Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
1
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
2
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Những Câu Trả Lời Ngắn
Cho Những câu Hỏi Lớn
Stephen Hawking
For education only.
Favor college students who major in
science, international literature, or a
foreign language.
Not for purchase.
3
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Sách trên mạng:
https://books.feedvu.com/nonscrolablepdf/briefanswers-to-the-big-questions-pdf-2.html
4
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
MỤC
LỤC
Điểm Sách New York Times. 07
Lời Giới Thiệu của Kip S. Thorne. 09
Tại Sao Chúng Ta Phải Hỏi Những Câu Hỏi Lớn. 20
- Có Thượng Đế Hay Không? 40
- Vạn Vật Bắt Đầu Như Thế Nào? 55
- Có Sinh Vật Trí Khôn nào Sống Trong Vũ Trụ
Không? 79
- Có Thể Nào Dự Đoán Được Tương Lai? 98
- Có Gì Trong Lỗ Đen? 106
- Có Thể Nào Du Hành Trong Không Gian? 121
- Liệu Chúng Ta Có Tồn Tại Trên Địa Cầu?
- Có Nên Chinh Phục Không Gian?
- Có Thể Nào Trí TUệ Nhân tạo Khôn Hơn Con
Người? 167
- Làm Thế Nào Để Định Hướng Tương Lai? 179
- Lời Bạt của Lucy Hawking. 190
- Tiểu Sử. 195
5
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
6
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Điểm Sách New York Times.
Nhà vũ trụ học nổi tiếng thế giới, cũng là tác giả của
A Brief History of Time, để lại cho chúng ta những
suy nghĩ cuối cùng của ông về những câu hỏi lớn
nhất mà nhân loại phải đối diện. Món quà chia tay
của Hawking cho nhân loại. . . “một cuốn sách mà
người nào có suy tư băn khoăn về tương lai loài
người nên đọc.” NPR.
Stephen Hawking là nhà khoa học nổi tiếng nhất sau
Einstein, được biết đến với cả công trình khám phá
về vật lý và vũ trụ học, lẫn khiếu hài hước tinh quái.
Ông đã giáo dục hàng triệu độc giả về nguồn gốc
của vũ trụ và bản chất của lỗ đen, đồng thời truyền
cảm hứng cho hàng triệu người khác bằng cách xem
thường lời tiên đoán ban đầu đáng sợ của bệnh
ALS, căn bệnh khiến ông được biết chỉ còn sống
thêm hai năm. Trong cuộc sống sau này, ông chỉ có
thể giao tiếp bằng cách sử dụng một số cơ bắp trên
mặt, nhưng vẫn tiếp tục phát triển lĩnh vực khoa học,
và là tiếng nói đáng ngưỡng mộ về các vấn đề xã
hội và nhân đạo.
Hawking không chỉ làm sáng tỏ một số bí ẩn lớn nhất
của vũ trụ mà còn tin rằng khoa học đóng vai trò
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề trên Trái
đất. Giờ đây, khi chúng ta đối mặt với những thách
thức lớn lao trên địa cầu, bao gồm biến đổi khí hậu,
7
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mối đe dọa chiến tranh hạt nhân và sự phát triển của
trí tuệ nhân tạo (A.I.). Ông chuyển sự chú ý sang
những vấn đề cấp bách nhất mà con người phải đối
phó. Nhân loại sẽ tồn tại? Chúng ta có nên xâm
chiếm không gian? Thượng Đế có hiện hữu không?
Đây chỉ là một vài trong số những câu hỏi mà
Hawking giải quyết trong cuốn sách cuối cùng có
phạm vi rộng, được tranh luận sôi nổi từ một trong
những bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử.
Với lời tựa của Eddie Redmayne, người đã giành
giải Oscar trong vai Stephen Hawking, lời giới thiệu
của người đoạt giải Nobel Kip Thorne, và lời bạt từ
Lucy, con gái của Hawking, “Những câu trả lời ngắn
gọn cho những câu hỏi lớn” là một thông điệp cuối
cùng tuyệt vời gửi đến thế giới.
Ca ngợi những câu trả lời ngắn gọn cho những câu
hỏi lớn “[Hawking] là biểu tượng cho sức mạnh phi
thường của trí tuệ con người.”—The Washington
Post “Thông điệp cuối cùng của Hawking gửi tới độc
giả. . . là một điều đầy hy vọng.”—CNN “Tầm nhìn
nhanh nhẹn, sáng suốt về tương lai của khoa học và
nhân loại.”—The Wall Street Journal. “Hawking
không đả kích gì đến các chủ đề như máy móc
chiếm lấy, mối đe dọa lớn nhất đối với Trái đất và
khả năng của cuộc sống thông minh trong không
gian.”—Quartz. “Dễ đọc mang tính hướng dẫn, tiếp
thu, chính xác từng chi tiết và—ở những nơi quan
trọng—sự dí dỏm.”—The Guardian. “Cuốn sách nhỏ
xinh đẹp này là tia sáng cuối cùng phù hợp từ một
ngôi sao mới trong bầu trời phía trên.” – Telegraph.
8
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Lời Giới Thiệu
Nhà Bác Học Kip S. Thorne
Giải Nobel Vật Lý 2017.
Tôi gặp Stephen Hawking lần
đầu tiên vào tháng 7 năm 1968,
tại London, Anh quốc, trong một
hội nghị về Thuyết Tương Đối
Rộng (còn gọi là thuyết Tương đối
Tổng quát) và Hấp Lực. Lúc đó,
Stephen còn đang học tiến sĩ tại
đại học Cambridge, còn tôi vừa
hoàn tất khóa học tại đại học
Princeton. Tin đồn lan truyền
trong các hội trường cho biết
Stephen đã tìm ra một lý lẽ
đáng tin cậy, cho rằng vũ trụ
được sinh ra trong một thời điểm hữu hạn nào đó
trong quá khứ và không thể tồn tại một cách vô hạn.
Chúng tôi vào khoảng 100 người chen chúc vào một
căn phòng nhỏ, chỉ đủ chứa 40 mạng để nghe
Stephen trình bày. Anh ta chống gậy và nói hơi lắp
bắp, còn chứng bệnh Thoái Hóa Tiểu Não của anh,
đã được chuẩn đoán hai năm trước, có vẻ không
9
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
nghiêm trọng. Đầu óc anh sáng suốt không bị ảnh
hưởng. Anh lý luận minh bạch dựa trên các phương
trình thuyết Tương đối Rộng của nhà bác học
Einstein, và các quan sát của các nhà thiên văn học.
Cho rằng vũ trụ đang phát triển, dựa trên một số giả
định đơn giản, có vẻ khá đúng. Được sử dụng với
một số kỹ thuật tân toán học do Roger Penrose mới
sáng chế gần đây. Kết hợp tất cả những điều này
một cách thông minh, mạnh mẽ và lôi cuốn, Stephen
đã suy ra kết quả: Vũ trụ đã bắt đầu trong một trạng
thái lạ thường, đoán chừng khoảng 10 tỷ năm trước
đây. (Trong thập niên sau, Stephen và Roger, dùng sức kết
hợp của các lực, hơn bao giờ hết đã chứng minh vô cùng thuyết
phục, sự bắt đầu lạ thường đó là sự khởi đầu của thời gian.
Ngoài ra, còn chứng minh rất đáng tin về trung tâm, “lõi”, của
mỗi lỗ đen, đều là nơi hiện diện của sự lạ thường, cũng là nơi
thời gian chấm dứt.)
Bài thuyết trình của Stephen năm 1968 cho tôi một
ấn tượng sâu sắc. Không chỉ vì lý lẽ và kết luận của
anh, nhưng quan trọng hơn chính là khả năng sáng
tạo và suy tư thâm thúy. Vì vậy, tôi tìm gặp Stephen.
Chuyện trò trao đổi trong một giờ đồng hồ. Tình bạn
trọn đời của chúng tôi bắt đầu từ hôm đó. Một tình
bạn không chỉ đơn thuần dựa trên những lợi ích
chung của khoa học, mà còn được xây dựng trên
mối cảm thông đáng ngạc nhiên để hiểu nhau như
những con người.
Chẳng bao lâu, chúng tôi dùng nhiều thời giờ để tâm
sự về đời sống, tình cảm, kể cả cái chết, nhiều hơn
là trao đổi về khoa học. Cho dù khoa học vẫn là chất
keo gắn bó chúng tôi.
