QUYỀN BÍNH
Quyền Bính
Huy Đức
Tôi rời Campuchia trước khi Việt Nam rút hết “Quân tình nguyện”. Khi học ở trường
chuyên gia quân sự 481, chúng tôi được chuẩn bị tư tưởng để “giúp bạn lâu dài”. Nhưng thay vì ở
lại hàng thập niên, tôi chỉ phải ở lại Campuchia gần bốn năm. Tôi quyết
định rời quân đội. Một cá nhân cũng như một quốc gia, súng ống chỉ nên
được lựa chọn khi không còn con đường nào khác.
Cuối năm 1987, tôi bắt đầu làm việc ở Văn phòng huyện ủy Nhà Bè. Thời
gian ấy, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đang viết “Những việc cần làm ngay”. Công việc
ở Văn phòng huyện ủy thật an nhàn, tôi đã sử dụng phần lớn thời gian để
viết văn và viết bài cho các báo. Sau khi đọc những bài báo ấy, Bí thư
huyện ủy Trần Văn Đông giao cho tôi phụ trách biên tập tờ tin và đài
truyền thanh huyện Nhà Bè. Chỉ mấy tháng sau, tôi được nhà văn Nguyễn
Đông Thức đưa về Tuổi Trẻ.
Không chỉ có kho sách cực kỳ phong phú của thư viện Đắc Lộ mà tờ Tuổi Trẻ tiếp quản sau khi các giáo
sĩ dòng Tên bị bắt năm 1979, đội ngũ Tuổi
Trẻ thời “161 Lý Chính Thắng” cũng là một “kho tư liệu” vô giá.
Không phải ai ở trong cái không khí “thanh
niên sôi nổi” ấy cũng biết hết những trắc ẩn trong lòng các đồng
nghiệp của mình.
Ở đây, tôi gặp những đồng nghiệp về sau trở thành nhân vật trong cuốn
sách của mình. Ở đây, tôi gặp những con người lặng lẽ, tưởng quá khứ đã
được chôn chặt, như : biên tập viên Lệ Xuân, con gái ông Nguyễn Thành
Đệ, người sau khi đóng 200 lượng vàng để vượt biên theo Phương án II
không thành bị lấy nốt căn nhà cuối cùng [1]
; thư ký tòa soạn Võ Văn Điểm -- chủ biên đầu tiên của tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Tuổi Trẻ Cười --
người có vợ và hai con chết trên biển trong một chuyến vượt biên.
Thế hệ chúng tôi may mắn được làm báo sau “đổi mới”. Những người viết có trách
nhiệm nhận thấy một cơ hội to lớn sau tuyên bố “cởi trói” của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh để không còn tiếp tục sự nghiệp viết lách bằng thứ văn chương
minh họa hay báo chí tô hồng. Đó là một thời đáng nhớ của văn nghệ và
báo chí. Rất tiếc là chỉ hơn một năm sau khi Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh kêu gọi văn nghệ sĩ tự cứu mình, tự ông đã có nhiều thay đổi.
Ngay trong khuôn viên 161 Lý Chính Thắng, chúng tôi có thể cảm nhận sự
căng thẳng. Có lúc một số phóng viên Tuổi
Trẻ đã phải chuẩn bị cho khả năng bị khởi tố. Có những buổi
chiều, nhất là sau khi Tổng biên tập Vũ Kim Hạnh đi gặp Phó bí thư
Thành ủy Bảy Dự Nguyễn Võ Danh, đi gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đi
gặp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ trở về…, chúng tôi nín thở chờ chị
bàn bạc với anh Ba Lãng [2]. Những
hôm gay cấn, hai người còn phải tham vấn Cựu Tổng biên tập Võ Như Lanh [3]. Cho đến trước khi ông Nguyễn Văn Linh
hết nhiệm kỳ, những người tiên phong trong văn nghệ, báo chí đều phải
ra đi gần hết.
