16.6.20

Kỷ nguyên tân tự do đang đến hồi cáo chung. Tiếp theo là gì?

KỶ NGUYÊN TÂN TỰ DO ĐANG ĐẾN HỒI CÁO CHUNG. TIẾP THEO LÀ GÌ?
Rutger Bregman
Trong cơn khủng hoảng, điều từng là không thể tưởng tượng nổi lại bỗng trở thành điều hiển nhiên. Chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi xã hội toàn diện kể từ thế chiến thứ hai. Và chủ nghĩa tân tự do đang hấp hối. Vậy nên, những ý tưởng mà cách đây chỉ vài tháng dường như bất khả, từ việc đánh thuế người giàu cao hơn cho tới chính phủ vững mạnh hơn, sẽ dần được hiện thực hóa.
Hình minh họa bởi Ralph Zabel, dành cho Correspondent
Có người bảo không nên chính trị hóa trận đại dịch này. Rằng làm như vậy chẳng khác nào tỏ ra cao đạo. Như kẻ cuồng tín thốt lên rằng đó là cơn thịnh nộ của đức Chúa Trời, hay phe dân túy phao tin về “virus Trung Quốc”, hay người quan sát thế sự dự báo rằng chúng ta cuối cùng cũng chạm cửa kỷ nguyên của tình yêu thương, sự quan tâm, và phúc lợi phổ quát cho mọi người.
Cũng có người nói đây chính là lúc để lên tiếng. Rằng những quyết định được thực hiện tại thời điểm này sẽ có tác động dài lâu đến nhiều mặt trong tương lai. Hay như chánh văn phòng nội các thời Obama phát biểu sau khi ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ năm 2008: “Chúng ta không bao giờ muốn bỏ phí [các cơ hội từ] một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.”
Trong vài tuần đầu của trận đại dịch, tôi từng có xu hướng nghiêng về phe lạc quan. Tôi từng viết về các cơ hội mà các cuộc khủng hoảng mang lại, nhưng bây giờ làm vậy có vẻ sống sượng, thậm chí phản cảm. Ngày qua ngày. Tình hình dần hé lộ rằng cuộc khủng hoảng này có thể kéo dài nhiều tháng, một năm, thậm chí lâu hơn. Và những biện pháp chống khủng hoảng áp dụng tạm thời trong ngắn hạn có thể trở thành trường cửu.
Lúc này không ai biết chuyện gì sẽ đến. Nhưng chúng ta không biết chính vì tương lai quá bất định, chúng ta cần phải bàn về nó.

Vật đổi sao dời

Vào ngày 4/4/2020, tờ Financial Times có trụ sở đặt tại Anh đã đăng một bài xã luận có nhiều khả năng được các nhà sử học trích dẫn trong các năm tới.
Financial Times là tờ nhật báo hàng đầu thế giới về kinh doanh và, nói cho ngay, không phải là một tờ báo cấp tiến. Độc giả của tờ báo này là giới tài phiệt giàu có nhất và quyền lực nhất trong hệ thống chính trị và tài chính toàn cầu. Mỗi tháng, tờ báo này xuất bản một tạp chí đi kèm có tựa đề không biết ngượng “Xài tiền như thế nào” chuyên viết về du thuyền, biệt thự, đồng hồ, và xe hơi.
Nhưng vào một sáng thứ Bảy đáng nhớ của tháng Tư, tờ báo đó đã đăng nội dung này:
“Cải cách triệt để - đảo ngược định hướng chính sách thịnh hành trong bốn thập kỷ qua - sẽ cần được đưa ra bàn thảo. Các chính phủ sẽ phải đảm nhận vai trò chủ động hơn trong nền kinh tế. Họ phải xem dịch vụ công là các khoản đầu tư thay vì các khoản nợ phải trả, và tìm cách làm cho thị trường lao động ít bất an hơn. Tái phân phối sẽ lại xuất hiện trong nghị trình; bàn về các đặc quyền của người cao tuổi và người giàu có. Các chính sách mà đến tận gần đây vẫn bị coi là dị biệt, như thu nhập cơ bản và thuế tài sản, sẽ phải nằm trong kế hoạch cải cách.”
Chuyện gì đây? Làm thế quái nào mà diễn đàn của chủ nghĩa tư bản lại bất thình lình ủng hộ tái phân phối nhiều hơn, chính phủ phình to hơn, và thậm chí cả thu nhập cơ bản?

Hàng thập kỷ nay, thể chế này trụ vững đằng sau mô hình tư bản chủ nghĩa với chính phủ nhỏ gọn, thuế thấp, an sinh xã hội có chừng mực - hay quá lắm là những đặc điểm nổi bật nhất đã lu mờ phần nào. Theo một phóng viên đã làm việc cho tờ báo từ năm 1986: “Trong suốt những năm tôi làm việc ở đó, tờ Financial Times, một cách thực dụng, đã ủng hộ chủ nghĩa thị trường tự do. Bài xã luận này của ban biên tập đưa chúng tôi vào một hướng mới đầy táo bạo.”
Các ý tưởng trong bài xã luận đó không nảy ra một cách tình cờ: chúng đã trải qua một quá trình rất dài, đi từ các tư tưởng phi chính thống đến tư tưởng chính thống. Từ những khu phố lều của người chủ trương vô chính phủ đến các buổi mạn đàm phát sóng giờ vàng; từ các blog vô danh đến tờ Financial Times.
Và giờ đây, giữa cơn khủng hoảng lớn nhất từ sau thế chiến thứ hai, những ý tưởng đó có thể làm thay đổi thế giới.
*
Friedrich Hayek (1899-1992)
Milton Friedman (1912-2006)
Để hiểu rõ nguồn cơn, chúng ta cần nhìn lại lịch sử. Hiện có thể khó mà tưởng tượng rằng, có một thời kỳ - cách đây chừng 70 năm - những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do từng là những nhà tiên tiến.
Vào năm 1947, một viện nghiên cứu chính sách nhỏ được thành lập ở làng Mont Pèlerin ở Thụy Sỹ. Hội Mont Pèlerin gồm các tên tuổi tự xưng là “những nhà tân tự do”, như triết gia Friedrich Hayek và kinh tế gia Milton Friedman.
Thời đó, ngay sau chiến tranh, hầu hết các chính trị gia và kinh tế gia đều đi theo các ý tưởng của John Maynard Keynes, kinh tế gia người Anh, và ủng hộ chính phủ mạnh, thuế cao, và hệ thống an sinh xã hội vững chắc. Trái lại, những nhà tân tự do lo ngại các chính phủ ngày càng lớn mạnh sẽ mở ra một kiểu chuyên chế mới. Vậy nên họ chống đối.
John M. Keynes (1883-1946)

