Hành trình thơ “Đánh thức tiềm lực”

Nguyễn Duy

Tác giả cho biết bài này đã đăng trên báo Tuổi Trẻ số Tết Bính Tuất, 2006, có bị lược bỏ một số câu chữ. Đây là bản gốc.

Văn Việt

clip_image002

Từ trái qua: Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng, Võ Văn Kiệt, Trịnh Công Sơn.

Ảnh TL, báo Tuổi Trẻ, số tết Bính Tuất-2006.

1.

Hồi này, thời thế “dễ thở hơn” rồi. Thẫn thờ nhớ một “thời khó thở”, thời hậu chiến gian khổ, kéo dài hơn một thập kỷ sau 1975.

30.4.1975 – cả dân tộc thở phào nhẹ nhõm trút gánh nặng 30 năm máu lửa khốc liệt. Một thằng lính làm thơ là tôi, không chỉ thở phào mà còn nhảy dựng lên, hát toáng lên:

“…Tôi đi tìm thân nhân/ qua rừng già nguyên thủy/ tôi đi tìm thân nhân qua rừng kẽm gai Mỹ/… Hỡi ai không gặp thân nhân/ xin cùng tôi chung mái nhà ấm áp/ là nguyên vẹn Nhân Dân – Tổ Quốc/ ta hành hương trên đất đai sum họp/ nơi nào cũng có thân nhân!… (Tìm thân nhân – 1975).

Phơi phới vui hòa bình, thống nhất. Và hi vọng xanh rờn. Trên đất đai này chỉ còn người Việt Nam với nhau. Đã có người tếu táo rằng: Từ nay sẽ không còn kẻ ngoại bang nào dám đụng đến cái lông chân của người Việt Nam!.Vậy mà, đáng tiếc thay, chính người Việt Nam với nhau lại đưa nhau vào một thời ngạt thở mới.

Thời đó, sau 1975, bạt ngàn lính giải ngũ, trở lại nơi xóm làng xơ xác sau chiến tranh. Triệt để hợp tác hóa ở nông thôn. Đánh tư sản, triệt nhà giàu ở thành thị. Kẻ vào trại học tập cải tạo, không bản án, không thời hạn. Người ra biển vượt biên không hẹn ngày về, phó mặc sinh mạng cho sóng gió và ma quỉ. Đất nước liền một dải mà lắm nhà lại lâm cảnh li tán. Mà cõi lòng lại đau nỗi cắt chia mới. Lương thực viện trợ của ngoại bang như hồi chiến tranh không còn nữa. Nạn đói hoành hành khắp nước. Đột ngột lính Pôn-pốt tràn sang, thảm sát dã man dân lành suốt một dải biên giới Tây-Nam. Lại đột ngột súng nổ, lại chết người, lại cháy nhà, suốt toàn tuyến biên giới phía Bắc. Một thằng lính làm thơ là tôi đã cởi áo lính rồi, lại cùng lính ra mặt trận phía Nam, lên mặt trận phía Bắc. Lại đột ngột làm thơ trận mạc: “…Biên ải xưa giặc giã mới tràn vào / máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới / gian truân xưa cứ tưởng đã cũ rồi…” (Lên mặt trận ngày đầu – Lạng Sơn 17.2.1979).

Nền kinh tế quốc gia “tụt dốc theo chiều rơi thẳng đứng” (chữ của nhà thơ Tố Hữu – Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ). Lại thiếu gạo. Lại đứt bữa. Lại thấy người ăn mày đầy đường. Lại ăn độn đủ cả sắn, ngô, khoai, bo bo, mì sợi, mì bột, mì hột. Nhà tôi bắt đầu nuôi lợn trên lầu ba, nâng con lợn lên ngang tầm thời đại…

2.

Thời đó, gia đình tôi ở trong khu tập thể Hội Văn Nghệ thành phố: “…lầu ba, nhà 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa/ tiếng tắc kè nhỏ giọt trong đêm/ tiếng mưa rừng nhỏ giọt trong trí nhớ/ vết đạn trên tường dù trát lại vẫn có màu vôi khác…”. Nghe tiếng tắc kè kêu trong thành phố, nhìn thấy ánh trăng một đêm cúp điện, lại nhớ về những cánh rừng xưa, những bạn lính cũ. Lại thương đến nhão lòng những ước mơ đơn sơ, mộc mạc một thời. Về với mẹ. Về với vợ con. Về với thanh bình vườn ruộng. Về để làm cho dân giàu nước mạnh. Sắp về!… Sắp về!… Con tắc kè, trên rừng cây “giơ xương trắng lên trời” do chất độc khai quang hồi đó, nó nói thế. Nó nhắc thế. Nó cứ điệp khúc thế. Cái điệp khúc mơ của người lính trận.