Vào tháng 9 năm 1973, tôi đưa Stephen và vợ là
Jane đi Moscow bên Nga. Bất chấp cuộc chiến tranh
lạnh đang gay cấn, mỗi năm, tôi đều ở Moscow một
tháng kể từ năm 1968, để hợp tác nghiên cứu với
các thành viên trong một nhóm khoa học gia dẫn đầu
10
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
bởi nhà bác học Yakov Borisovich Zel’dovich. Ông
là nhà vật lý thiên văn lỗi lạc, đồng thời là cha đẻ
bom khinh khí của Sô-viết. Vì những bí mật trong
chương trình nguyên tử, ông bị cấm không được
đến Âu châu và Hoa kỳ. Ông khao khát muốn thảo
luận với Stephen. Vì Zel’dovich không đi được,
chúng tôi qua Moscow gặp ông.
Ở Moscow, Stephen đã khiến cho Zel’dovich và
hàng trăm khoa học gia thán phục về sức hiểu biết
thấu đáo của ông, Ngược lại, ông cũng học được
đôi điều từ Zel’dovich. Đáng nhớ nhất là buổi chiều
mà tôi, Zel’dovich và tiến sĩ Alexei Starobinsky (môn
đệ của Zel’dovich) đến gặp Stephen tại phòng ngủ
trong khách sạn Rossiya. Bằng trực giác, Zel’dovich
đã trình bày một khám phá đáng kể do họ tìm thấy,
rồi Starobinsky chú giải bằng toán học.
Để lỗ đen có thể tự xoay tròn, cần phải có năng
lượng. Chúng tôi cũng biết điều này. Họ giải thích,
một lỗ đen (Black hole, học thuyết của Stephen Hawking,
1974) có thể dùng năng lượng xoay tròn bắn ra
những hạt nhân. Những hạt nhân này cũng mang
theo năng lượng xoay (spin energy.) Điều này mới
mẻ, gây kinh ngạc, nhưng không đến đổi kinh khiếp.
Khi một vật thể có năng lượng chuyển động, thông
thường thiên nhiên sẽ tìm cách phân chiết nó ra,
Chúng tôi đã biết những cách khác để chiết xuất
năng lượng xoay của lỗ đen. Cách của họ chỉ là một
cách mới, bất ngờ.
Cho đến nay, giá trị kỳ diệu của những cuộc thảo
luận như vậy, đã kích động ra những chiều hướng
suy nghĩ mới. Đối với Stephen cũng không ngoại lệ.
Anh nghiền ngẫm sự khám phá của Zel’dovich và
Starobinsky suốt vài tháng, trăn trở từ hướng cạnh
này qua hướng cạnh khác, cho đến một hôm, tự
dưng bật mở một hiểu biết thực sự thông suốt trong
11
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tâm trí Stephen. Đó là, sau khi một lỗ đen đã ngừng
xoay, vẫn còn bắn ra những hạt nhân, tiếp tục tạo
bức xạ (radiate) – như thể lỗ đen nóng tương tựa
mặt trời, cho dù nhiệt độ không cao bằng, có thể chỉ
ở độ ấm. Lỗ đen càng nặng, nhiệt độ càng giảm.
Nếu một lỗ đen nặng bằng mặt trời, sẽ có nhiệt độ
0.00000006 Kelvin, 0,06 phần triệu trên độ không
tuyệt đối. (Absolute Zero:
https://search.yahoo.com/search?fr=mcafee&type=E211US12
50G0&p=absolute+zero.)
Công thức tính nhiệt độ này, hiện nay, được khắc
trên bia mộ của Stephen trong tu viện Westminster,
London. Mộ của ông nằm ở giữa hai ngôi mộ của
hai đại bác học Isaac Newton và Charles Darwin.
“Nhiệt độ Hawking” của lỗ đen và “Bức xạ Hawking”
thật sự là những tiến bộ tiền phong – Có lẽ, đây là lý
thuyết vật lý cấp tiến nhất được khám phá trong nửa
phần sau của thế kỷ 20. Mở mắt cho chúng ta thấy
mối liên hệ sâu thẳm giữa thuyết Tương đối rộng,
nhiệt động lực học (thermodynamics, vật lý về nhiệt), và
vật lý Lượng tử (quantun physics, sự tạo ra các hạt nhân mà
trước đó không có). Ví dụ, nhờ vậy Stephen chứng
minh, một lỗ đen có “entropy” (là một khái niệm khoa học,
cũng như một đặc tính vật lý có thể đo lường, thường được liên
kết với tình trạng rối loạn, ngẫu nhiên và không chắc chắn.)
Nghĩa là có sự ngẫu nhiêu rất lớn ở một nơi nào đó
chung quanh hoặc bên trong lỗ đen. Ông suy luận,
“số lượng entropy” (logarithm của số lượng ngẫu nhiên nơi
lỗ đen. Logarithm: trong toán học Nga, là một hàm số đi ngược
với lũy thừa) tỷ lệ với diện tích bề mặt của lỗ, Công
thức cho entropy được khắc lên đá trên đài tưởng
niệm Stephen tại trường Cao đẳng Gonville và
Caius ở Cambridge, nơi ông đã từng làm việc.
Trong 45 năm qua, Stephen và hàng trăm nhà vật lý
khác đã đương đầu khó khăn để tìm hiểu bản chất
chính xác của tính ngẫu nhiên nơi lỗ đen. Đây là một
12
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
nghi vấn không ngừng tạo ra nhiều hiểu biết mới về
sự kết hợp giữa lý thuyết Lượng tử và lý thuyết
Tương đối rộng.
Mùa thu 1974, Stephen đưa các tiến sĩ môn đệ và
gia đình (Jane và hai con: Robert và Lucy) đến
Pasadena, California trong một năm, để anh ta cùng
các tiến sĩ tham gia những sinh hoạt trí thức của
trường tôi, đại học Caltech, tạm thời, gia nhập vào
nhóm nghiên cứu riêng của tôi. Thật là một năm hết
sức thú vị, lên tận đỉnh cao gọi là “thời hoàng kim
của nghiên cứu lỗ đen.”
Suốt năm đó, Stephen, tôi và các tiến sĩ của hai
nhóm đều trải qua nhiều khó khăn để lãnh hội sâu
xa hơn về lỗ đen. Nhưng sự hiện diện của Setphen
và sự lãnh đạo của anh cho cả hai nhóm liên kết
nghiên cứu này, cho phép tôi rảnh rang theo đuổi
một phương hướng mới mà tôi đã dự tính trong vài
năm qua: Sóng Trọng Lực (Gravitation waves.)
Chỉ có hai loại sóng có thể truyền khắp vũ trụ mang
lại cho chúng ta thông tin từ những gì ở xa xôi: Sóng
điện tử (electromagnetic waves) bao gồm ánh sáng,
tia X, sóng vi ba, sóng vô tuyến…) và sóng hấp lực
(Sóng trọng lực, gravitational waves.)
Sóng điện tử bao gồm các lực điện và lực từ dao
động truyền tải với tốc độ ánh sáng. Khi chúng tác
động những hạt có điện, chẳng hạn như các hạt điện
tử (electron) đến các cột truyền thanh hoặc truyền
hình. Sóng xao động các hạt qua lại. Sóng chuyên
chở các hạt mang thông tin. Người ta có thể khuếch
đại và đưa những thông tin này vào loa phát thanh
hoặc vào màn ảnh truyền hình cho người thưởng
ngoạn.
Theo Einstein, sóng hấp lực bao gồm những sợi dọc
co giản dao động trong một không gian. Năm 1972,
Rainer Rai Weiss tại Viện Kỹ Thuật Massachusetts
13
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đã phát minh máy dò sóng hấp lực. [… bỏ một đoạn
ngắn trình bày kỹ thuật về cấu trúc của máy dò…] Rai đề nghị
dùng chùm tia laser để đo mẫu hình của sự co giản.
Ánh sáng laser có thể chiết xuất thông tin trong sóng
hấp lực và tín hiệu có thể đưa vào máy vi tính, phóng
lớn cho người nhận biết.