Các thành viên của Hội Mont Pèlerin biết rằng con đường của họ rất dài. Theo Hayek, quãng thời gian để cho các ý tưởng mới trở nên thịnh hành “thường là một thế hệ hay thậm chí lâu hơn”, “và đó là một lý do tại sao ... tư tưởng hiện tại của chúng ta dường như không có chút sức mạnh nào tác động đến các sự kiện.”
Friedman có quan điểm tương đồng: “Những người hiện đang điều hành đất nước thể hiện tư duy của hai thập kỷ trước, khi họ còn đi học.” Ông ta tin rằng hầu hết mọi người phát triển các ý tưởng vào thời niên thiếu. Điều này giải thích tạo sao “các lý thuyết cũ vẫn thống trị những gì diễn ra trên trường chính trị[1].
Friedman là người truyền bá các nguyên lý thị trường tự do. Ông tin vào tính ưu việt của sự tư lợi. Dù là vấn đề gì, thì giải pháp của ông rất đơn giản: giải tán chính phủ, kinh doanh muôn năm. Hay đúng hơn là chính phủ nên chuyển đổi mọi ngành thành ra thị trường, từ y tế đến giáo dục. Bằng vũ lực, nếu cần thiết. Thậm chí trong trường hợp thiên tai, các công ty cạnh tranh nên phụ trách việc tổ chức cứu trợ.
Trên: Hayek, dưới: Friedman. Nguồn: Wikimedia
Friedman biết mình từng là một nhà tiên tiến. Ông biết mình đã rời xa dòng tư tưởng chính thống. Nhưng điều đó chỉ tiếp thêm nghị lực cho ông. Vào năm 1969, tạp chí Time đã ví kinh tế gia người Mỹ này như “một nhà thiết kế ở Paris làm ra sản phẩm thời trang cao cấp đắt tiền mà chỉ có một số ít người mua, nhưng dù sao vẫn là người có ảnh hưởng đến hầu như tất cả các dòng thời trang nổi tiếng.”
Hiện có thể khó mà tưởng tượng rằng, có một thời kỳ mà những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do từng là những nhà tiên tiến.
Các cuộc khủng hoảng đóng vai trò trung tâm trong tư tưởng của Friedman. Ở phần lời tựa trong cuốn sách của ông mang tựa đề Capitalism and Freedom (Chủ nghĩa tư bản và Tự do - 1982), ông đã viết những lời nổi tiếng:
“Chỉ có một cuộc khủng hoảng - trên thực tế hay trong nhận thức - mới tạo ra thay đổi thực sự. Khi cuộc khủng hoảng đó diễn ra, việc ta làm phụ thuộc vào các ý tưởng đang hiện hữu.”
Các ý tưởng đang hiện hữu. Theo Friedman, những gì xảy ra trong thời khủng hoảng hoàn toàn phụ thuộc vào nền tảng đã được thiết lập. Khi đó, những ý tưởng đã từng bị gạt bỏ vì không thực tế hay không khả thi có thể trở thành điều hiển nhiên.
Và đó chính xác là những gì đã xảy ra. Trong các cuộc khủng hoảng ở những năm 1970 (kinh tế đình đốn, lạm phát, và các nước Opec cấm vận dầu mỏ), các nhà tân tự do đã chuẩn bị tư thế và chờ bước ra sân khấu. Như nhà sử học Angus Burgin tổng kết: “Cùng nhau, họ đã giúp thúc đẩy sự chuyển đổi chính sách toàn cầu.” Những người đứng đầu đảng bảo thủ như tổng thống Mỹ Ronald Reagan và thủ tướng Anh Margaret Thatcher đã áp dụng các ý tưởng tiên tiến trước kia của Hayek và Friedman, và sau này các đối thủ chính trị của họ, như Bill Clinton và Tony Blair, cũng làm như họ.
Tổng thống dân cử Ronald Reagan của Mỹ tại Los Angeles vào tháng 11 năm 1980. Reagan nghe các cố vấn kinh tế tư vấn về chính sách kinh tế mới của ông. Từ trái sang phải: Walter Wriston, Milton Friedman, Daryl Trent, George Shultz, Ronald Reagan, Alan Greenspan. Hình: Bettmann / Getty
Lần lượt, các doanh nghiệp nhà nước trên thế giới được tư nhân hóa. Công đoàn bị hạn chế và phúc lợi xã hội bị cắt giảm. Reagan cho rằng 9 từ đáng sợ nhất trong tiếng Anh là “Tôi làm việc cho chính phủ, và tôi đến đây để giúp đỡ”. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào năm 1989, ngay cả những người dân chủ xã hội cũng có vẻ mất niềm tin ở chính phủ. Trong Thông điệp Liên bang trình bày năm 1996, Clinton, vị tổng thống đương thời lúc bấy giờ, đã tuyên bố rằng “kỷ nguyên chính phủ lớn đã qua”. 
Chủ nghĩa tân tự do đã lan từ các viện nghiên cứu chính sách đến các phóng viên và từ các phóng viên đến các chính trị gia, lây nhiễm như virus. Trong một buổi dạ yến năm 2002, có người hỏi Thatcher rằng điều gì bà coi là thành công lớn nhất của bản thân. Bà trả lời ra sao? “Tony Blair và đảng New Labour. Chúng tôi đã buộc các đối thủ của mình thay đổi quan điểm.
*
Và sau đó cuộc khủng hoảng 2008 xảy đến.
Vào ngày 15 tháng 9, ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ tháo xích cho cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Khủng Hoảng. Khi chính phủ cần phải tung ra các gói cứu trợ khổng lồ để cứu cái gọi là thị trường “tự do”, thì chủ nghĩa tân tự do có vẻ có dấu hiệu sụp đổ.
Tuy nhiên, khủng hoảng 2008 không đánh dấu bước ngoặt lịch sử[2]. Các quốc gia lần lượt bác kiến nghị của các chính trị gia cánh tả. Ngân sách cho giáo dục, y tế, và an sinh xã hội bị cắt giảm đáng kể ngay cả khi bất bình đẳng gia tăng và cổ tức trên phố Wall tăng cao kỷ lục. Tại tòa soạn tờ Financial Times, phiên bản trực tuyến của tạp chí chuyên về lối sống xa hoa nhan đề Xài tiền như thế nào được xuất bản một năm sau cuộc khủng hoảng.             
Khi các nhà tân tự do đã mất nhiều năm chuẩn bị cho các cuộc khủng hoảng vào những năm 1970, thì những người đối đầu với họ hiện trắng tay. Chủ yếu là họ chỉ biết họ chống lại điều gì. Chống lại sự cắt giảm. Chống lại giới guyền uy. Nhưng còn chương trình hành động thì sao? Không rõ họ ủng hộ điều gì.
12 năm sau, giờ thì khủng hoảng lại nổ ra. Cuộc khủng hoảng này tàn khốc hơn, gây sốc hơn, và chết chóc hơn. Theo ngân hàng trung ương Anh quốc, Vương quốc Anh đang đứng trước cuộc suy thoái lớn nhất kể từ mùa đông băng giá năm 1709. Chỉ trong vòng 3 tuần, gần 17 triệu người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp do tác động về kinh tế. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008, phải mất trọn 2 năm để số người xin trợ cấp ở Mỹ đạt mức bằng phân nửa con số trên.
Không giống như cuộc khủng hoảng 2008, khủng hoảng virus Corona có nguyên nhân rõ ràng. Trong khi hầu hết chúng ta không hiểu gì về “nghĩa vụ nợ thế chấp” hay “hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng”, nhưng ai cũng biết virus là gì. Và trong khi các ngân hàng liều lĩnh có xu hướng đổ lỗi cho người đi vay sau khủng hoảng 2008, thì trò đổ lỗi đó sẽ không lừa được ai trong lúc này.
Nhưng sự khác biệt quan trọng giữa khủng hoảng 2008 và khủng hoảng hiện tại là gì? Chính là nền tảng tri thức. Các ý tưởng sẵn có. Nếu Friedman nói đúng và khủng hoảng khiến điều không thể tưởng tượng nổi trở nên hiển nhiên, thì lần này lịch sử có thể sang trang mới.
Ba cao thủ kinh tế người Pháp
“Ba Kinh Tế Gia Cực Tả Đang Ảnh Hưởng Cách Nhìn Của Giới Trẻ Về Nền Kinh Tế Và Chủ Nghĩa Tư Bản”, đó là dòng tít đăng trên một trang web cực hữu vào tháng 10 năm 2019. Đó là một trong số những blog rẻ tiền chuyên phao tin giả, nhưng dòng tít về tác động của bộ ba kinh tế gia người Pháp lại quá chuẩn.
Branko Milanovic (1953-)
Robert Lucas (1937-)
Tôi nhớ lần đầu tiên tôi bắt gặp tên của một trong số ba nhân vật này: Thomas Piketty. Đó là vào mùa thu 2013 khi tôi đang lướt blog của kinh tế gia Branko Milanović như thường lệ vì những lời phê bình gay gắt của ông như vỗ vào mặt đồng nghiệp rất thú vị. Nhưng trong một bài đăng đặc biệt, Milanović đột ngột thay đổi giọng điệu. Ông vừa đọc xong bộ sách 970 trang viết bằng tiếng Pháp và ca ngợi bộ sách hết lời. Bài đăng đó nói rằng ông đã đọc “một tác phẩm mang tính bước ngoặt về tư tưởng kinh tế”.        
Milanović từ lâu đã là một trong số rất ít các kinh tế gia quan tâm đến việc nghiên cứu bất bình đẳng. Đa số các đồng nghiệp của ông không đả động đến chủ đề này. Năm 2003, Khôi nguyên giải Nobel Robert Lucas thậm chí đã từng khẳng định rằng nghiên cứu các vấn đề về phân phối là “nghiên cứu nguy hại nhất” đối với “kinh tế học lành mạnh”.

