấy khó mà thoát ra ngay khỏi sức cuốn hút khó cưỡng chống của nhân vật. Và cứ thế, đến lượt nhân vật nữ hoàng cuối cùng của nhà Lý đẹp đẽ uy nghi, sang cả của Lê Khanh lại ám ảnh người xem, khi ra khỏi nhà hát, một ám ảnh dai dẳng… đến điều. Thi sĩ Dương Trọng Dật, TBT báo Sài Gòn Giải Phóng năm ấy (tái diễn 2004) đã gọi phút tỏa sáng của Lê Khanh trên sân khấu đêm diễn ấy là Phút thăng hoa kì diệu, tên bài thơ của ông, với cảm nhận thơ từ hàng ghế khán giả, khi xem Khanh diễn Rừng Trúc: Sống dậy trước mắt tôi ngạo nghễ Lý Chiêu Hoàng/ Cả nhà hát lặng đi/ Sân khấu chỉ còn em và lịch sử/ Thương đất nước trầm luân trong cơn chòng chành sóng dữ/ Nghe trong tiếng em thở dài/ Những trăn trở của người xưa…

Lê Khanh đã được đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dìu dắt, vượt qua cái khó nhất của vai kịch Lý Chiêu Hoàng, từ cái viết của Nguyễn Đình Thi, trong một thách thức kép: Vai kịch này diễn đã rất khó hay, mà lại rất dễ thất bại. Vả lại, văn chương trong kịch lịch sử của Nguyễn Đình Thi thường đậm đặc những ý tứ chìm sâu, không dễ đọc trên bề mặt chữ nghĩa, mang khá rõ dáng dấp kịch lịch sử-luận đề, (có cảnh kịch, Lê Khanh-Lý Chiêu Hoàng đã phải độc thoại hàng nửa giờ đồng hồ trên sân khấu). Thêm nữa, Nguyễn Đình Thi còn muốn “giải mã” những hành vi lịch sử của Lý Chiêu Hoàng theo cách riêng của ông, thông qua số phận của một nữ hoàng, một con người này (như triết gia Hegel đã nói), với rất nhiều trái ngang của một số phận lịch sử nhiều màu. Nên, từ đầu đến cuối kịch, Lý Chiêu Hoàng đã bị đặt trước nhiều tình huống nan giải: Đương ngôi nữ hoàng, bị ép nhường ngôi vua cho Trần Cảnh, thành hoàng hậu. Đương kim hoàng hậu, không sinh thế tử, lại bị ép lần nữa, Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi hậu cho chị ruột Thuận Thiên, đang là vợ và đang mang thai với Trần Liễu, anh ruột Trần Cảnh. Lý Chiêu Hoàng đã liên tiếp bị dồn đến cùng đường, phải buông bỏ tất cả, từ vua cha, mẹ, chị, chồng, ngôi cao nhất trong cung cấm, ra ở một mình ngôi nhà gỗ ven Hồ Tây.

Cách viết, cách dựng tài hoa của tác giả và đạo diễn từ đầu đến cuối vở kịch, đã chan hòa vào cái diễn xuất thần nhân vật Lý Chiêu Hoàng của Lê Khanh, khiến người xem thắt lòng theo dõi những ứng xử hết sức tinh tế, sự hòa cảm thông minh và sang trọng của Lê Khanh trong vai diễn xuất sắc Lý Chiêu Hoàng.Và khán giả đã có thể thở ra nhẹ nhõm như được thanh lọc tâm hồn, khi cuối kịch, Lê Khanh đã hoàn thành viên mãn một vai kịch khó, với nỗ lực vượt bậc, khiến vai kịch hoàn hảo và sáng trong như viên ngọc không tì vết.

Bài học trình diễn nhân vật kịch lịch sử của Lê Khanh có thể được rút ra từ cách xử lý nhân vật: diễn viên phải nương theo đúng ý đồ tư tưởng của đạo diễn. Sau này, khi thày Nghi đã mất từ năm đầu thế kỉ XXI, Khanh tận tâm học nghề đạo diễn, hành nghề trong vở Nhà Ôsin (kịch bản Nguyễn Huy Thiệp), trình làng hôm 8.12.2012 tại Nhà hát Tuổi Trẻ. Lê Khanh đã học được từ thầy Nghi cách “giải mã” kịch bản trên sân khấu bằng ngôn ngữ dàn dựng chân phương và tinh tế, cố không sa vào bi kịch “vẽ rắn thêm chân” rất thường xảy ra với nghề đạo diễn, khi xử lý không tới đáy chữ của kịch bản văn học. Vai Lý Chiêu Hoàng của Lê Khanh đã thật may mắn khi gặp đúng Nguyễn Đình Nghi, người có khả năng “biện biệt văn học” rất mạnh, đã giải mã chữ nghĩa kịch bản Rừng Trúc thâm sâu của Nguyễn Đình Thi theo cách riêng và cuối cùng, nhờ thế mà “đánh thức nội lực” thể nghiệm nhân vật luôn hiện hữu trong cái diễn sống động của NSND Lê Khanh…