Việc nghiên cứu vũ trụ bằng viễn vọng kính điện tử
(electromagnetic telescope) do nhà bác học Galileo
khởi xướng, khi ông chế tạo một viễn vọng kính
quang học nhỏ, hướng về sao Mộc (Jupiter) và phát
hiện bốn mặt trăng lớn nhất bao quanh sao này. Kể
từ đó, trong suốt 400 năm qua, thiên văn học điện
tử (electromagnetic astronomy) đã hoàn toàn cách
mạng sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ.
Từ năm 1972, các tiến sĩ môn đệ và tôi bắt đầu sử
dụng sóng hấp lực để tìm hiểu những gì có thể khám
phá về vũ trụ: Khởi sự phát triển một tầm nhìn về
thiên văn học sóng hấp lực (gravitational-wave
astronomy.) Bởi sóng hấp lực là một dạng sợi dài
cong trong không gian, chúng được tạo ra rất vững
mạnh bởi những vật thể, mà một phần hoặc toàn thể
do khối “Thời gian-không gian cong” tạo thành. Cùng
nghĩa, khối này là lỗ đen. Chúng tôi kết luận, sóng
hấp lực là phương tiện lý tưởng để khám phá và
kiểm chứng những kiến thức của Stephen về lỗ đen.
Tổng quát, dường như đối với chúng tôi, sóng hấp
lực hoàn toàn khác với sóng điện tử. Sóng hấp lực
có khả năng bảo đảm tạo ra một cuộc cách mạng
mới, đặc thù, trong kho tàng hiểu biết về vũ trụ của
con người. Có thể so sánh với cuộc cách mạng điện
tử lớn lao theo sau Galileo - Nếu như chúng ta có
thể phát hiện và giám sát loại sóng đặc biệt này.
Nhưng đó là chữ “Nếu” rất lớn: Chúng tôi ước tính,
sóng hấp lực phủ lên trái đát quá yếu ớt, đến nổi
14
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
máy dò của Rai Weiss gần như không hiệu quả (Tóm
lược một đoạn ngắn về kỹ thuật đo của máy dò.)
Trong một năm hoàng kim, Stephen và các tiến sĩ tụ
họp tại Caltech, nhân đó tôi dùng nhiều thời giờ để
khám phá triển vọng thành công của sóng hấp lực.
Stephen đã giúp ích rất nhiều. Vài năm trước đây,
ông và tiến sĩ môn đệ Gary Gibbons đã thiết kế một
máy dò sóng hấp lực riêng cho họ, nhưng chưa bao
giờ chế tạo.
Ngay sau khi Stephen trở lại Cambridge, chuyện
khám phá của tôi đã trở thành thực tế sau một cuộc
thảo luận căng thẳng với Rai Weiss tại phòng ngủ
trong khách sạn Washington DC. Nhờ vậy, tôi nắm
được phần chắc khá cao về triển vọng thành công,
để có thể sử dụng phần lớn sự nghiệp của mình và
các nghiên cứu của các sinh viên tương lai, trợ giúp
Rai và các nhà thí nghiệm khác thấu đáo về sóng
hấp lực. Phần còn lại thuộc về lịch sử, như người ta
thường nói.
Vào ngày 14 tháng 9, năm 2018, máy thăm dò sóng
hấp lực LIGO ra đời, đã đăng ký đầu tiên và chính
thức cho sóng hấp lực, (Máy được xây dựng bởi dự
án một ngàn người mà Rai, tôi, và Ronald Drever
đồng sáng lập với sự tổ chức, hướng dẫn và lắp ráp
của Barry Barish.) Bằng cách so sánh các dạng
sóng với các dự đoán của máy vi tính, nhóm chúng
tôi kết luận: khi hai lỗ đen lớn nặng va chạm vào
nhau, sẽ tạo ra sóng, khoảng 1.3 tỷ năm ánh sáng
từ trái đất. Đây là khởi đầu của thiên văn học sóng
hấp lực. Nhóm chúng tôi đã hoàn thành vế sóng hấp
lực như Galileo đã hoàn thành về sóng điện tử.
Trong vài thập niên nữa, tôi dám chắc rằng, những
thế hệ tiếp theo của các nhà thiên văn học sóng hấp
lực sẽ sử dụng loại sóng này, không chỉ để kiểm tra
định luật vật lý Lỗ đen của Stephen, mà còn phát
15
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
hiện và theo dõi sóng hấp lực từ sự ra đời lạ lùng
của vũ trụ. Cũng nhờ đó, sẽ kiểm định ý tưởng của
Stephen và những bác học khác về sự kiện vũ trụ
đã thành hình như thế nào.
Trong năm 1974, một năm đầy vinh dự, trong khi tôi
đang chìm đắm vào lý thuyết sóng hấp lực, Stephen
đang hướng đạo nhóm tiến sĩ liên kết nghiên cứu về
lỗ đen, Stephen đã đạt đến một ý tưởng hết sức sâu
sắc, vượt qua cả sự khám phá về bức xạ Hawking.
Đó là việc anh đưa ra bằng chứng thuyết phục rằng,
sau khi một lỗ đen thành hình, nó sẽ bốc hơi hoàn
toàn bằng cách phát ra bức xạ. Những thông tin nào
đi vào trong lỗ đen, sẽ không thể trở lại. Những
thông tin đó chắc chắn sẽ bị mất.
Ngược lại, định luật triệt để của vật lý lượng tử
(quantum physics) khẳng định dứt khoát rằng những
thông tin không bao giờ bị hủy diệt hoàn toàn. Như
vậy, nếu Stephen chứng minh đúng, lý thuyết lỗ đen
đã vi phạm định luật căn bản nhất của vật lý lượng
tử.
Làm sao có thể như vậy? Sự bốc hơi của lỗ đen
được điều động bởi các định luật kết hợp giữa cơ
học lượng tử (quantum mechanic) và thuyết tương
đối rộng - những định luật hấp lực lượng tử
(quantum gravity) khó hiểu, vì vậy, Stephen lý giải
rằng, cuộc hôn phối nảy lửa giữa thuyết tương đối
và vật lý lượng tử phải dẫn đến chỗ hủy diệt những
thông tin.
Đa số những lý thuyết gia về vật lý nhận xét kết luận
của Stephen là mâu thuẫn. Họ rất đa nghi. Vì vậy,
trong 40 năm qua họ đương đầu với trở ngại nghịch
lý về vấn đề thông tin bị hủy diệt. Đó là cuộc tương
tranh xứng đáng đã nỗ lực và gánh chịu những
phiền hà đã trải qua, vì sự nghịch lý này là chìa khóa
16
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mang theo quyền lực để tìm hiểu những định luật về
hấp lực lượng tử.
Năm 2003, cá nhân của Stephen đã tìm thấy những
thông tin bật thoát ra ngoài trong quá trình bốc hơi
của lỗ đen, nhưng điều đó vẫn không ngăn chặn
được cuộc tranh cãi của các lý thuyết gia. Stephen
chưa thể chứng minh được sự kiện này, vì thế,
những cuộc tranh luận vẫn tiếp tục.
Trong bài điếu văn cho Stephen tại buổi lễ đặt xác
tro của ông ở tu viện Wesminster, tôi đã tưởng nhớ
đến những tranh luận thách đố đó bằng những lời
như sau: “Newton cho ta những câu trả lời. Hawking
cho ta những câu hỏi. Những câu hỏi này vẫn tiếp
tục hỏi, tạo ra những đột phá trong nhiều thập niên
về sau. Cuối cùng, khi chúng ta nắm vững các định
luật về hấp lực lượng tử, hiểu biết đầy đủ về sự
thành hình của vũ trụ, Phần lớn nhờ vào đôi vai gánh
vác của Hawking.”
*
*
*
Năm 1974, năm vinh quang cho chúng tôi, năm khởi
đầu cuộc truy tầm sóng hấp lực, cũng là khởi đầu
cho Stephen sưu tra những hiểu biết chi tiết về các
định luật hấp lực lượng tử. Tìm hiểu những định luật
đó giải thích được gì về bản chất thực sự của các
thông tin nơi lỗ đen và tính ngẫu nhiên. Hơn nữa, có
thể giải đáp nguồn gốc thật sự về vũ trụ đã ra đời
như thế nào và đặc tính thật sự của các điểm kỳ lạ
bên trong lỗ đen – cùng một lúc là sự sinh thành và
sự hủy diệt của thời gian.