Trong khi đó, Piketty đã bắt tay vào nghiên cứu đột phá của mình. Năm 2001, ông xuất bản một cuốn sách ít ai biết đến với biểu đồ đầu tiên mô tả phần thu nhập của tốp 1% người giàu có. Cùng với đồng nghiệp là kinh tế gia Emmanuel Saez - nhân vật thứ hai trong bộ ba người Pháp - ông chứng minh rằng bất bình đẳng ở Mỹ hiện đang ngang bằng với mức cao kỷ lục của những năm 1920. Nghiên cứu khoa học này đã truyền cảm hứng cho những người biểu tình tham gia phong trào Chiếm Lấy Phố Wall gào lên rằng: “Chúng ta thuộc 99% còn lại.”
Năm 2014, Piketty đã gây bão khắp thế giới. Vị giáo sư trở thành một “nhà kinh tế đình đám” - trước sự thất vọng của nhiều người (tờ Financial Times đã tấn công trực diện). Ông đã đi vòng quanh thế giới để chia sẻ công thức của ông với báo giới và các chính trị gia. Vậy nguyên liệu chính là gì? Thuế.
Điều đó đưa chúng ta đến với sự đặc sắc của nhân vật thứ ba trong bộ ba người Pháp, kinh tế gia trẻ tuổi Gabriel Zucman. Ngay lúc Lehman Brothers sụp đổ năm 2008, anh còn là một sinh viên 21 tuổi ngành kinh tế học đã bắt đầu thực tập tại một công ty môi giới của Pháp. Trong những tháng sau đó, anh đã có cơ hội chứng kiến cận cảnh sự sụp đổ của hệ thống tài chính toàn cầu. Về sau, những khoản tiền khổng lồ chảy vào các nước nhỏ như Luxembourg và Bermuda, các thiên đường thuế nơi mà giới siêu giàu cất giấu tài sản của họ, đã khiến anh ta chú ý.
Gabriel Zucman (1986-)
Emmanuel Saez (1972-)
Trong vòng vài năm, Zucman trở thành một trong những chuyên gia về thuế hàng đầu thế giới. Trong cuốn sách The Hidden Wealth of Nations (Tài Sản Cất Giấu Của Các Quốc Gia - 2015), anh đã tính toán rằng 6,7 ngàn tỷ USD tài sản toàn cầu được cất giấu ở các thiên đường thuế. Và trong một cuốn sách đồng tác giả với Emmanuel Saez, Zucman tính toán rằng 400 người giàu nhất nước Mỹ chịu mức thuế suất thấp hơn bất kỳ nhóm thu nhập nào khác, từ thợ sửa ống nước, người lau dọn, y tá, đến người về hưu.
Thomas Piketty (1971-)