 Ba:  Những kinh nghiệm chói sáng của bộ ba về kịch lịch sử

Trên đây chỉ là trường hợp tiêu biểu nhất, theo nghiên cứu của tôi, lấy  được vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn của giới sân khấu, khi họ cùng chung tay cộng tác và thăng hoa trong cái viết, cái dựng và cái diễn về đề tài lịch sử, chỉ tính riêng thể loại kịch, trong thập niên cuối TK XX và đầu TK XXI. Từ đây, cũng có thể chắt lọc những bài học riêng cho từng thành phần sáng tạo kịch sử.

Phải chăng, người-sân-khấu có thể học từ cách viết Rừng Trúc của Nguyễn Đình Thi một tâm thế đích đáng khi viết kịch lịch sử, trong lựa chọn vấn đề từ lịch sử, trong sự tích hợp văn hóa giữa sự chân xác của lịch sử, và sự tưởng tượng hư cấu của nhà viết kịch, theo một tỉ lệ hài hòa, chỉ có thể giải quyết theo cách sáng tạo riêng của từng nhà viết kịch. (Ở Rừng Trúc là cách riêng độc đáo của Nguyễn Đình Thi, còn ở kịch bản khác là cách riêng của Nguyễn Huy Tưởng,Trúc Đường,Tào Mạt … chẳng hạn). Những xung đột lịch sử đã hiện hữu giữa hai triều đại nhà Lý và nhà Trần phải được tổ chức thành xung đột cá nhân, theo kiểu  viết của Nguyễn Đình Thi là đích đáng. Và từ sự đích đáng của văn bản dành cho cái đọc, phải được đạo diễn Nguyễn Đình Nghi “chuyển ngữ” đích đáng thành cái diễn, là cái để xem, từ đó dẫn đến cái để nghĩ cho khán giả, mà cái để xem lại liên quan biện chứng đến cái diễn của diễn viên trong sáng tạo nhân vật.

Từ những phân tích trên, bằng nghiệm suy cá nhân, bằng sự trông thấy nhãn tiền từ phản ứng của công chúng thưởng thức, đã từng chăm chú dõi theo diễn tiến căng thẳng, đầy kịch tính của Rừng Trúc trên sân khấu cách đây đã hàng chục năm, tôi đã chẳng thể quên vở diễn được đạo diễn xử lý không gian sân khấu lộng lẫy trong bát ngát màu vàng vương giả của hoa cúc vàng chói nở khắp Thăng Long thành. Chỉ riêng xử lý mỹ thuật sân khấu đẹp đẽ và sang trọng đến thế của Nguyễn Đình Nghi, tôi luôn nghĩ rằng chúng ta đã thiếu tôn trọng, hoặc đã bỏ phí vở diễn này trong kho phế liệu của nhà hát, kể cả sau khi đã ghi hình và phát sóng trực tiếp trên Đài Truyền hình VN năm 2004. Không chỉ Rừng Trúc, những vở kịch hay nhất của các nhà hát kịch ở Thủ đô Hà Nội từng được trình diễn huy hoàng, đã bị rơi rụng khỏi kịch mục của các Nhà hát ở Hà Nội, không hề được bảo lưu và cũng chẳng hề được tái diễn cho công chúng yêu kịch thưởng ngoạn. Và tôi càng không thể hiểu vì sao các Liên hoan sân khấu kịch, cải lương và cả chèo nữa, (thuộc năm 2012) đều khước từ những vở diễn dự thi về đề tài lịch sử, chỉ muốn dành hội diễn chỉ cho vở diễn đề tài hiện đại? Như thế có phải chúng ta đã sa vào chủ nghĩa đề tài trong sáng tác nghệ thuật, nhất là về đề tài lịch sử không?

 Vậy, như thế có đáng phải suy ngẫm và phải tích cực điều chỉnh cách làm sân khấu kịch không, khi cả nền sân khấu hiện đại của chúng ta vẫn lâm vào cảnh khủng hoảng công chúng dài dài và chưa có những dấu hiệu sáng sủa cho sự kết thúc cảnh tượng đáng buồn này?

Vậy, tôi những muốn chờ trông vào kiến giải và giải pháp từ nhiều phía, từ trong và ngoài giới sân khấu, không chỉ với riêng thể loại kịch Việt Nam hiện đại đối với đề tài lịch sử, mà chúng ta đang đặt ra và tìm giải pháp khả thi cho sự phát triển của sân khấu kịch lịch sử hôm nay…

     NTMT

Tác giả gửi Văn Việt

 

 

 

 

Comments are closed.