Đến lúc “nghe tiếng tắc kè kêu trong thành phố”, một cựu binh là tôi lại bắt đầu mơ một điệp khúc mơ đơn sơ mộc mạc khác: “Hãy thức dậy, đất đai/ cho áo em tôi không còn vá vai/ cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn….

Bắt đầu một nỗi day dứt khác: “…Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non/ châu báu vô biên dưới thềm lục địa/ rừng đại ngàn bạc vàng là thế/ phù sa muôn đời sữa mẹ/ sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể/ còn mặt đất hôm nay – em nghĩ thế nào?/ lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?…

Đó là nỗi day dứt của một thường dân. Một thường dân làm thơ: “…Lúc này ta làm thơ cho nhau/ đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt/ ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ tiềm lực còn ngủ yên…

Từng chút, từng chút, ý tứ bài thơ Đánh thức tiềm lực (ĐTTL) tượng hình dần trong tâm trí tôi, đến đầu năm 1980 mới ngọ nguậy nở thành từng con chữ trên giấy. Những dòng chữ nặng nề và chậm chạp chở lênh đênh tâm sự trầm buồn chân thật như bọt bèo, như rều rác bập bềnh trôi trên dòng sông tuổi thơ.

Khởi hành từ “…bờ bãi sông Hồng/ trong màu mỡ phù sa máu loãng/ mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào/ điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói…, tôi đi qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng/ đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ/ cơn gió Lào rát ruột lắm em ơi/ hạt thóc ở đây cũng chết đi sống lại/ hạt gạo cũng kết tinh như hạt muối/ cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời… rồi vào tới phương Nam “châu thổ mới bồi/ sông Cửu Long tự giãn mình ra biển/ cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi…”. Ở đâu cũng thấy “đất nước của ba miền cày ruộng/ chưa đủ no cho đều khắp ba miền/ ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ tiềm lực còn ngủ yên…” Tôi định viết chừng vài ba chục dòng như vậy.

Thêm rồi bớt, viết rồi sửa, đến giữa năm 1982 bài thơ dài ra thành vài trăm dòng. Tôi tự thấy nó còn nôm na lắm, ngôn ngữ thơ chưa được như ý. Nhưng cái được ở đây là cái tâm tình thật của tôi. Thôi, cứ để thế. Tôi dừng bài thơ lại với đoạn kết: “Tôi muốn làm tiếng hát của em/ tiếng trong sáng của nắng và gió/ tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai/ tiếng trần trụi lưỡi cuốc/ lang thang khắp đất nước/ hát bài hát Đánh Thức Tiềm Lực!”.

3.

Bài thơ đi từ trong lòng ra nên tôi thuộc lòng nó ngay từ lúc vừa viết vừa sửa, cứ lẩm bẩm một mình như lên cơn thần kinh. Thời đó, thơ như thế là “gai góc” quá, thậm chí là “phản động”, không những bị cấm in mà còn bị cấm đọc. Cái thời, hễ có ai phát ngôn khác đi so với công thức phát ngôn chính thống thì đều bị qui là “phản động”, bị “kiểm thảo”, bị “kỷ luật”, nặng hơn thì bị bắt giam. Những “tấm gương tày liếp” mà tôi nhìn thấy còn sờ sờ ra đó, nhiều người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, thực chất họ là những người lính xung kích, những nhà tiên phong của thời đại, hăng hái “nói thẳng, nói thật” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô”… đã bị kết tội chính trị, bị bỏ tù, bị “cải tạo lao động”, bị đuổi việc, bị cấm viết… Còn những “tấm gương tày trời” mà tôi chỉ nghe đồn thôi thì nhiều lắm lắm.