Tuổi Trẻ còn tạo cơ hội cho
tôi bước ra bên ngoài khuôn viên “161 Lý Chính Thắng”. Tôi may mắn được
phân công viết đủ các loại đề tài, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế
tới văn hóa, từ hoạt động của các cơ quan tố tụng đến các hoạt động của
bộ máy Đảng, Nhà nước, từ trung ương tới địa phương. Từ năm 1989, tôi
trực tiếp đưa tin hầu hết các vụ án lớn xảy ra trên cả nước, theo dõi
từ giai đoạn khởi tố điều tra cho đến khi nội vụ được đưa tới tòa. Cũng
từ năm 1989, tôi được giao viết về các kỳ họp Hội đồng nhân dân và sau
đó có mặt ở Hội trường Ba Đình gần như mỗi kỳ Quốc hội họp.
Những năm đầu thập niên 1990, chúng tôi được bố trí ăn, ở với các đoàn
đại biểu tại nhà khách số 8 Chu Văn An ; được dự hầu hết các phiên thảo
luận mà các đại biểu đang là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị.
Chúng tôi cũng dễ dàng gặp gỡ, trò chuyện với Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh, Tổng bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo và Tổng
bí thư Nông Đức Mạnh… Cánh nhà báo chúng tôi [4]
có nhiều cơ hội trao đổi, đủ loại thông tin, với các nhà lãnh đạo cả
khi tác nghiệp, cả khi bên tách trà và không ít khi bên chén rượu.
Chính trường được phản ánh trong cuốn II bao gồm những gì mà tác giả có
thể quan sát từ cự ly rất gần. Ở những thời điểm nóng bỏng nhất, tôi có
thể vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng
Phan Văn Khải ; tôi cũng có không ít dịp đến nhà riêng, vào phòng làm
việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn.
Chúng tôi chứng kiến một cách trực tiếp các xung đột giữa những người
chủ trương kinh tế thị trường với những người lo “chệch hướng”, những xung đột đã làm
biến dạng khá nhiều chính sách.
Tất cả những tư liệu ấy đều được tôi lưu trữ. Nhưng không chỉ dừng lại
ở những ghi chép của mình, từ năm 2003, khi bắt đầu tập trung phần lớn
thời gian cho cuốn sách này, tôi ngồi điểm lại toàn bộ tư liệu mình đã
thu thập được, đánh dấu các khoảng trống và bắt đầu tiến hành thêm hàng
ngàn cuộc phỏng vấn. Với sự giúp đỡ của một nhóm sinh viên và một số
nhà nghiên cứu trẻ, tôi bắt đầu đối chiếu lời kể của các nhân chứng với
các ghi chép của chính họ, của tôi (với các sự kiện mà mình trực tiếp
quan sát trong thời gian làm báo), đối chiếu với báo chí ở các thời
điểm khác nhau, với lời kể giữa các nhân chứng và đặc biệt là đối chiếu
với các tài liệu gốc, gồm thư từ, công văn, chỉ thị, nghị quyết và biên
bản các cuộc họp.
Cuốn II bắt đầu từ thời điểm ông Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền cho đến
khi ba ông cố vấn đưa ông Lê Khả Phiêu ra khỏi chiếc ghế tổng bí thư.
Tuy có những câu chuyện còn kéo dài đến sau Đại hội Đảng lần thứ XI
(1-2011), nhưng hai chương cuối của cuốn II chủ yếu nói về “cái đuôi”
chủ nghĩa xã hội và những hệ lụy mà xã hội Việt Nam đang gánh chịu.
