5.6.23

Làm sao phân biệt hoài nghi đúng và hoài nghi sai

LÀM SAO PHÂN BIỆT HOÀI NGHI ĐÚNG VÀ HOÀI NGHI SAI

Tác giả: Agnès Vernet

Phóng viên khoa học

Jean-Gabriel Ganascia

Giáo sư tin học khoa Khoa học Đại học Sorbonne và là triết gia

Jean-Gabriel Ganascia

Tóm tắt

·  Hoài nghi là một yếu tố chính yếu của khoa học, và trong cộng đồng khoa học, sự thiếu vắng đồng thuận là chuẩn mực.

·   Nhưng đối diện với sự ngờ vực cố hữu của nhà khoa học, hiện nay xã hội đang trải qua một dạng hoài nghi khác: một sự hoài nghi chung đang đặt lại vấn đề các kết quả của khoa học. Tuy nhiên, để có hiệu quả hơn, sự hoài nghi phải được bao gồm trong phương pháp tiến hành khoa học.

·  Do đó, đối với Jean-Gabriel Ganascia, rất cần thiết phải trả lại vị trí trung tâm trong giáo dục cho giảng dạy khoa học, và nhất là cho phương pháp khoa học.

Khoa học không có sự hoài nghi…

Khoa học mà không có ý thức chỉ là sự hủy hoại tâm hồn”, Rabelais đã báo trước như vậy. Ta cũng có thể diễn giải là “Khoa học mà không có sự hoài nghi chỉ là sự hủy hoại tâm hồn”, vì hoài nghi là một động lực của khoa học; không có hoài nghi các kiến thức sẽ khô cứng, không tiến triển. Khoa học bao hàm sự nghi ngờ về những chân lý hiển nhiên nhất. Bản tính của nhà khoa học là ưu tư – với nghĩa gốc là “không ngơi nghỉ”. Nhà khoa học sẵn sàng đặt lại vấn đề tất cả, và để làm điều đó, họ nuôi dưỡng một sự hoài nghi “đúng”, có tính xây dựng và có tổ chức.

Đối diện với sự hoài nghi này vốn là bản chất của nhà khoa học, xã hội đang trải qua một dạng hoài nghi khác: một chủ trương hoài nghi chung, đang đặt lại vấn đề các kết quả của khoa học. Khi hai hiện tượng này gặp nhau, thì nhà khoa học trở thành con tin của chính sự hoài nghi của mình.

Trong cộng đồng khoa học, sự thiếu vắng đồng thuận là một tình trạng bình thường. Khoa học tiến bộ nhờ có tranh luận và cuối cùng tranh luận được giải quyết. Một chứng cứ hay một thí nghiệm giải quyết dứt khoát giữa hai hoặc ba quan điểm khác nhau, trước khi nổi lên những vấn đề mới hay những tranh luận mới.

“Trong cộng đồng khoa học, sự thiếu vắng đồng thuận là một tình trạng bình thường. Khoa học tiến bộ nhờ có tranh luận và cuối cùng tranh luận được giải quyết.”

Trái lại, trong không gian công cộng, phê bình của các nhà khoa học không nhằm giúp phát triển sự hiểu biết một hiện tượng, mà chỉ nhằm đối chọi những lập luận. Khẳng định lập trường ở đây không liên quan gì đến sự hoài nghi khoa học.

Chừng nào các nhà khoa học còn làm việc tách rời với không gian công cộng thì những tranh luận chỉ giới hạn trong môi trường khoa học. Từ nay, nhờ có các công bố được truy cập tự do và những hình thức phổ biến kiến thức khác, các chu trình phổ biến khoa học được mở rộng. Một mặt, việc chia sẻ kiến thức là một cơ may, nhưng mặt khác, nó vấp phải một sự ngờ vực tập thể. Những tháng đầu tiên của đại dịch vào năm 2020 tạo thành một minh họa nổi bật của hiện tượng này. Các nhà nghiên cứu và các bác sĩ đang đối chiếu một cách tự nhiên các giả thuyết của họ đã phải đối diện với “60 triệu nhà virus học”. Một cú sốc của những hoài nghi.

Phương pháp luận của sự hoài nghi

Khi một nhà khoa học nghi ngờ, họ không làm điều đó mà không có phương pháp. Nếu họ truy vấn một sự hiển nhiên, có khi chỉ để đào sâu một yếu tố của một tập hợp các vấn đề, đổi lại, họ chấp nhận là câu hỏi của họ có thể bị phản bác. Trong khi đó trong công luận thì sự phản đối là tuyệt đối. Sự phê phán không nhằm giải quyết các vấn đề, nó tạo thành một quan điểm lập trường, một sự cam kết. Trong một số cuộc tranh luận, đáng chú ý là trên truyền thông, ta thấy các niềm tin vững chắc và các giả thuyết đối chọi nhau. Một sự pha trộn các thể loại gieo rắc lẫn lộn và làm khá nhiều nhà khoa học bối rối.