Kinh tế gia trẻ tuổi không cần dùng nhiều lời lẽ để trình bày quan điểm của mình. Người truyền cảm hứng cho anh là Piketty đã xuất bản thêm một cuốn sách dày cộp có thể dùng để chặn cửa vào năm 2020 (1088 trang), nhưng sách của Zucman và Saez chỉ cần một ngày là đọc xong. Với phụ đề “Người Giàu Trốn Thuế Như Thế Nào và Làm Sao Để Bắt Họ Đóng Thuế” nghe như danh sách việc cần làm dành cho tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tới.
Bước quan trọng nhất là gì? Thông qua sắc thuế tài sản lũy tiến hàng năm đánh vào giới triệu phú. Hóa ra, thuế cao không nhất thiết có tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Ngược lại, thuế cao có thể giúp chủ nghĩa tư bản vận hành hiệu quả hơn. (Năm 1952, khung thuế thu nhập cao nhất ở Mỹ là 92%, và nền kinh tế tăng trưởng nhanh chưa từng có.)
Bernie Sanders (1941-)
Joe Biden (1942-)
Cách đây 5 năm, những loại ý tưởng này vẫn còn được cho là quá cấp tiến để động đến. Các cố vấn tài chính của cựu tổng thống Obama đoan chắc với ông rằng thuế tài sản sẽ không bao giờ hiệu quả, và rằng người giàu (với lực lượng kế toán viên và luật sư hùng hậu của họ) sẽ luôn có cách giấu giếm tài sản. Ngay cả ê kíp của Bernie Sanders cũng bác bỏ các đề xuất của bộ ba người Pháp nhằm giúp thiết kế sắc thuế tài sản cho cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 2016 của ông ta.
Nhưng 2016 là năm để lại dấu ấn muôn đời về ý thức hệ khác biệt với [cuộc vận động bầu cử] hiện tại. Năm 2020, đối thủ “ôn hòa” của Sanders là Joe Biden đề xuất tăng thuế gấp đôi mức mà Hillary Clinton đã lên kế hoạch cách đây 4 năm. Ngày nay, đa số cử tri Mỹ (bao gồm những người thuộc đảng Cộng Hòa) ủng hộ đánh thuế giới siêu giàu cực cao. Trong lúc đó, ở bên kia bờ Đại Tây Dương, ngay cả tờ Financial Times cũng chốt rằng thuế tài sản không hẳn là một ý tưởng tồi.
Không dừng lại ở ngụy chủ nghĩa xã hội (Champagne socialism[3])
Thatcher đã chạm trúng nỗi đau. Các chính trị gia cánh tả thích nói về thuế và bất bình đẳng, nhưng lấy tiền ở đâu ra? Giả định hiện hành - của cả hai phe thuộc hai khuynh hướng chính trị - là hầu hết của cải do các doanh nhân có tầm nhìn như Jeff Bezos và Elon Musk, “kiếm được”. Giả định này đặt ra vấn đề về lương tâm đạo đức: rằng những người khổng lồ này của Trái đất có nên chia sẻ phần nào của cải của họ không?
Nếu bạn cũng suy nghĩ như vậy, thì tôi sẽ giới thiệu cho bạn biết Mariana Mazzucato, một trong những kinh tế gia có tư tưởng tiến bộ nhất thời đại của chúng ta. Mazzucato thuộc thế hệ các kinh tế gia, chủ yếu là nữ[4], tin rằng thuế không là chưa đủ. Mazzucato giải thích rằng: “Lý do khiến những nhà cấp tiến thường thua khi tranh luận là vì họ quá chú trọng vào tái phân phối và ít quan tâm đến việc tạo ra của cải.”
Mariana Mazzucato (1968-)
Trong vài tuần gần đây, danh sách những người lao động mà chúng ra đã bắt đầu gọi là “người lao động trong những ngành thiết yếu” được công bố khắp thế giới. Và ngạc nhiên thay: những công việc như “quản lý quỹ phòng hộ” và “cố vấn thuế đa quốc gia” hoàn toàn không có trong các danh sách đó. Đột nhiên, tất cả đều thấy rõ ai mới là người đang làm công việc thực sự quan trọng trong ngành chăm sóc sức khỏe và giáo dục, giao thông công cộng và cửa hàng tạp hóa.
Năm 2018, hai kinh tế gia người Hà Lan đã thực hiện một nghiên cứu dẫn đến kết luận rằng một phần tư những người đang làm việc nghi ngờ công việc của họ là vô nghĩa. Thậm chí thú vị hơn là số công việc “vô nghĩa về mặt xã hội” trong khu vực kinh doanh cao gấp 4 lần trong khu vực công. Số người tự nhận mình có “công việc vớ vẩn” tập trung đông nhất trong ngành tài chính và marketing.
Vậy thì câu hỏi là: của cải thực sự đến từ đâu? Giới truyền thông như tờ Financial Times thường cho rằng - giống như những ông tổ của chủ nghĩa tân tự do, Friedman và Hayek, của họ - của cải do giới doanh nhân tạo ra, không phải do nhà nước. Chính phủ chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ. Vai trò của chính phủ là cung cấp cơ sở hạ tầng tốt và chính sách giảm thuế hấp dẫn - rồi đứng qua một bên.