Bản thân tôi, năm 1973-1974 ở Hà Nội, cũng đã từng khốn đốn, lao đao vì mấy bài thơ “có vấn đề” (Thơ tặng người ăn mày – vấn đề: bôi nhọ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Đứng lại: chủ nghĩa nhân đạo chung chung, Đối thoại trước khi đổi chỗ: hàm ý nổi loạn…) bị viết bản “tự kiểm” (14 trang giấy khổ lớn, hồi ấy gọi là “giấy năm hào hai”), bị an ninh quân đội thẩm vấn, bị xếp vào đám “hậu Nhân Văn” (chữ của nhà thơ Chế Lan Viên trong một cuộc họp tại Hội Nhà văn Việt Nam lúc bấy giờ) cùng với những Hoàng Cát (truyện ngắn Cây táo ông Lành), Phạm Tiến Duật (bài thơ Vòng trắng), Ngô Văn Phú (bài thơ Sẹo đất), Võ Văn Trực (bài thơ Chim báo bão), v.v. May thay, cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1975 bùng nổ, rồi thống nhất đất nước. Sự kịên lịch sử lớn lao xóa phăng đi cuộc sát phạt nhỏ mọn trong làng văn tù túng, lũ chúng tôi bỗng tự nhiên thoát nạn.

Thế mà, ngay khi tôi vừa viết xong bài ĐTTL, đột ngột được tin lão thi sĩ Hoàng Cầm bị tống ngục Hỏa Lò chỉ vì tội tự ý tán phát bản chép tay tập thơ Kinh Bắc của chính ông, trong đó có bài Lá Diêu bông “ám chỉ Chủ Nghĩa Xã Hội là không tưởng”. Tiếp đó, tin bạn thơ Hoàng Hưng cũng bị tóm cổ (sau này tôi mới biết anh bị đưa đi tù không án 39 tháng) vì trọng tội làm một số bài thơ chưa in nhưng có “vấn đề”, cộng với tội lưu giữ thơ Kinh Bắc của họ Hoàng. Tin dữ khiến tôi không khỏi chột dạ. Tự xem xét lại mình, thơ của tôi rõ ràng là có “rất nhiều vấn đề”. Xin nhớ cho, lúc đó là giữa năm 1982.

… Lời nói thật thà có thể bị xử tội/ lời nịnh hót, dối lừa có thể được tuyên dương/ Có cái miệng làm chức năng cái bẫy/ sau nụ cười là lởm chởm răng cưa/ có cái môi mỏng ráp hơn lá mía/ hôn má bên này bật máu má bên kia/ có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa/ khái niệm bắn đi không biết lối thu về…/ Cần lưu ý có lắm nghề lạ lắm/ nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau/ nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo/ nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào/ có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả/ thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…”( ĐTTL đoạn viết năm 1980).

Viết thế ấy thì in ở đâu, và đọc cho ai? Chỉ dám đọc chơi với vài bạn rượu tri kỷ. Được đoạn nào “rỉ tai” đoạn nấy, từng đoạn, từng đoạn rời rạc. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng an ủi tôi: “Cứ đợi đấy, rồi sẽ đến hồi có người nghe và có người in”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì “triết” hơn: “Sự chân thành tự nó hóa giải bế tắc. Hãy xem lại cái cây mình có thật ngay thẳng không. Cây ngay chẳng sợ chết đứng”. Tôi đã thấy những “cây ngay” mà vẫn bị “chết đứng”, nên lòng cứ thấp thỏm một nỗi lo ngại không xác định, tự nhủ mình phải giữ gìn, chớ hớ hênh mà rước vạ.

4.

Khốn nỗi, cũng giống như có ghẻ phải gãi, có thơ không thể không đọc. Không được in thì cứ đọc, “mai sau dù có ra sao cũng đành” (một câu hát của Trịnh Công Sơn). Oái oăm thay, lần đầu tiên tôi công bố ĐTTL, đọc liền mạch hoàn chỉnh toàn bài thơ, lại là đọc tặng một người thuộc lớp người “đáng sợ” nhất lúc bấy giờ: ông Võ Văn Kiệt, tức Sáu Dân – Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.