Đây là những câu hỏi lớn, RẤT LỚN. (3)
17
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi đã trốn tránh những câu hỏi lớn, vì không đủ khả
năng, trí tuệ và lòng tự tin để giải quyết những nghi
vấn. Ngược lại, Stephen luôn luôn bị thu hút bởi
những câu hỏi lớn, cho dù chúng có gốc rễ sâu xa
với khoa học hay không. Anh ấy có đủ kỹ năng cần
thiết, trí óc thông thái và lòng tự tin.
Cuốn sách này là tập hợp những câu trả lời của anh
về các câu hỏi lớn, cho dù những trả lời này vẫn còn
đang lở dở vào lúc anh qua đời.
Sáu câu hỏi lớn được Stephen trả lời có nguồn gốc
từ khoa học của anh.
Có Thượng Đế hay không?
Vạn vật bắt đầu ra sao?
Có thể nào biết trước tương lai?
Bên trong lỗ đen chứa thứ gì?
Trở về quá khứ hoặc du lịch tương lai, có thể điều
khiển thời gian hay không?
Làm sao để định hình tương lai?
Trong cuốn sách này, bạn đọc sẽ tìm thấy Stephen
thảo luận thấu đáo các nghi vấn nêu trên, mà tôi chỉ
mô tả sơ sài trong phần giới thiệu.
Những trả lời của anh về bốn câu hỏi lớn khác không
thể bắt nguồn từ phạm vi khoa học của anh:
Chúng ta có thể sống sót trên trái đất?
Có người hành tinh ngoài vũ trụ hay không?
Nhân loại có nên chiếm cứ không gian?
Trí tuệ nhân tạo điện tử vượt qua con người?
Thế nào đi nữa, những trả lời của anh thể hiện trí
tuệ xán lạn và khả năng sáng tạo sâu thẳm, như
chúng ta đã biết.
18
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi hy vọng, độc giả sẽ tìm thấy những câu trả lời
của Stephen thú vị và thâm sâu như tôi đã nhận ra.
Chúc các bạn thưởng thức!
Kip S. Thorne.
Tháng 7, 2018.
Ghi chú:
1- Cá nhân tôi tìm thấy, có một số khác biệt bên
trong nội dung của các bản in. Có lẽ, đã có một sự
sửa chữa sau mỗi lần in. Tuy nhiên, những khác
biệt nhỏ này không ảnh hưởng đến tư tưởng chính
của tác giả. Tôi so sánh bản trên internet và ấn bản
của Bantam Book, New York. 2018.
2- Từ ngữ “thông tin, information” mà các nhà vật lý
sử dụng, bao hàm ý nghĩa lớn hơn “thông truyền tin
tức”. Trong nghĩa rộng, thông tin là những gì xác
nhận bản sắc của một vật thể; hoặc xa hơn, là tất cả
những gì hiện hữu trong thực tế. Đa số trong mọi
trường hợp, thông tin được hiểu là số nhiều.
3- Độc giả nào thông thạo Anh ngữ, nên tìm đọc
cuốn sách này và những sách khác của Stephen
Hawking. Đây là một công trình, chẳng những lớn
nhất trong thế kỷ 20 mà còn lớn lao cho toàn thể lịch
sử nhân loại.
19
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tại Sao Chúng Ta Phải Hỏi
Những Câu Hỏi Lớn?
Hầu hết, ai cũng
muốn biết câu trả lời
cho những câu hỏi
lớn. Con người từ
đâu đến? Vũ trụ
sinh ra như thế
nào? Ý nghĩa và cơ
cấu đàng sau vạn
vật là gì? Có ai sống
bên ngoài trái đất
hay không?
Những hiểu biết trong quá khứ về tạo hóa, bây giờ,
dường như không còn phù hợp, ít đáng tin cậy.
Chúng được thay thế bằng nhiều thứ, có thể gọi là
tưởng tượng mê tín, từ New Age (Thời đại mới) cho
đến Star Trek (du hành không gian). Khoa học thực
nghiệm tuy xa lạ hơn khoa học giả tưởng, nhưng
mang đến nhiều thỏa mãn.
20
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi là nhà khoa học với nỗi đam mê say đắm về vật
lý, vũ trụ học, vũ trụ quan và tương lai nhân loại. Cha
mẹ nuôi dưỡng tôi khôn lớn với trí tò mò không hề
thay đổi như cha tôi, nghiên cứu và nỗ lực trả lời
nhiều câu hỏi mà khoa học đặt ra cho con người. Tôi
đã dùng hết cả đời để chu du khắp vũ trụ bằng trí
tưởng. Thông qua lý thuyết vật lý, tôi tìm ra thấy cách
trả lời những câu hỏi lớn. Đã có lúc tôi tưởng rằng
mình sắp thấy được mức cuối cùng của vật lý mà
chúng ta đang sống, nhưng, bây giờ, tôi nghĩ, những
khám phá kỳ diệu vẫn sẽ phải tiếp tục rất lâu sau khi
tôi qua đời. Chúng ta đang tiến gần đến một số câu
trả lời, nhưng chưa thực sự đến đó.
Vấn đề nằm ở chỗ, hầu hết mọi người cho rằng,
khoa học thực nghiệm quá phức tạp và khó hiểu. Tôi
không nghĩ như vậy. Để khám phá những định luật
căn bản điều động vũ trụ, cần phải quyết tâm học
tập một thời gian. Thời giờ là thứ mà hầu hết mọi
người không có. Thế giới sẽ sớm dừng lại, nếu tất
cả chúng ta đều để thời giờ tìm hiểu khoa vật lý.
Nhưng đa số người ta có thể hiểu và đánh giá cao
những ý tưởng khoa học căn bản nếu được trình
bày một cách rõ ràng và không sử dụng các phương
trình phức tạp. Tôi nghĩ, có thể được và tôi đã cố
gắng thực hiện với lòng thích thú trong suốt cuộc đời
mình.
Thật là một thời vinh dự khi được sống và nghiên
cứu lý thuyết vật lý. Hình ảnh về vũ trụ đã thay đổi
rất nhiều trong 50 năm qua. Tôi rất sung sướng nếu
21
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đã đóng góp được phần nào. Một trong khám phá
kỳ diệu của thời đại không gian là viễn cảnh cho
phép nhân loại hiểu biết về chính họ. Khi chúng ta
nhìn trái đất từ không trung, chúng ta sẽ thấy chính
mình trong một tổng thể. Chúng ta nhìn thấy sự đồng
nhất, không phải sự chia biệt. Đây là hình ảnh hết
sức đơn giản với lời nhắn lôi cuốn: Một hành tinh,
một loài người.
Tôi muốn đóng góp tiếng nói với những ai đang yêu
cầu hành động trực tiếp đối phó những thách thức
quan trọng cho mọi người sống trên trái đất này, Tôi
hy vọng trong tương lai, ngay cả khi tôi không còn ở
đây, con người có thể nắm quyền lực để thể hiện óc
sáng tạo, lòng dũng cảm, và khả năng lãnh đạo. Hãy
để họ tiến lên đương đầu với những thách thức của
các mục tiêu tiến bộ có thể chứng minh, và hành
động không vì tư lợi, mà vì lợi ích chung. Tôi cũng ý
thức về sự quí giá của thời gian. Phải nắm chặt cơ
hội và hành động ngay lập tức.
(Tiếp theo là phần tự truyện của Hawking. Sẽ giúp cho
người đọc hiểu hơn về lý thuyết vật lý và ý chí làm người
hữu ích. Đời sống của ông chính là ý nghĩa vật thể trong
vật lý. Sau phần tự truyện là các câu trả lời, đáp ứng
những câu hòi lớn. Ghi chú của người dịch.)
* * *
Trước đây, tôi đã từng viết về tiểu sử của mình,
nhưng một số kinh nghiệm thuở ban đầu đáng được
22
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
nhắc lại khi tôi nghĩ đến niềm đam mê suốt cuộc
sống liên quan đến những câu hòi lớn.
Tôi sinh ra đúng 300 năm sau năm chết của nhà bác
học Galileo. Tôi cảm tưởng có sự trùng hợp ngẫu
nhiên đã ảnh hưởng đến những thành tựu trong
cuộc sống khoa học mà tôi đã trải qua. Tuy nhiên,
tôi ước tính khoảng 200,000 em bé khác đã ra đời
trong ngày hôm đó, không biết về sau có ai trong
đám sơ sinh này quan tâm đến thiên văn học hay
không?