Nhưng vào năm 2011, sau khi nghe khá nhiều chính trị gia chế giễu công chức là “kẻ thù của doanh nghiệp”, ý tưởng đã lóe lên trong đầu của Mazzucato. Bà quyết định thực hiện một số nghiên cứu. Hai năm sau, bà đã viết xong cuốn sách làm rúng động giới làm chính sách trên khắp thế giới. Tựa đề của cuốn sách là: The Entrepreneurial State (Nhà Nước Làm Kinh Doanh).
Trong cuốn sách của mình, Mazzucato chứng minh rằng chính phủ phụ trách không chỉ những ngành như giáo dục, y tế, thu gom rác và phát thư, mà cả những phát minh thực tế, đáng tin cậy. Ví dụ như Iphone. Mỗi một công nghệ làm cho Iphone là một chiếc điện thoại thông minh thay vì một chiếc điện thoại đơn giản (internet, GPS, màn hình cảm ứng, pin, ổ cứng, nhận biết giọng nói) đều được phát triển bởi các nhà nghiên cứu ăn lương chính phủ.   
Những gì diễn ra ở Apple cũng tương tự với những gì diễn ra ở các gã khổng lồ ngành công nghệ khác. Google? Họ đã nhận khoản tài trợ béo bở từ chính phủ để phát triển công cụ tìm kiếm. Tesla? Họ đã phải tranh giành nhà đầu tư cho đến khi Cục Năng Lượng Mỹ rót 465 triệu USD. (Ngay từ đầu, Elon Musk là người chuyên bủa lưới kiếm tài trợ, với 3 công ty trong tay - Tesla, SpaceX, và SolarCity - đã nhận tổng cộng gần 5 tỷ USD tiền tài trợ từ ngân sách.)
Năm ngoái, Mazzucato đã chia sẻ với tạp chí công nghệ Wired rằng: “Càng nhìn kỹ, tôi càng nhận ra là: đầu tư của chính phủ ở khắp mọi nơi.”
Thực vậy, có khi chính phủ đầu tư vào những dự án không sinh lời. Sốc phải không? Không hề: bản chất của đầu tư là vậy. Làm ăn luôn chịu rủi ro. Mazzucato chỉ ra vấn đề của hầu hết các nhà tư bản “đầu tư mạo hiểm” tư nhân là họ không sẵn lòng mạo hiểm nhiều. Sau trận dịch SARS năm 2003, các nhà đầu tư tư nhân đã nhanh chóng rút khỏi các nghiên cứu về virus Corona. Đơn giản là đầu tư vào đó không đủ lời. Trong khi đó, các nghiên cứu do chính phủ tài trợ vẫn tiếp tục, chính phủ Mỹ đã đầu tư 700 triệu USD chẵn tròn. (Nếu và khi có thuốc ngừa, người bạn phải cám ơn là chính phủ.)
Nhưng có lẽ ví dụ minh họa sinh động nhất cho điều Mazzucato muốn nói là ngành dược. Hầu hết mọi đột phá về y tế đều bắt nguồn từ các phòng thí nghiệm được ngân sách tài trợ. Những gã khổng lồ ngành dược như Roche và Pfizer chủ yếu chỉ mua đứt bằng sáng chế và bán thuốc cũ được gắn thương hiệu mới, rồi dùng lợi nhuận chi trả cổ tức và mua lại cổ phiếu (để đẩy giá cổ phiếu lên). Tất cả những chiêu này đã giúp tổng giá trị cổ tức được chi trả bởi 27 hãng được lớn nhất tăng gấp 4 lần kể từ năm 2000.
Nếu hỏi ý kiến của Mazzucato, thì điều đó cần thay đổi. Khi chính phủ tài trợ cho một sáng kiến lớn, Mazzucato nói rằng doanh nghiệp được hoan nghênh sử dụng sáng kiến đó. Rồi sao nữa, vấn đề là ở chỗ đó! Nhưng rồi chính phủ nên lấy lại vốn ban đầu - cùng với tiền lãi. Thật chẳng ra làm sao khi hiện tại các doanh nghiệp nhận nhiều tài trợ nhất cũng là những kẻ trốn thuế khủng nhất. Các doanh nghiệp như Apple, Google, và Pfizer, có 10 tỷ USD cất giấu ở các thiên đường thuế trên toàn thế giới.
Hiển nhiên là những công ty này nên đóng phần thuế tương xứng. Nhưng theo Mazzucato điều quan trọng hơn là cuối cùng chính phủ củng cố niềm tin từ những thành công của mình. Một trong những ví dụ ưa thích của bà là Cuộc Đua Vào Không Gian ở những năm 1960. Trong bài diễn văn năm 1962, tổng thống Kennedy đã tuyên bố rằng: “Chúng ta lựa chọn đi lên mặt trăng trong thập kỷ này và thực hiện những việc khác, không phải vì chúng dễ thực hiện, mà bởi vì chúng là những việc khó khăn.”
Carlota Perez (1939-)
Hiện nay và trong thời đại này, chúng ta cũng đối mặt với những thách thức lớn lao đòi hỏi sức mạnh phát kiến vượt trội của chính phủ làm kinh doanh. Trước tiên, một trong những vấn đề cấp bách nhất mà nhân loại đang đương đầu: biến đổi khí hậu. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần sự động viên tinh thần có trong bài diễn văn của Kennedy để đạt được sự chuyển đổi mà biến đổi khí hậu đặt ra. Không phải tình cờ mà Mazzucato, cùng với kinh tế gia người Venezuela gốc Anh Carlota Perez, trở thành tác giả của Green New Deal, gói chính sách tham vọng nhất thế giới nhằm đối phó biến đổi khí hậu.
Một người bạn khác của Mazzucato, kinh tế gia người Mỹ Stephanie Kelton, bổ sung rằng chính phủ có thể in thêm tiền nếu cần nhằm tài trợ cho những tham vọng của họ - và không cần phải lo lắng về nợ quốc gia và thâm hụt ngân sách. (Các kinh tế gia như Mazzucato và Kelton không có nhiều kiên nhẫn dành cho các chính trị gia, kinh tế gia, và phóng viên truyền thống thường hay so sánh chính phủ với hộ gia đình. Dẫu sao, hộ gia đình không thể thu thuế hay phát hành tín dụng bằng tiền tệ riêng của mình.) 
Stephanie Kelton (1969-)