Hồi đó, khoảng đầu thu năm 1982, ông Sáu chuẩn bị thôi giữ chức Bí thư Thành ủy để ra Hà Nội làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Ông Nguyễn Quang Sáng chợt nảy sáng kiến họp mặt vài anh em bạn ruột (ngay tại căn hộ lụp xụp của ông trong khu tập thể 194 B Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để mời ông Sáu đến… chơi! “Quí trọng ông Sáu thì tụi mình mới mời ổng uống li rượu đế. Trước, để coi ổng có chịu đến[*] chơi không. Sau, để nói thẳng nói thật với ổng chút ít tâm sự của tụi mình về tình hình thế sự”. Ông Sáng xác định “mục đích và ý nghĩa” cuộc gặp như vậy, rồi gọi điện thoại “thử” xin nói trực tiếp với ông Sáu. Ông Sáu nhận lời ông Sáng.

Cuộc “chơi” hôm đó thật thoải mái và vui vẻ. “Phe văn nghệ” có nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, nhà thơ Nguyễn Bá (từ Cần Thơ lên) và tôi. “Phe chính trị” có mỗi ông Sáu.

Với nét cười hồn hậu, cởi mở, ông Sáu nói rất ít, không một lời “huấn thị”, chỉ kể một kỉ niệm nhậu vui hồi chiến tranh, rồi chăm chú lắng nghe chúng tôi hát và “tự do ngôn luận”. Nguyễn Quang Sáng nói chuyện viết và lách, viết đã khó, lách còn khó hơn. Trịnh Công Sơn vừa hát tình ca vừa góp ý với lãnh đạo thành phố về vấn đề… ẩm thực. Trần Long Ẩn trổ tài “ca bài ca cà chớn”, những ca khúc lời nhại hài hước giễu cợt cả thời đại. Còn tôi, không biết nói gì hơn là “xin đọc tặng anh Sáu” một bài thơ vừa ráo mực, bài “Đánh Thức Tiềm Lực”…

5.

[Xin chèn ngang một mẩu chuyện cũ… Tôi chỉ mới được gặp ông Sáu mỗi một lần, khoảng giữa năm 1981, trong buổi tổng kết cuộc sinh hoạt chính trị (do nhà thơ Bảo Định Giang điều hành) chuẩn bị thành lập Hội Nhà văn TP.HCM. Thấy nhiều người đọc thơ tặng ông Sáu, tôi cũng đọc, bài Ông già Hậu Giang ngang tàng (bản in sau đó đổi ra Ông già Nam Bộ), và bài Bán vàng – để “báo cáo” với Bí thư Thành ủy về đời sống thực của số đông thi sĩ lúc bấy giờ.

Khúc dạo đầu còn e dè lắm, tôi nơm nớp lo có người ngăn cản: “Tâm hồn ta là một khối vàng ròng/ đành đem bán bớt đi từng mảnh nhỏ/ Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi/ để mặc kệ mái nhà xưa dột nát/ mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác/ mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao/ ta rất gần bể rộng với trời cao để xa cách những gì thân thuộc nhất

Không bị ai chặn lời, tôi mạnh dạn “làm tới”: Cái ác biến hình lởn vởn quanh ta/ tai ách đến bất thần không báo trước/ tờ giấy mong manh che chở làm sao được/ một câu thơ chống đỡ mấy mạng người/ Vợ chồng ngủ với nhau đắn đo như vụng trộm/ không cái sợ nào bằng cái sợ sinh con/ hạnh phúc lớn vòng tay ôm không xuể…”.

Vẫn không thấy ai chặn lời. Phòng họp lặng ngắt. Tôi bình tâm kết thúc bài thơ: “Thì bán bớt đi một ít vàng ròng / để sống được qua ngày gian khổ đã/ phải sống được qua cái thời nghiệt ngã/ để khối vàng đây chỉ đổi lấy mây trời!”.

Sau cuộc họp đó, tôi không những không bị “búa” như dự đoán của tôi và của nhiều người khác, mà lạ thay, còn được người thư kí của Bí thư Thành ủy tìm gặp: “Anh Sáu nhắn cậu chép tặng anh ấy bài Bán vàng và bài Ông già Hậu Giang để làm kỉ niệm tình cảm”. Tôi hơi ngại, hỏi lại Nguyễn Quang Sáng: “Liệu có phải ông Sáu cần văn bản chứng cớ để xử lý?…”. Ông Sáng nói: “Chắc không phải. Nếu muốn xử, ổng chỉ cần ra lệnh”. Tôi bèn chép hai bài thơ và không quên ghi cẩn thận dưới tên mỗi bài: “Tác giả chép tặng anh Sáu Dân để làm kỉ niệm tình cảm.