Tôi lớn lên trong ngôi nhà cao, hẹp, kiểu Victoria ở
Highgate, London, cha mẹ tôi đã mua rất rẻ trong
thời Đệ nhị thế chiến. Lúc đó, ai cũng nghĩ London
sẽ bị Đức thả bom nát bét, Trong thực tế, một hỏa
tiễn V2 đã rơi xuống gần nhà tôi. Mẹ và hai chị em
tôi đang ở xa. May mắn, bố tôi không bị thương.
Trong nhiều năm, có một bãi bom lớn trên đường
cái mà tôi cùng anh bạn Howard thường đến chơi.
Việc tò mò điều tra vụ bom nổ trở thành mối tò mò
theo đuổi suốt đời. (Ý ông muốn nói đến việc về sau,
ông nghiên cứu sự nổ tạo ra vũ trụ trong thuyết Big Bang.
Ghi chú của người dịch.)
Năm 1950, công việc của cha tôi bị thuyên chuyển
lên tận miền bắc London, làm cho Viện Nghiên cứu
Y khoa Quốc gia mới xây xong tại Mill Hill. Gia đình
tôi dọn đến thành phố St. Albans gần đó. Tôi vào học
một trường trung học dành riêng cho phái nữ. Mặc
dù mang tên có nội quy như vậy, trường vẫn nhận
nam sinh dưới 10 tuổi. Sau này, tôi dời sang trường
23
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
trung học St. Albans. Điểm học của tôi chưa bao giờ
cao hơn nửa lớp, đó là một lớp học đầy học sinh
thông minh, nhưng đám bạn đặt cho tôi biệt danh:
Einstein, có lẽ, họ đã nhìn thấy một dấu hiệu tốt đẹp
nào đó. Năm 12 tuổi, hai người bạn đánh cá với
nhau một túi kẹo, rằng tôi sẽ chẳng bao giờ trở thành
một nhân vật nổi tiếng.
Tôi có khoảng sáu hoặc bảy người bạn thân ở
trường St Alban. Chúng tôi thường thảo luận vả
tranh cãi nhiều chuyện, từ các mô hình điều khiển
bằng sóng vô tuyến đến lãnh vực tôn giáo. Một trong
những câu hỏi lớn mà chúng tôi thường bàn luận là
nguồn gốc của vũ trụ, liệu có cần Thượng Đế tạo ra
và điều khiển cho nó hoạt động hay không? Tôi nghe
nói, ánh sáng từ các thiên hà xa xôi đã xê dịch về
phía cuối màu đỏ của quang phổ. Điều này được giải
thích là vũ trụ đang bành trướng. Tôi cũng chắc
rằng, phải có những lý do khác để các tia đỏ di
chuyển. Có lẽ, ánh sáng yếu đi và nhiều tia đỏ đang
hướng về trái đất? Về phần cơ bản, một vũ trụ bất
biến, vĩnh cửu dường như với sự chuyển dịch
quang phổ khiến cho nó tự nhiên hơn. (Chỉ vài năm
sau, khi khám phá được nền sóng vi ba ‘microway’
trong vũ trụ qua quá trình nghiên cứu Tiến sĩ, tôi mới
nhận ra, mình đã sai lầm.)
Tôi luôn luôn quan tâm đến cách vận hành của mọi
thứ. Thường xuyên tháo chúng ra từng phần để xem
xét chúng hoạt động ra sao, nhưng khi ráp lại thì
không được giỏi lắm. Khả năng thực tế của tôi không
24
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
phù hợp với phẩm chất lý thuyết. Cha tôi khuyến
khích tôi chuyên tâm về khoa học, lưu ý tôi ghi danh
Oxford hoặc Cambridge. Ông đã từng học ở đại học
Oxford nên muốn tôi nộp đơn vào trường này. Trong
thời đó, Đại học cao đẳng chưa có tài trợ cho nghiên
cứu sinh về toán học, không còn nhiều chọn lựa, tôi
cố gắng kiếm một học bổng về khoa học tự nhiên.
Ngạc nhiên thay, tôi đã thành công.
Thái độ chung của đại học Oxford thời đó là không
muốn học nhiều. Muốn lỗi lạc mà không muốn cố
gắng, chấp nhận những giới hạn của bản thân, và
nhận lãnh văn bằng hạng tư. Tôi xem đây là lời kêu
gọi học hành thoải mái. Không có gì tự hào, tôi chỉ
mô tả lại một thời mà hầu hết các sinh viên đều chia
sẻ. Rồi đến kết quả căn bệnh của tôi, đã làm mọi sự
thay đổi. Khi phải đối diện với khả năng bị chết yểu,
khiến cho tôi nhận ra, có rất nhiều việc cần làm trước
khi cuộc đời chấm dứt.
Vì không học kỹ, tôi quyết định lên kế hoạch để vượt
qua kỳ thi cuối năm, bằng cách tránh những câu hỏi
cần có kiến thức thực tế, để tập trung vào các vấn
đề lý thuyết vật lý. Đêm trước ngày thi tôi không ngủ
nên kết quả không như ý. Số điểm đạt được cho tôi
vị trí ở giữa văn bằng hạng nhất và văn bằng hạng
nhì, Vì vậy tôi được các giám khảo phỏng vấn để
xác định bằng cấp ở bậc nào. Trong khi phỏng vấn,
họ hỏi tôi về dự tính tương lai. Tôi trả lời, sẽ đi ngành
nghiên cứu. Nếu tôi đậu văn bằng hạng nhất, sẽ ghi
25
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
danh đại học Cambridge. Nếu được văn bằng hạng
nhì, sẽ ở lại Oxford. Họ cho tôi hạng nhất.
Được nghỉ hè khá dài sau kỳ thi sau cùng, trường
đại học trợ cấp một số chi phí nhỏ cho đi du lịch. Tôi
nghĩ, sẽ có cơ hội nhận một trợ cấp lớn hơn nếu yêu
cầu được đi xa. Tôi đề nghị du lịch Iran. Mùa hè
1962, tôi khởi hành, lấy xe lửa từ Istanbul đi
Ezuerum, miền đông Thổ Nhỉ Kỳ, rồi qua Tabriz,
Tehran, Isfahan, Shiraz, và Persepolis, thủ đô của
các đế vương Ba Tư thời cổ đại. Trên đường về, tôi
và bạn đồng hành Richard Chiin gặp phải trận động
đất ở Bouin-Zaha, 7, 1 độ Richter, giết chết khoảng
12,000 người. Lúc đó, chắc tôi đã ở gần trung tâm
địa chấn nhưng không biết vì tôi đang bị bệnh. Chiếc
xe buýt giẫy nẩy hung hiểm trên con đường Iran
không bằng phẳng. Vài ngày tiếp theo, chúng tôi ở
lại Tabriz, dưỡng thương vì mắc bệnh kiết lỵ khá
nặng và gãy xương sườn khi xe buýt ngả nghiêng
văng tôi vào ghế phía trước. Tôi vẫn chưa biết gì về
cuộc thảm họa vì không liên lạc với Farsi. Cho đến
khi về đến Istanbul, mới biết rõ chuyện xảy ra, Tôi
gửi tấm bưu thiếp về nhà. 10 ngày qua bố mẹ đã lo
lắng. Lần cuối cùng họ biết tin tôi rời khỏi Tehran vào
ngày vùng này bị động đất. Bất chấp thảm họa, tôi
có nhiều kỷ niệm đẹp trong thời gian ở Iran. Sự tò
mò thôi thúc tìm hiểu thế giới có thể khiến cho người
ta gặp nguy hiểm, Điều này đúng với tôi trong lần du
lịch duy nhất trong đời.
26
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi đúng 20 tuổi vào tháng 10 năm 1962, khi đến đại
học Cambridge, vào khoa toán ứng dụng và lý thuyết
vật lý, tôi xin làm việc với giáo sư Fred Hoyle, nhà
thiên văn học người Anh nổi tiếng nhất trong giai
đoạn đó. Tôi dùng chữ thiên văn học vì lúc đó vũ trụ
học chưa được công nhận là một lãnh vực hợp lý.