Điều chúng ta đang bàn ở đây không gì khác hơn là một cuộc cách mạng về tư tưởng kinh tế. Trong khi chúng ta đã phải thắt lưng buộc bụng khổ hạnh sau khủng hoảng 2008, thì chúng ta hiện đang sống trong thời buổi mà một người như Kelton (tác giả cuốn sách có tựa đề rất ấn tượng The Deficit Myth - Ngộ Nhận Về Thâm Hụt Ngân Sách) được Financial Times tôn lên là một Milton Friedman hiện đại. Và khi tờ báo này viết vào đầu tháng Tư rằng chính phủ “phải xem dịch vụ công là các khoản đầu tư thay vì các khoản nợ phải trả”, họ đã lặp lại chính xác điều mà Kelton và Mazzucato đã đấu tranh bảo vệ trong nhiều năm.
Mariana Mazzucato tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới tại Davos năm 2019. Ảnh: EPA / Hollandse Hoogte
Nhưng có lẽ điều thú vị nhất về những người phụ nữ này là họ không hài lòng với việc nói suông. Họ muốn thấy kết quả. Ví dụ, Kelton là cố vấn chính sách có sức ảnh hưởng, Perez đã từng là cố vấn cho vô số công ty và định chế, và Mazzucato cũng là một người rất giỏi thiết lập quan hệ, bà có mối quan hệ với nhiều tổ chức rộng khắp thế giới.
Bà không chỉ là một khách mời thường xuyên tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới tại Davos (nơi mà các nước giàu mạnh nhất thế giới nhóm họp hàng năm), kinh tế gia người Ý này còn cố vấn cho những nhân vật như thượng nghị sĩ Elizabeth Warren và nữ nghị sĩ Alexandria Ocasio-Cortez ở Mỹ và người đứng đầu chính phủ Scotland Nicola Sturgeon. Và Mazzucato cũng đã chấp bút cho một chương trình đổi mới đầy tham vọng mà Quốc Hội Châu Âu đã bỏ phiếu thông qua vào năm ngoái.
Lúc đó, Mazzucato đã say sưa phát biểu rằng: “Tôi muốn chương trình đổi mới có tác động thực sự. Nếu không thì sẽ là ngụy chủ nghĩa xã hội: chúng ta bước vào nghị trường, thỉnh thoảng lại lôi ra bàn, và vẫn y như cũ.”
Các ý tưởng chinh phục thế giới như thế nào
Chúng ta thay đổi thế giới bằng cách nào?
Joseph Overton (1960-)
Nếu hỏi một nhóm cấp tiến câu hỏi này thì sẽ có người đưa ra cái tên Joseph Overton ngay. Overton tán thành quan điểm của Milton Friedman. Ông ta làm việc cho một viện nghiên cứu chính sách tân tự do và đã bỏ ra nhiều năm vận động cho chính sách thuế thấp và chính phủ nhỏ gọn. Và ông quan tâm đến câu hỏi làm thế nào mà những thứ không thể tưởng tượng nổi cuối cùng lại trở thành hiển nhiên.
Overton nói hãy hình dung một cái cửa sổ. Những ý tưởng rớt vào bên trong cái cửa sổ được coi như là “chấp nhận được” hay thậm chí “phổ biến” ở một thời điểm nhất định. Nếu bạn là một chính trị gia và muốn được tái đắc cử, tốt hơn là bạn nên ở bên trong cái cửa sổ này. Nhưng nếu bạn muốn thay đổi thế giới, bạn cần phải di dời cái cửa sổ. Bằng cách nào? Bằng cách đột phá. Bằng cách trở nên phi lý, quá quắt, và phi thực tế.
Trong những năm gần đây, không thể phủ nhận được là Cửa Sổ Overton đã dịch chuyển. Những ý tưởng từng được coi là phi chính thống thì nay trở thành chính thống. Một biểu đồ ít người biết đến của kinh tế gia người Pháp đã trở thành khẩu hiệu của phong trào Chiếm Lấy Phố Wall (“Chúng ta thuộc 99% còn lại”); Chiếm Lấy Phố Wall đã mở đường cho ứng cử viên tổng thống chủ trương cách mạng, và Bernie Sanders đã lôi kéo các chính trị gia khác như Biden theo hướng của mình.
Ngày nay, nhiều người Mỹ trẻ tuổi sinh ra và lớn lên ở Mỹ có quan điểm ủng hộ chủ nghĩa xã hội hơn chủ nghĩa tư bản - điều mà cách đây 30 năm là không thể tưởng tượng nổi. (Vào đầu thập niên 1980, các cử tri trẻ tuổi là cơ sở đông đảo nhất ủng hộ Reagan với tư tưởng tân tự do.)
Nhưng không phải là Sanders đã thua ở các cuộc bầu cử sơ bộ hay sao? Và không phải Jeremy Corbyn theo chủ nghĩa xã hội đã thất bại nặng nề trong cuộc bầu cử ở Vương Quốc Anh năm ngoái hay sao?
Hẳn thế. Nhưng các kết quả bầu cử không phải là dấu hiệu duy nhất của thời thế hiện tại. Corbyn có thể đã thua cử năm 2017 và 2019, nhưng chính sách của đảng Bảo Thủ cuối cùng rất gần với các kế hoạch tài chính của đảng Lao Động hơn là cương lĩnh của đảng Bảo Thủ.     
Tương tự, mặc dù Sanders tranh cử bằng kế hoạch hành động về khí hậu triệt để hơn so với Biden vào năm 2020, nhưng kế hoạch hành động về khí hậu của Biden lại triệt để hơn của Sanders vào năm 2016.
Thatcher đã không bông đùa khi bà gọi “Đảng New Labour và Tony Blair” là thành công lớn nhất của bà. Vào năm 1997, đảng của bà bị thất bại dưới tay đối thủ có quan điểm trái ngược với các ý tưởng của bà.
Thay đổi thế giới là một nhiệm vụ bạc bẽo. Không có thời khắc vinh quang khi các đối thủ của bạn khiêm nhường công nhận rằng bạn đúng. Trong chính trị, chỉ toàn trò ăn cắp ý tưởng. Friedman đã nhận chân điều này vào năm 1970, khi ông trình bày cho một phóng viên làm thế nào mà các ý tưởng của ông sẽ chinh phục thế giới. Quá trình này diễn ra theo bốn hồi:
“Hồi I: Quan điểm của những người suy nghĩ lập dị như tôi bị bác bỏ.
Hồi II: Những người bảo vệ đức tin của tư tưởng chính thống cảm thấy khó chịu vì các ý tưởng [lập dị] đó có vẻ cũng có phần nào sự thật.
Hồi III: Người ta nói, ‘Ai cũng biết đây là một quan điểm phi thực tế và cực đoan về mặt lý thuyết - nhưng dĩ nhiên chúng ta phải nhìn vào những phương cách ôn hòa hơn để đi theo hướng này.’
Hồi IV: Những người phản đối cải hóa các ý tưởng của tôi thành những dị bản sai lệch để họ có thể lấn sân và chiếm lấy vị trí mà tôi đã trụ vững.”
*
Tuy nhiên, nếu các ý tưởng lớn xuất phát từ những người lập dị, thì không có nghĩa là người lập dị nào cũng có các ý tưởng lớn. Và mặc dù các quan điểm cấp tiến cũng có lúc trở nên phổ biến, nhưng thắng cử một lần cũng hay. Rất nhiều khi, Cửa Sổ Overton được lấy ra làm cái cớ cho thất bại của cánh tả. Như trong [nội dung viết trên Twitter]: “Ít ra chúng ra đã thắng trận chiến ý tưởng.”
Nhiều “nhà cấp tiến” tự xưng chỉ có các kế hoạch hành động nửa vời để cạnh tranh giành quyền lực, nếu họ có xây dựng bất kỳ kế hoạch hành động nào. Nhưng phê phán điều này, bạn sẽ bị chụp mũ là kẻ phản bội. Trong thực tế, cánh tả từ trước tới giờ hay đổ lỗi lên người khác - lên báo chí, giới quyền uy, những người hoài nghi trong hàng ngũ của họ - nhưng rất hiếm khi tự gánh trách nhiệm.