Ít lâu sau, tại cuộc gặp gỡ nhân dịp Đại hội thành lập các Hội nghệ thuật chuyên ngành của thành phố, với tư cách Bí thư Thành ủy, ông Sáu nói chuyện với đông đảo văn nghệ sỹ. Trong bài nói không dài đó của ông Sáu Dân có một đoạn tôi không bao giờ quên: “Vừa qua, tôi đã nghe và đã đọc bài thơ Bán vàng của nhà thơ Nguyễn Duy. Theo tôi, đó là một bản án nhân tình đối với chế độ của chúng ta. Đau, nhưng là sự thật. Chúng ta cần chân thành nhìn nhận sự thật, để cùng nhau vươn lên, vượt qua giai đoạn khó khăn. Muốn vượt lên thì phải có niềm tin. Mà cốt lõi của niềm tin là tin ở con người…”.

Lần đầu tiên tôi trực tiếp nghe một bài huấn thị chính trị như thế, trực tiếp thấy một nhà lãnh đạo chính trị ứng xử như thế. Đó là khoảng giữa năm 1981. Quả là bất ngờ. Tự nhiên tôi xúc động, vì một cái gì đó mà tôi chưa biết gọi nó là cái gì, hình như nó chỉ là cái lẽ nhân tình bình thường mà sao ta ít thấy ở những vị quan lớn. Và, tự nhiên tôi cảm thấy tin ông]…

6.

Lúc này, với tất cả nỗi niềm “tin ở con người”, tôi lại trang trọng tặng ông Sáu một “rừng gai góc” mới: “…Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo/ quen cái thói hay nói về gian khổ/ dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm/ Thuở tới trường cũng đầu trần chân đất/ chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai/ thầy giáo giảng rằng nước ta giàu lắm/ lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài…

Tôi đứng ngay ngắn, nhìn thẳng ông Sáu mà đọc, thấy ông không cười cười nữa, hơi cúi đầu đăm chiêu với gương mặt bình thản không phơi lộ cảm xúc. Tôi bình tâm làm phận sự của mình: “…Xưa mẹ ru cho ta ngủ yên lành/ để khôn lớn ta hát bài đánh thức/ có lẽ nào người lớn cứ ru nhau/ ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt…/ Tiềm lực còn ngủ yên trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng/ Tiềm lực ngủ yên trong bộ óc mang khối u tự mãn/ Tiềm lực ngủ yên trong con mắt lờ đờ đục thủy tinh thể/ Tiềm lực ngủ yên trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ/ Tiềm lực ngủ yên trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm/ Tiềm lực ngủ yên trong lớp da biếng lười cảm giác…

Không ngắc ngứ, không ngừng nghỉ, tôi kéo một lèo khoảng mười phút cho đến hết bài thơ. Thấy ai nấy ngồi lặng. Ông Sáu cũng im lặng chốc lát, rồi chậm rãi: “Nặng lắm. Nhưng chịu được”. Hình như ông vừa trải qua một cuộc tra tấn. Ông tiếp: “Nếu kể về cái tiêu cực thì tôi kể một tuần lễ không hết. Còn nếu kể về cái tích cực thì tôi kể một tháng cũng không hết. Nhưng vấn đề ở đây không phải là chống tiêu cực hay biểu dương tích cực. Vấn đề ở đây là con người, là văn hóa. Con người có thức dậy thì đất đai mới thức dậy được…”.

Nghe ông Sáu, tôi thở phào nhẹ nhõm, trút bỏ nỗi lo ngại không xác định lâu nay vốn nặng trĩu lòng. Thì ra, những câu thơ “khó chịu” thế kia không phải chờ đến mai sau mới có người lắng nghe và chia sẻ. Những người “chịu nghe” và “chịu được” loại thơ “nặng lắm” ấy đã hiện diện quanh tôi ngay từ “thời khó thở” đó.

7.

Sau cuộc đọc thơ đó, tôi đem ĐTTL đi đọc và “tán phát” ở nhiều nơi. Có nơi “hoan hô nhiệt liệt”, mời đọc, cho phát hành bài thơ bằng băng ghi âm hoặc bản in rô-nê-ô. Lại có nơi cấm đọc, cấm lưu hành cũng bài thơ đó. Nó xuất hiện muộn hơn trên mặt báo và sách. Lần đầu tiên ĐTTL được in là in trên tờ Văn Nghệ Đồng Nai do nhà thơ Xuân Sách làm Tổng biên tập, số tháng 12.1984. Nhưng tờ báo văn tỉnh lẻ này chỉ ra mỗi tháng một kì, mỗi kì mấy trăm bản, loanh quanh trong “xóm” Đồng Nai, ít ai biết đến.