Tuy nhiên, ông Hoyle đã có đủ số lượng sinh viên,
tôi vô cùng thất vọng và được ghi tên theo giáo sư
Dennis Sciama, một người không nổi tiếng. Nhưng
có lẽ tốt hơn khi tôi không phải là sinh viên theo ông
Hoyle vì sẽ bị lôi cuốn vào việc bảo vệ lý thuyết trạng
thái ổn định của ông, một việc còn khó hơn đàm
phán Brexit. Tôi bắt đầu đọc các sách giáo khoa cũ
về thuyết tương đối rộng và như trước đây, bị lôi
cuốn bởi những câu hỏi lớn.
Một số bạn đọc có thể đã xem qua cuốn phim mà
Eddie Redmayne đóng vai tuồng đời tôi, rất hay.
Cũng như trong phim, năm thứ ba tại đại học Oxford,
tôi phát giác hình như mình trở nên vụng về. Bị ngã
vài lần không có lý do. Rồi nhận thấy mình không
thể chèo thuyền, Rõ ràng, có điều gì bất ổn. Tôi cảm
thấy bất bình khi bác sĩ khuyên tôi phải bỏ uống bia.
Tôi đến đại học Cambridge, mùa đông vô cùng lạnh.
Trong thời gian nghỉ lễ Giáng Sinh, tôi về nhà, mặc
dù, biết tôi không thích, mẹ vẫn thuyết phục đi trợt
tuyết ở hồ St. Albans. Tôi bị ngã và rất khó khăn khi
gượng đứng lên, Mẹ nhận ra có điều gì bất thường,
đưa tôi đi khám bác sĩ.
27
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Trải qua nhiều tuần trong bệnh viện St Bartholomew
tại London, làm nhiều khám nghiệm. Vào năm 1962,
các loại xét nghiệm có phần sơ khai hơn bây giờ.
Một mẫu bắp thịt lấy từ tay. Các dây nhợ điện tử gắn
vào người. Các chất lỏng vô tuyến tiêm vào cột
xương sống. Các bác sĩ quan sát sự lên xuống của
quang tuyến X khi giường nằm nghiêng qua nghiêng
lại. Họ chưa bao giờ cho biết bệnh tình ra sao,
nhưng tôi đoán chừng chắc phải nặng nề, thành thử
không muốn hỏi. Tuy nhiên, qua những đối thoại
giữa các bác sĩ, tôi thu lượm một số thông tin: bất
kể là bệnh gì, sẽ trở nên trầm trọng. Không có cách
cứu chữa. Chỉ có thể cho tôi uống thêm vitamin.
Thực tế. ông bác sĩ thực hiện những xét nghiệm cho
tôi đã phủi tay ra đi, không bao giờ thấy lại.
Đến một hôm nào đó, tôi biết được, bệnh của mình
là chứng xơ cứng teo cơ một bên (ALS: Amyotrophic
lateral sclerosis), một loại bệnh thần kinh sinh động,
các tế bào thần kinh của não và tủy sống bị teo lại,
sau đó, trở thành sẹo hoặc bị đông cứng. Những ai
mắc bệnh này, dần dần sẽ mất khả năng kiểm soát
cử động, ăn nói, và cuối cùng là hô hấp.
Bệnh của tôi dường như phát triển nhanh chóng. Có
thể hiểu được sự chán nản cao độ và tâm lý không
tìm thấy lý do để tiếp tục chương trình nghiên cứu
tiến sĩ vì không biết còn sống được bao lâu để hoàn
tất việc này. Nhưng sau đó, bệnh tình bắt đầu thuyên
giảm, tôi cảm thấy nhiệt tình hơn trong việc nghiên
cứu. Trước đây, khi không còn một hy vọng nào, mỗi
28
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
ngày thức dậy là một ngày mới, là một tặng phẩm,
dạy cho tôi biết đánh giá cao những gì tôi đã có. Khi
nào còn sống, vẫn còn hy vọng.
Dĩ nhiên, cũng có một phụ nữ trẻ, nàng tên Jane,
người mà tôi gặp trong một buổi tiệc. Nàng quyết
tâm sẽ cùng tôi chống cự cơn bệnh. Lòng tự tin đó
làm hy vọng gia tăng. Việc đính hôn khiến tinh thần
tôi phấn chấn. Biết rằng, sau khi kết hôn, tôi phải
kiếm việc làm để có thể hoàn tất chương trình tiến
sĩ. Như thường lệ, vì những câu hỏi lớn thôi thúc, tôi
bắt đầu làm việc chăm chỉ và thích thú.
Để trợ cấp bản thân trong lúc còn học tập, tôi nạp
đơn xin học bổng nghiên cứu tại Gonville và đại học
Caius. Thật quá sức ngạc nhiên, tôi được nhận và
kể từ đó, đã trở nên thành viên nghiên cứu tại Caius.
Học bổng nghiên cứu là một bước ngoặc trong đời.
Nghĩa là, tôi có thể tiếp tục nghiên cứu bất kể tình
trạng khuyết tật càng ngày càng gia tăng. Ngoài ra,
tôi và Jane còn có thể kết hôn. Chuyện này xảy ra
vào tháng Bảy năm 1965. Hai năm sau, đứa con đầu
lòng, Robert, ra đời. Còn Lucy, đứa thứ hai sinh ra
khoảng ba năm sau. Đứa con sau cùng, Timothy,
sinh năm 1979.
Với tư cách người cha, tôi luôn luôn truyền dẫn cho
con tầm quan trọng của đặt câu hỏi. Con trai tôi, Tim,
đã từng kể lại một câu chuyện trong lần phỏng vấn
về việc đặt câu hỏi, tôi nghĩ, lúc đó con tôi đã lo âu
một cách ngớ ngẩn. Tim muốn biết, nếu có nhiều vũ
trụ nhỏ rải rác chung quanh hay không? Tôi nói với
29
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
con, đừng bao giờ ngại ngùng khi đưa ra một ý
tưởng hoặc một giả thuyết mặc dù có vẻ rất khó
hiểu. (Lời nói này không phải của tôi.)
Trong khoảng đầu thập niên 1960, câu hỏi lớn về
trời đất là “Liệu vũ trụ có một khởi đầu hay không?”
Rất nhiều khoa học gia lập tức phản đối ý tưởng này
vì họ cảm thấy quan điểm về tạo hóa sẽ đưa khoa
học đến đường cùng. Phải đương đầu với tôn giáo
và bàn tay Thượng Đế để xác định vũ trụ đã khởi
đầu như thế nào. Đây là một câu hỏi căn bản minh
bạch mà tôi cần tìm hiểu để hoàn tất luận án tiến sĩ.
Nhà toán học vật lý giải Nobel, Roger Penrose đã
cho biết, khi một ngôi sao hấp hối, nó sẽ thu rút lại
thành một vòng tròn nhất định, một khối có mật độ
dày đặc vĩnh viễn, đó là nơi không gian và thời gian
sẽ chấm dứt. Tôi nghĩ, chúng ta đã biết, không có gì
có thể ngăn cản một ngôi sao to lớn lạnh dần rồi sụp
đổ vì chính hấp lực của nó, cho đến khi trở thành
một khối đặc vô hạn. Tôi nhận ra một lý lẽ tương tựa
có thể áp dụng vào sự nẩy nở của vũ trụ. Trong
trường hợp này, tôi có thể chứng minh những sự
kiện phi thường nơi “không gian-thời gian” bắt đầu.
Thời điểm phát hiện xảy ra trong năm 1970, một vài
ngày sau khi con gái tôi, Lucy, ra đời. Tình trạng
bệnh khuyết tật của tôi đang diễn ra chậm chạp.
Trong khi chuẩn bị đi ngủ, tôi chợt phát giác, có thể
dùng lý thuyết cấu trúc tự nhiên mà tôi đã khám phá
về những định lý tình trạng đông đặc của ngôi sao
chết vào các lỗ đen. Nếu lý thuyết tương đối tổng
30
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
quát đúng đắn và mật độ năng lượng là dương, thì
diện tích bề mặt, ranh giới chân trời của lỗ đen sẽ
có đặc tính luôn luôn gia tăng khi hút thêm vật chất
hoặc bức xạ vào trung tâm. Hơn nữa, nếu hai lỗ đen
(hoặc nhiều hơn) va chạm và kết hợp, tạo thành một
lỗ đen lớn, thì chu vi hấp lực lớn hơn các lỗ đen lúc
còn riêng rẽ.