Helen Lewis (1983-)
Cuốn sách Difficult Women (Những Phụ Nữ Ngoan Cường), mà tôi mang về nhà đọc gần đây trong lúc chấp hành lệnh cách ly, lại một lần nữa bàn về việc thay đổi thế giới là khó khăn đến nhường nào. Được chấp bút bởi phóng viên người Anh Helen Lewis, cuốn sách viết về lịch sử phong trào nữ quyền ở Anh, nhưng là một tài liệu phải đọc dành cho những ai có khát vọng xây dựng một thế giới tốt hơn.
“Khó khăn”, theo Lewis là ở ba khía cạnh:
1.   Khó mà thay đổi thế giới. Bạn phải hy sinh nhiều thứ.
2.   Nhiều nhà cách mạnh rất ngoan cố. Những người cố chấp và khó ưa và cố ý kích động là những người có xu hướng làm nên chuyện.
3.   Làm việc tốt không có nghĩa là bạn hoàn hảo. Những vị anh hùng trong lịch sử về sau cũng bị phát hiện ra là hiếm khi họ không có một tỳ vết nào.
Chỉ trích của Lewis có ý rằng nhiều nhà hoạt động tỏ ra không quan tâm đến sự phức tạp này, và điều này khiến họ trở nên rất kém hiệu quả. Hãy xem trên Twitter, có đầy rẫy những người dường như thích xét đoán những người dùng khác hơn. Anh hùng ngày hôm qua bị xô ngã nhào trong ngày hôm sau vì một phát biểu vụng về hay vì phốt đầy tranh cãi nào đó.
Lewis chứng tỏ có nhiều vai trò cần đảm đương trong bất cứ phong trào nào, và thường đòi hỏi phải liên minh và thỏa hiệp không hề dễ chịu. Như phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ ở Anh, đã tập hợp “Những Người Phụ Nữ Ngoan Cường, từ nữ ngư dân đến nữ quý tộc, từ nữ công nhân nhà máy đến các công chúa Ấn Độ”. Liên minh phức tạp này tồn tại đủ lâu để giành thắng lợi vào năm 1918, trao quyền bầu cử cho phụ nữ ngoài 30 tuổi và có sở hữu tài sản.
(Đúng thế, ban đầu chỉ có những phụ nữ có đặc quyền mới được bầu cử. Điều này minh chứng cho một thỏa hiệp hợp lý, vì bước đi đầu tiên đó đã dẫn đến bước đi hiển nhiên tiếp theo: phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ vào năm 1928.)
Và không, ngay cả sự thành công đó cũng không thể khiến những nhà nữ quyền trở thành bạn bè. Không hề. Theo Lewis, “Ngay cả những những phụ nữ đấu tranh giành quyền bầu cử cũng thấy chiến thắng vinh quang của họ chua chát bởi những xung đột cá nhân.”
Hóa ra tiến bộ là phức tạp.
Cái cách mà chúng ta đấu tranh có xu hướng bỏ qua thực tế là chúng ta cần tất cả những vai trò khác nhau đó. Thiên hướng của chúng ta - trong những buổi mạn đàm hay trong lúc trà dư tửu hậu - là chọn cách đấu tranh mình ưa thích: chúng ta ủng hộ Greta Thunberg nhưng lại giận dữ với phong trào chắn đường do Extinction Rebellion cầm đầu. Hay chúng ta ngưỡng mộ những người biểu tình tham gia phong trào Chiếm Lấy Phố Wall nhưng lại khinh bỉ những người vận động hành lang đã lên đường tới Davos.
Thay đổi không phải vậy. Tất cả những người này đều có vai trò của họ. Cả giáo sư và những người chủ trương vô chính phủ. Cả người kết nối và người gây phiến động. Cả người khiêu khích và người hòa giải. Cả những người viết bằng từ ngữ hàn lâm và những người truyền tải nội dung đó đến đông đảo độc giả. Cả những người vận động hậu trường và những người bị cảnh sát chống bạo động lôi đi.
Có một điều chắc chắn. Sẽ đến lúc mà việc di dời Cửa Sổ Overton là chưa đủ. Sẽ đến lúc cần phải cách mạng toàn diện[5] và đưa những ý tưởng đã từng rất cấp tiến vào các trung tâm quyền lực.
Theo tôi hiện đã đến lúc.
*
Hệ tư tưởng thống trị suốt 40 năm qua đang cáo chung. Hệ tư tưởng nào sẽ thay thế? Không ai biết chắc. Không khó để tưởng tượng rằng cuộc khủng hoảng này sẽ đẩy chúng ta vào con đường thậm chí u ám hơn. Những kẻ chuyên quyền sẽ lợi dụng cuộc khủng hoảng để thâu tóm nhiều quyền lực hơn, hạn chế quyền tự do của dân chúng họ cai trị, và châm ngòi cho ngọn lửa phân biệt chủng tộc và thù hận.
Nhưng mọi việc có thể khác. Nhờ vào công sức của vô số những nhà hoạt động và những học giả, những người kết nối và những người gây phiến động, chúng ta có thể mường tượng một con đường khác. Trận đại dịch này có thể đưa chúng ta vào con đường của những giá trị mới.
Nếu có một giáo điều chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do, thì đó chính là con người vốn ích kỷ. Và từ quan điểm miệt thị bản chất của con người đã kéo theo các hệ quả như tư nhân hóa, bất bình đẳng gia tăng, và sự bào mòn khu vực công.
Hiện đang mở ra không gian cho một quan điểm khác thực tế hơn về bản chất con người: loài người đã tiến hóa để hợp tác. Niềm tin này có thể mang đến các hệ quả như một chính phủ dựa trên niềm tin, một hệ thống thuế bắt nguồn từ sự đoàn kết, và những khoản đầu tư bền vững cần thiết nhằm bảo đảm tương lai của chúng ta. Và tất cả hệ quả này vừa kịp lúc giúp chúng ta chuẩn bị tư thế cho thử thách lớn nhất của thế kỷ này - trận đại dịch đến từ từ của chúng ta - biến đổi khí hậu.     
Không ai biết cuộc khủng hoảng này sẽ đẩy chúng ta về đâu. Nhưng so với lần trước, ít ra chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng hơn.
Rutger Bregman (1988-)