Mãi 1986, sau nghị quyết “Đổi Mới” của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam – được coi là đại hội “mở cửa” và “cởi trói” – bài thơ ĐTTL mới được đăng nguyên văn trên báo Tuổi Trẻ, được phát hành khắp trong nước và ngoài nước. Năm 1987, ĐTTL có mặt đàng hoàng trong tập thơ Mẹ và Em cùng với bài viết Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy của Nguyễn Quang Sáng (Nhà xuất bản Thanh Hóa). Và từ đó nó đã được chọn vào nhiều tuyển tập. Có một dòng đề từ ngay dưới tên bài thơ, tôi viết thêm sau cuộc đọc thơ vừa kể, để ghi nhớ một kỉ niệm sâu sắc thời kì trước đổi mới: “Tiễn đưa anh Sáu Dân đi làm kinh tế.

Chính nhờ có những người-đánh-thức-tiềm-lực không biết mệt mỏi, những người dám “xé rào cơ chế”, dám “chịu nghe” những gì khác đi, thậm chí là ngược lại cái công thức phát ngôn chính thống, dám hành động vừa quyết đoán vừa nhân tình… như ông Sáu Dân, chúng ta mới có được một con đường đổi mới với những ngày “dễ thở hơn” như hôm nay. Ấy mới “dễ thở hơn” thôi, chứ con đường phía trước còn mịt mờ xa thẳm. Chạnh nhớ một ý thơ của thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương (thời Trần): “Ngang đầu khan bất tận/ Lai lộ hựu trùng trùng. Ngẩng đầu trông tới bao la/ con đường phía trước còn xa trùng trùng…

Tháng Tám. 2005.

(Bài đã in báo Tuổi Trẻ số Tết Bính Tuất, 2006, có lược bỏ một số câu chữ)

ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC

Tiễn đưa anh Sáu Dân đi làm kinh tế

Hãy thức dậy, đất đai!

cho áo em tôi không còn vá vai

cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…

xin bắt đầu từ cơm no áo ấm

rồi sẽ đi xa hơn – đẹp và giàu, và sung sướng hơn

Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non

châu báu vô biên dưới thềm lục địa

rừng đại ngàn bạc vàng là thế

phù sa muôn đời sữa mẹ

sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể

còn mặt đất hôm nay em nghĩ thế nào?

lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?

* * *

Lúc này ta làm thơ cho nhau

đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt

ta ca hát quá nhiều về tiềm lực

tiềm lực còn ngủ yên…

* * *

Tôi lớn lên trên bờ bãi sông Hồng

trong màu mỡ phù sa máu loãng

giặc giã từ con châu chấu con cào cào

mương máng đê điều ngổn ngang chiến hào

trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc

giọt mồ hôi nào có gì to tát

bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông

Bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất mất đồng

thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bảy nổi

khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi

hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai

đói

đói thâm niên

đói truyền đời

điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói …

* * *

Tôi đã qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng

một bên Trường-Sơn-cây-xanh

bên còn lại Trường-Sơn-cát-trắng

đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng

cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi

ngọn cỏ nhọn thành gai trốn không khỏi úa

đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ

cơn gió lào rát ruột lắm em ơi

Hạt giống ở đây chết đi sống lại

hạt gạo kết tinh như hạt muối

cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời.

* * *

Tôi về quê em – châu thổ mới bồi

sông Cửu Long giãn mình ra biển

đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển

cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi

Đất tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt

lòng còn chát chua nào mặn nào phèn

má sung sức và ba cường tráng thế

man mác âu sầu câu hát ru em

Đã qua đi những huyền thoại cũ mèm

những đồng lúa ma không trồng mà gặt

những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt

những ghểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn thật

miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!

Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi

đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện

con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng

thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển

phà Cần Thơ lê lết người ăn xin

cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ

quán nhậu lai rai – nơi thừa thiếu trốn tìm

* * *

Này, đất nước của ba miền cày ruộng

chưa đủ no cho đều khắp ba miền

ta ca hát quá nhiều về tiềm lực

tiềm lực còn ngủ yên.