Ngay từ năm 2018, vấn đề tư thế của các nhà khoa học vào thời buổi hậu-sự thật đã là đối tượng của một thông báo của Ủy ban đạo đức của CNRS[*] (Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp), mà tôi là thành viên. Công việc này đã cho phép chúng tôi nhắc lại rằng sự hoài nghi có tổ chức, như nhà khoa học luận Mỹ Robert King Merton tán dương trong định nghĩa của ông về một lý tưởng khoa học thuần túy, không gây ra việc phản bác tri thức. Nói đúng hơn đó là một phương pháp tiếp cận tập thể bắt buộc, một phương pháp luận về sự hoài nghi. Mỗi bước đem nhà khoa học lại gần một sự thật sẽ làm nảy sinh những giả thuyết mới. Tiếp đến, cộng đồng đánh giá khoảng cách giữa sự hiểu biết hiện tượng trong không gian lý thuyết mới này và sự tương hợp của nó với thế giới. Sự hoài nghi được tổ chức để soi sáng các tri thức mới.

Sự hoài nghi trong không gian công cộng lại thuộc về một loại khác. Nó dựa trên một sự ngờ vực vì những lợi ích cá nhân làm nguy hại đến tính liêm chính của nghiên cứu. Ở bên ngoài phòng thí nghiệm của mình nhà khoa học có thể biểu lộ những tham vọng xã hội và có thể bị tác động bởi những động cơ phức tạp, nhưng với tư cách là cộng đồng, các nhà khoa học chỉ được thúc đẩy bởi việc tìm kiếm sự thật.

Một cách nghịch lý, chiều kích tập thể này đã có thể bị che khuất bởi các “science studies” - nghiên cứu về khoa học -, một lĩnh vực của các khoa học xã hội nghiên cứu sự vận hành của giám định khoa học. Bằng cách ngụ ý rằng những thách thức về quyền lực trong cộng đồng khoa học giống hệt những thách thức của các lĩnh vực khác trong xã hội, những nghiên cứu này đã bỏ qua chứng cứ về sự thật do thí nghiệm khoa học đem lại. Trong khoa học, rốt cùng sự thật luôn luôn xuất hiện nhờ vào một sự phát triển quan sát được. Lúc đó ta sẽ đồng ý chấp nhận trước các chứng cứ.

Sự ngờ vực của công chúng đối với các khoa học cũng được nuôi dưỡng bởi một diễn ngôn hậu-sự thật, nghĩa là với những lập luận được áp đặt bởi sức mạnh, không cần đến chứng cứ. Chủ trương hậu-sự thật này có khi là cố ý, khi nó phục vụ cho những lợi ích kinh tế, chính trị, ý hệ hay tôn giáo. Rất thường khi nó ra đời chỉ từ một sự thờ ơ nhất định đối với các sự kiện.

Trả lại chỗ đứng cho việc giảng dạy các khoa học

Để đấu tranh và giúp công chúng phân biệt sự hoài nghi đúng và sự nghi ngờ của đại chúng, nhà khoa học chỉ có rất ít công cụ dành cho mình. Rất khó thuyết phục đại bộ phận công chúng rằng tất cả những sự phản bác đều chính đáng.

Tuy nhiên, trong một bước đầu tiên, cần phải nhắc lại các sự kiện, đưa ra các chứng cứ. Đó là điều mà rất nhiều phương tiện truyền thông làm với việc kiểm chứng sự kiện - fact checking -. Từ nay, hoạt động này là tuyệt đối cần thiết. Tuy nhiên, điều đó không đủ, vì số lượng các thông tin sai lệch là lớn. Ta cũng nhận thấy hậu quả nguy hại kéo dài dai dẳng ngay cả khi đã chứng minh được sự sai lầm. Công chúng không được đào tạo về tinh thần khoa học.

“Công chúng không được đào tạo về tinh thần khoa học. Do đó, điều cốt yếu là phải giải thích rõ hơn phương pháp tiến hành khoa học ngay từ các lớp tiểu học.”

Như vậy, điều cốt yếu là phải giải thích rõ hơn phương pháp tiến hành khoa học ngay từ các lớp tiểu học. Tiếc thay, lời mong ước chân thành này vấp phải quá trình đào tạo ban đầu của giáo viên các trường, phần lớn xuất thân từ các chương trình đào tạo văn học. Vấn đề học khoa học từ tuổi rất nhỏ vẫn là một đòn bẩy quan trọng.

Tôi cũng nghĩ rằng dạy lịch sử các khoa học là một điều có ích. Bộ môn này có ưu điểm là chỉ ra rằng khoa học tiến bộ dần nhờ thử và sai. Bộ môn này nêu rõ tính chất của một cuộc tranh luận khoa học, và được kết hợp với khoa học luận, nó giúp hiểu biết về cách thức mà các ý tưởng được xây dựng. Những cách tiếp cận này còn được thể hiện chưa rõ ràng ngay cả trong những bài giảng trong các chương trình đại học. Tuy nhiên, chúng có thể tạo thành những đồng minh về phương pháp luận cho các nhà nghiên cứu, thậm chí, khi được dạy ở bậc trung học, chúng sẽ mang lại nội dung khoa học cho kiến thức tổng quát.

Agnès Vernet

Người dịch: Thái Thị Ngọc Dư

Nguồn: Comment trier le bon du mauvais doute”, The Conversation, 23.6.2021.

----

Bài có liên quan:

· Tại sao khoa học coi thường ý kiến của bạn về sự thật?

· Ta có thể học để trở thành duy lí hơn không?

· Sự ngờ vực khoa học chỉ là một biểu hiện của nền dân chủ

Print Friendly and PDF