Chương Tướng Giáp được đặt ở vị trí cuối phần “Dấu ấn Nguyễn Văn Linh”, bắt đầu
bằng một nỗ lực nhằm hạ uy tín của “vị
tướng Điện Biên” diễn ra cuối nhiệm kỳ của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh nhưng chủ yếu nói về mối quan hệ giữa Lê Duẩn - Tướng Giáp -
Lê Đức Thọ. Những xung đột quyền lực đã chi phối phần lớn các quyết
định liên quan đến cuộc chiến diễn ra thời thập niên 1960, kéo dài tới
giữa thập niên 1980, liên quan đến không ít máu xương và để lại khá
nhiều di chứng. Phần còn lại của cuốn II chủ yếu viết về những gì diễn
ra bên trong Ba Đình thời thập niên 1990. Thời mà ý thức hệ không chỉ
tồn tại như một đức tin của những người cầm quyền mà còn trở thành
những công cụ chính trị phục vụ cho quyền lực.
Tuy nhiên, Quyền Bính không phải là một cuốn sách nói chuyện “thâm cung bí sử” cho dù có nhiều
câu chuyện, có nhiều nhân vật được đặc tả rất cận cảnh. Những câu
chuyện được kể trong cuốn sách này là sự chia sẻ của rất nhiều người
trong cuộc về một giai đoạn mà Việt Nam đã bỏ lỡ những cơ hội có thể đi
tới mục tiêu “công bằng, dân chủ, văn
minh” do chính đảng cầm quyền đề ra. Tuy kinh tế thị trường đã
làm thay đổi bộ mặt quốc gia và đời sống nhân dân nhưng Việt Nam vẫn
tụt hậu cho dù “nguy cơ” này
đã được chỉ ra từ năm 1994.
Chính sách đất đai, thay vì lựa chọn những phương thức sở hữu giải
phóng tối đa tiềm lực trong đất và trong dân lại cứ tự trói buộc vào sở
hữu toàn dân, chỉ vì phương thức này được coi là đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Nền kinh tế thay vì chọn phương thức hiệu quả nhất đã
phải để cho kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Hệ thống chính trị thay vì
lấy sự minh bạch, đảm bảo nguyên tắc kiểm soát quyền lực để có thể mang
lại công lý và tránh tham nhũng, lạm quyền lại ưu tiên đảm bảo vị trí
cầm quyền của Đảng.
Quyền Bính
tiếp tục nói về những khúc quanh của Việt Nam. Nói về những thời điểm
mà Đảng cầm quyền thay vì nắm bắt tư duy của thời đại và ý chí của nhân
dân, chỉ có thể loay hoay trong một cái vòng tự vẽ. Hệ thống chính trị,
trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục
sai lầm.
Sài Gòn – Boston (2009-2012)
HUY ĐỨC
NGUỒN : Osin
- Huy Đức (FB) ngày 11.1.2013
Đây là lời tựa cuốn QUYỀN BÍNH tức là tập 2 của BÊN THẮNG CUỘC
Địa
chỉ mua sách :
Kindle của Amazon: http://www.amazon.com/dp/B00AKAQUJA
Các dạng khác (Nook, etc...): https://www.smashwords.com/books/view/263208
Sách in :
Có thể pre-order từ transsolutions@comcast.net,
412-897-5762,
gởi check/money order đến: Transpacific Solutions LLC, 107 Marshall
Drive, Sharpsburg, PA 15215
Bên Thắng Cuộc
Huy Đức
[1] Cho đến Năm 2005, ông Nguyễn
Thành Đệ đã chết gục trên bàn tiếp dân của Sở Xây dựng, kết thúc bi
kịch đòi lại căn nhà mà ông đã bị tịch thu năm 1979.
[2] Tên thường gọi của ông Trần Minh
Đức, Phó tổng biên tập Tuổi Trẻ 1981-1997,
người được coi là “bộ óc chiến lược” của báo.
[3] Tổng biên tập Tuổi Trẻ 1979-1983, Phó tổng biên
tập báo Sài Gòn Giải Phóng
1983-1990 và sau đó là Tổng biên tập Thời
báo Kinh tế Sài Gòn 1990-2006.
[4] Gồm Lê Thọ Bình, Tâm Chánh, Thanh
Tâm, Phan Ngọc, Bùi Thanh, Kim Trung, Minh Đức, Minh Hà…
Các thao tác trên Tài liệu