Đây là thời kỳ hoàng kim, chúng tôi đã giải quyết hầu
hết các vấn đề lớn trong lý thuyết lỗ đen, ngay cả
trước khi tìm được bằng chứng quan sát thực tế về
lý thuyết này. Lúc đó, chúng tôi rất thành công với lý
thuyết tương đối cổ điển đến nổi tôi đã mất kiểm soát
sau khi phát hành cuốn sách “Cấu Trúc Quy Mô Của
Không Gian-Thời gian,” cùng với George Ellis. (The
Large Scale Structure of Space–Time.) Nghiên cứu
của tôi và Penrose tìm thấy thuyết tương đối rộng bị
sai lệch trong tình trạng đông đặc, Như vậy, bước
tiếp theo là kết hợp thuyết tương đối rộng, một lý
thuyết về cái rất lớn, với lý thuyết lượng tử, một lý
thuyết về cái rất nhỏ. Đặc biệt, tôi tự hỏi, liệu có
nguyên tử nào có hạt nhân là lỗ đen nguyên thủy,
được thành hình lúc vũ trụ còn sơ khai? Các điều tra
nghiên cứu đã biểu lộ mối liên hệ sâu sắc, chính xác
trước đây giữa hấp lực và nhiệt động lực, (khoa học
về nhiệt.) Cùng lúc, giải quyết một nghịch lý đã tranh
cãi suốt 30 năm mà không đi đến đâu: Đó là “làm thế
nào bức xạ còn sót lại từ một lỗ đen đang co rút có
thể mang tất cả các thông tin về cái gì đã tạo ra lỗ
đen?” Tôi phát hiện, tuy toàn bộ thông tin đó không
31
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
biến mất nhưng không còn hữu dụng, ví như đốt
cuốn sách bách khoa toàn thư rồi chỉ còn khói và tro.
Để trả lời điều này, tôi đã nghiên cứu các trường
lượng tử hoặc các hạt nhân bị phát tán từ lỗ đen. Hy
vọng , một phần của sóng đi tới sẽ được tiếp thu,
phần còn lại sẽ bị phát tán. Nhưng thật hết sức bất
ngờ, tôi thấy, dường như có sự phát xạ từ chính lỗ
đen. Lúc đầu, tôi nghĩ mình đã tính toán sai lầm.
Nhưng sau đó đã thuyết phục tôi là sự thật vì sự phát
xạ chính xác là việc cần thiết để xác định khu vực
ranh giới chân trời với “entropy” của lỗ đen. Entropy,
một phương tiện đo sự rối loạn của một hệ thống.
được tóm lược vào công thức đơn giản.
Entropy biểu thị theo diện tích trong ranh giới chân
trời, và ba hằng số cơ bản tự nhiên: c, tốc độ ánh
sáng; G, hằng số hấp lực của Newrton; h, hằng số
Planck. Sự phát bức xạ từ lỗ đen được gọi là bức xạ
Hawking và tôi tự hào đã phát hiện ra nó.
Năm 1974, tôi được chọn làm hội viên trong Hiệp hội
Hoàng gia (Royal Society.) Cuộc bầu chọn này gây
bất ngờ cho các thành viên trong ngành của tôi vì tôi
còn trẻ và chỉ là một phụ tá nghiên cứu tầm thường.
Ba năm sau, được thăng chức giáo sư. Công trình
nghiên cứu về lỗ đen cho tôi hy vọng sẽ khám phá
32
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
ra một lý thuyết cho mọi thứ. Háo hức truy lùng câu
trả lời đã thúc đẩy tôi tiếp tục.
Cùng trong năm, Kip Thorne, bạn tôi, đã mời cả gia
đình và những người cùng nghiên cứu về thuyết
tương rộng đến Viện Kỹ Thuật (Caltech) ở
California. Bốn năm trước đó, tôi đã sử dụng xe lăn
điều khiển bằng tay và xe điện ba bánh, với tốc độ
xoay chuyển chậm. Đôi khi tôi chở thêm khách ngồi
dù bất hợp lệ. Khi đến California, chúng tôi ở trong
một ngôi nhà kiểu thuộc địa do Caltech sở hữu, gần
khu đại học. Nơi này, lần đầu tiên tôi được thoải mái
sử dụng xe lăn điều khiển bằng điện tử. Điều này
cho tôi một mức độ độc lập đáng kể. Đặc biệt ở Hoa
Kỳ, các tòa nhà và vỉa hè đều có chỗ, có đường dành
riêng cho người tàn tật di chuyển dễ dàng hơn ở Anh
quốc.
Năm 1978, từ Caltech trở về, tôi cảm thấy xuống tinh
thần. Mọi thứ ở Anh quốc dường như quá nghiêm
khắc và hạn chế so với thái độ sinh hoạt lạc quan ở
Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, phong cảnh tàn tạ vì cây
cối chết bởi bệnh vi trùng Du từ Hà Lan và các cuộc
đình công liên tiếp nổi lên khắp nơi. Tuy nhiên, tâm
tư tôi phấn chấn trở lại khi cảm thấy thành công
trong công việc nghiên cứu. Năm 1979, tôi được bầu
vào chức vụ Giáo sư Toán học Lucasia. Sir Isaac
Newton và Paul Dirac đã từng nắm giữ chức vị này.
Suốt thập niên 1970, tuy chủ yếu nghiên cứu về
thuyết lỗ đen, nhưng mối quan tâm về vũ trụ học đã
thay đổi, bởi những gợi ý rằng, vũ trụ lúc sơ khai đã
33
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
trải qua một thời kỳ nẩy nở vô cùng nhanh chóng.
Vận tốc về độ lớn của nó gia tăng theo từng ngày,
giống như giá cả gia tăng kể từ cuộc đầu phiếu
Brexit ở Vương quốc Anh. Tôi dùng nhiều thời giờ
làm việc chung với Jim Hartle, xây dựng lý thuyết về
sự ra đời của vũ trụ. Sự kiện này, chúng tôi gọi là
“vô biên cương.”
Khoảng đầu năm 1980, sức khỏe của tôi yếu dần.
Phải chịu đựng những cơn nghẹt thở kéo dài vì
thanh quản khô cứng và thức ăn thường lọt vào
phổi. Năm 1985, tôi bị viêm phổi trong một chuyến
đi đến CERN, Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân Âu
Châu, ở Thụy Sĩ. Đây là khoảnh khắc làm thay đổi
đời sống. Tôi nhập viện vào nhà thương Lucerne
Cantonal và gắn máy thở cấp cứu. Các bác sĩ đề
nghị với vợ tôi, đã đến giai đoạn họ không còn có
thể làm được gì, nên rút máy để đời tôi được kết
thúc. Nhưng vợ tôi dứt khoát không chịu và yêu cầu
đưa tôi về bệnh viện Addenbrook ở Cambridge bằng
máy bay cứu thương.
Bạn đọc có thể tưởng tượng biết bao nhiêu khó khăn
trong khoảng thời gian này. Nhưng may mắn thay,
các bác sĩ tại Addenbrook đã nỗ lực cứu tôi trở lại,
khỏe như trước khi đi qua Thụy Sĩ. Tuy nhiên, vì
thanh quản vẫn không giữ được thực phẩm và nước
miếng, để lọt vào phổi, họ tiến hành giải phẫu mở
rộng khí quản. Như hầu hết bạn đọc đã biết, khi giải
phẫu khí quản, nghĩa là mất đi tiếng nói. Giọng nói
của một người rất quan trọng, Nếu nói lảm nhảm
34
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
như tôi lúc đó, mọi người sẽ nghĩ tôi không kiểm soát
được tinh thần và họ sẽ đối xử theo cách nghĩ đó.
Trước khi giải phẫu khí quản, lời nói của tôi không
được rõ ràng, đến nổi chỉ có những người thân thiết
như con tôi mới hiểu được. Sau khi giải phẫu, cách
duy nhất mà tôi có thể giao tiếp là đánh vần từng
chữ, từng từ ngữ, bằng cách nhướng lông mày
“đồng ý” khi người ta chỉ đúng chữ trên bảng chữ
cái mà tôi muốn nói.