Bài báo này được Elizabeth Manton dịch từ tiếng Hà Lan. Bạn có thể đọc phiên bản tiếng Hà Lan.         
Về tác giả:
Rutger Bregman là nhà sử học. Ông đã xuất bản 5 cuốn sách: Met de kennis van toen (2012), De geschiedenis van de vooruitgang (2013), Utopia for Realist (2017), Waarom vuilnismannen meer verdienen dan bankiers (with Jesse Frederik, 2015) và Humankind (2020).
Trần Thị Minh Ngọc dịch
Nguồn: The neoliberal era is ending. What comes next?”, The Correspondent, 14/5/2020.




Chú thích:

[1] Nguồn: Angus Burgin, The Great Persuasion, trang 217-218.

[2] Nói như vậy không có nghĩa là khủng hoảng 2008 không làm thay đổi điều gì. Các ngân hàng đã gia tăng dự trữ vốn và đã có một số tiến triển trong động thái chống các thiên đường thuế như Thụy Sỹ và Hà Lan. Nhưng không có bước ngoặt thực sự.

[3] Champagne socialism: chủ nghĩa xã hội mà lối sống xa xỉ, đạo đức giả của giới thượng lưu hay những nhân vật điển hình mâu thuẫn với lý tưởng chính trị của họ - ND

[4] Ngoài Mariana Mazzucato, còn có các nữ nhân Kate Raworth, Carlota Perez, Stephanie Kelton.

[5] The long march through the institutions - ND

Print Friendly and PDF