* * *

Lúc này, tôi làm thơ tặng em

em có nghĩ tôi là đồ vô dụng?

vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì?

và trả lại được gì cho cuộc sống?

Em có nghĩ tôi là con chích chòe

ăn và gại mỏ?

Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?

Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy

múa võ bán cao trên trang viết mong manh?

tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh?…

tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc?

Em có nghĩ…

mà thôi!

* * *

Xin em nhìn kia – người cuốc đất

(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)

cái cuốc theo ta đời này, đời khác

lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi

dướn mình cao

chĩa cuốc lên trời

bổ xuống đánh phập

đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!

Xin em nhìn kia- người gánh phân, gánh thóc

(tôi cũng từng mòn vai gánh phân, gánh thóc)

kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng

đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh

Những cái đẹp kia… em có chạnh lòng không?

cái đẹp gợi về thuở ngày xưa ngày xửa

nhịp theo tiết tấu chậm buồn

cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa!

Em có chạnh lòng chăng

giữa thành phố huy hoàng năm một chín tám mốt

bỗng hiện lù lù cụ xe hơi chạy than

vệt than rơi tóe lửa mặt đường

Em có chạnh lòng chăng

xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang

xích lô máy và xe lam chạy dầu vừa nã đại liên vừa phun khói độc

người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực

tiềm lực còn ngủ yên…

* * *

Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo

quen cái thói hay nói về gian khổ

dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm

Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất

bãi tha ma không một cái mả xây

mùa gặt hái rơm nhiều thóc ít

lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày

Thuở tới trường cũng đầu trần chân đất

chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai

thầy giáo giảng rằng

nước ta giàu lắm!…

lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài

* * *

Lúc này

tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa

ta biết buồn để biết lạc quan

để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con

(dù sau này dầu mỏ đã phun lên

quặng bôxít cao nguyên đã thành nồi thành soong

thành tàu bay hay tàu vũ trụ

dù sau này có như thế… như thế… đi nữa

chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)

đừng quên đất nước mình nghèo!

Lúc này

tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa

tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh

sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng

trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh

vẫn trang trọng tấm lòng trung thực

dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước

dù có sao thì cũng phải chân thành.

Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành

để khôn lớn ta hát bài đánh thức

có lẽ nào người lớn cứ ru nhau

ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt.

* * *

Tiềm lực còn ngủ yên

trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng

Tiềm lực còn ngủ yên

trong bộ óc mang khối u tự mãn

Tiềm lực còn ngủ yên

trong con mắt lờ đờ đục thủy tinh thể

Tiềm lực còn ngủ yên

trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ

Tiềm lực còn ngủ yên

trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm

Tiềm lực còn ngủ yên

trong lớp da biếng lười cảm giác

Năng động lên nào

từ mỗi tế bào từ mỗi giác quan

cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi

* * *

Cần lưu ý

lời nói thật thà có thể bị buộc tội

lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương

đạo đức giả có thể thành dịch tả

lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường

Cần lưu ý

có cái miệng làm chức năng cái bẫy

sau nụ cười là lởm chởm răng cưa

có cái môi mỏng hơn lá mía

hôn má bên này bật máu má bên kia

có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa

khái niệm bắn ra không biết lối thu về

Cần lưu ý

có lắm sự nhân danh lạ lắm

mượn áo thánh thần che lốt ma ranh

nhân danh thiện tâm làm điều ác đức

rao vị nhân sinh để bán món vị mình

Cần lưu ý

có lắm nghề lạ lắm

nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau

nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo

nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào

có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả

thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…

Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy

phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê

* * *

Tôi muốn được làm tiếng hát của em

tiếng trong sáng của nắng và gió

tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai

tiếng trần trụi lưỡi cuốc

lang thang

khắp đất nước

hát bài hát

ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…

(Tp. Hồ Chí Minh, 1980 – 1982 )


[*] Nguyên văn bản thảo không có chữ đến. Trước khi gửi đăng báo Tuổi Trẻ, tác giả xin cụ Sáu đọc lại giùm để góp ý sửa những gì chưa chính xác. Cụ Sáu trực tiếp đọc và đề nghị thêm chữ đến, sửa "có chịu chơi không" thành "có chịu đến chơi không".

Comments are closed.