Thật may mắn, một chuyên gia vi tính ở California,
Walt Woltosz, nghe được nỗi khốn đốn của tôi. Ông
đã gửi đến một vi trình do ông xây dựng, gọi là
Equalizer. Giúp tôi có thể chọn nguyên từng từ vựng
bằng cách nhấn nút theo những dãy từ ngữ liên hệ
trên màn ảnh vi tính gắn vào xe lăn. Từ đó, hệ thống
này được phát triển. Bây giờ, tôi sử dụng một
chương trình có tên Acat, do Intel làm ra, cho phép
điều khiển bằng cách chuyển động cơ bắp trên má
nối liền với thiết bị nhạy cảm gắn trên kính đeo mắt.
Nó có điện thoại di động. Có thể truy cập mạng lưới.
Có thể khẳng định, tôi là người nối kết internet nhiều
nhất trên thế giới. Tuy vậy, tôi vẫn giữ bộ vi trình
giọng nói lúc ban đầu, một phần vì chưa gặp một
giọng nói nào tốt hơn, một phần vì giọng nói đã trở
thành căn cước của tôi, mặc dù nó phát âm theo lối
Mỹ.
Năm 1982, trong khoảng thời gian nghiên cứu về “vô
biên cương,” tôi có ý tưởng viết một cuốn sách phổ
thông về vũ trụ. Nghĩ rằng, có thể kiếm thêm ít tiền
35
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
để hỗ trợ cho con đi học và trang trải chi phí ý tế
càng ngày càng gia tăng, nhưng lý do chính yếu là
muốn giải thích sự hiểu biết của con người tiến triển
đến mức nào về vũ trụ. Làm thế nào chúng ta đã đến
gần một thời điểm có thể tìm ra một lý thuyết hoàn
chỉnh, có khả năng mô tả vũ trụ và tất cả những gì
nó cưu mang. Điều quan trọng không chỉ đặt câu hỏi
và tìm ra câu trả lời, với tư cách của nhà khoa học,
tôi cảm thấy có bổn phận truyền thông đến thế giới
những gì mà chúng tôi đã học hỏi được.
Nói chung, tác phẩm A Brief History of Time (Lịch sử
tóm lược về thời gian) phát hành lần đầu tiên ngày
April Fool (Tháng tư phỉnh phờ) năm 1988. Thật ra,
cuốn sách này lúc ban đầu có tựa đề: From the Big
Bang to Black Holes: A Short History of Time, (Từ
cuộc nổ lớn đến lỗ đen: lịch sử ngắn về thời gian.)
Tựa đề này được rút gọn và thay đổi chữ “brief”.
Tôi không bao giờ mong đợi A Brief History of Time
thành công trong một thời gian ngắn. Không còn
nghi ngờ gì, câu truyện mà người ta thích thú là bằng
cách nào tôi đã xoay sở để trở thành nhà lý thuyết
vật lý và là tác giả của một tác phẩm phổ biến mặc
dù bị khuyết tật. Không phải ai cũng đọc hết hoặc
hiểu hết những gì họ đọc. Nhưng tối thiểu họ phải
vật lộn với một trong số những câu hỏi lớn về sự tồn
tại của nhân loại. Tiếp cận ý tưởng chúng ta đang
sống trong một vũ trụ được điều khiển bởi các định
luật hợp lý do khoa học khám phá và giải thích.
36
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Đối với đồng nghiệp, tôi chỉ là một trong các nhà vật
lý, nhưng đối với công chúng bên ngoài, tôi trở thành
một khoa học gia nổi tiếng nhất thế giới. Điều này
một phần do các nhà khoa học, ngoại trừ Einstein,
không phải là ngôi sao nhạc rock để được đón nhận
rộng rãi, một phần vì hoàn cảnh của tôi phù hợp vào
khuôn mẫu thiên tài khuyết tật. Tôi không thể ngụy
trang bằng đeo tóc giả, mang kính đen, (như minh
tinh) vì chiếc xe lăn sẽ làm lộ tẩy. Được nhiều người
biết đến và dễ dàng nhận ra đều có những điểm
cộng và điểm trừ. Nhưng điểm trừ nhiều hơn. Mọi
người có vẻ thực sự hài lòng khi gặp tôi. Thậm chí,
có một lượng khán giả lớn nhất từ trước đến nay,
khi tôi khai mạc Thế vận hội Paralympic ở London
năm 2012.
Tôi đã có một đời sống khác thường trên hành tinh
này, đồng thời, du hành khắp vũ trụ bằng cách sử
dụng trí óc và các quy luật vật lý. Đã từng đến những
vùng xa nhất của thiên hà, phiêu lưu vào lỗ đen và
quay trở lại thời điểm khi thời gian bắt đầu.
Trên trần gian, tôi trải qua thăng trầm, sóng gió, bình
an, thành công và đau khổ. Giàu và nghèo với một
thể xác tàn tật. Được ca tụng, bị chỉ trích, nhưng
chưa bao giờ bị lãng quên. Qua công trình nghiên
cứu, tôi đã được đặc ân lớn khi có thể đóng góp vào
kiến thức về vũ trụ. Nhưng, đúng như thế, vũ trụ chỉ
là một nơi trống rỗng, nếu không có những người
37
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
yêu tôi và những người tôi yêu. Không có họ, tôi sẽ
mất tất cả những gì kỳ diệu.
Rốt ráo, thực tế con người chỉ là một tập hợp của
các hạt nhân có bản sắc theo luật tự nhiên. Hiểu biết
những định luật chi phối con người và điều khiển vũ
trụ là những thắng lợi lớn. Tôi muốn chia sẻ sự phấn
khởi của mình về những câu hỏi lớn và nhiệt huyết
của tôi trong hành trình truy lùng này.
Ngày nào đó, hy vọng chúng ta sẽ có thể trả lời rõ
ràng hết các câu hỏi lớn. Tuy vậy, vẫn còn nhiều thử
thách, những câu hỏi lớn khác trên hành tinh cần
được trả lời. Vì thế, cần những những thế hệ sau,
những ai quan tâm, nhập cuộc, và hiểu biết sâu rộng
về khoa học. Làm thế nào chúng ta có thể nuôi sống
dân số toàn cầu càng ngày càng gia tăng? Làm sao
cung cấp đủ nước uống? Tạo và tái tạo năng lượng?
Ngăn ngừa và chữa bệnh? Làm giảm sự biến đổi khí
hậu? Tôi hy vọng khoa học và kỹ thuật sẽ cung cấp
câu trả lời cho những câu hỏi trên. Nhưng sẽ cần
người, những con người trí tuệ và kiến thức, để thực
hiện các đáp án này. Chúng ta hãy tranh đấu cho
từng phụ nữ, từng đàn ông được sống khỏe mạnh,
an toàn, tràn đầy cơ hội, và tình thương. Tất cả
chúng ta đều là nhà du hành trong thời gian, cùng
nhau phiêu lưu vào tương lai. Chúng ta hãy cùng
nhau đóng góp để biến tương lai thành một nơi xứng
đáng cho chúng ta đến thăm viếng.
38
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Hãy can đảm, hãy tò mò, hãy quyết tâm, hãy vượt
qua những trở ngại. Bất kỳ là khó khăn gì, đều có
thể thực hiện.
39
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Có Thượng Đế Hay Không?
Khoa học càng ngày càng gia tăng việc trả lời những
câu hỏi nằm trong phạm vi tôn giáo. Khởi đầu, tôn
giáo đã nỗ lực giải đáp những thắc mắc cho nhân
loại: Tại sao chúng ta có mặt ở đây? Con người từ
đâu đến? Từ xa xưa đến nay, câu trả lời hầu như
giống nhau: Thần thánh đã tạo ra vạn vật. Trần gian
là một nơi đáng sợ, vì vậy, ngay cả những người
can đảm cứng rắn như dân Vikings cũng tin vào
quyền lực của siêu nhiên để giải thích những hiện
tượng thiên nhiên như sấm sét, bão tố, nhật thực.
Ngày nay, khoa học đưa ra những câu trả lời chính
chắn hơn, nhất quán hơn, nhưng người ta vẫn phải
bám vào tôn giáo vì nó mang lại sự bình yên. Họ
không tin hoặc không hiểu rõ khoa học.
Vài năm trước đây, tạp chí Time đăng một tựa đề
lớn trên trang bìa: “Hawking: Chúa không tạo ra vũ
trụ,” Bài báo được minh họa, vẽ hình Chúa thể hiện
như bức tranh nổi tiếng của Michelangelo, trông
giống như sấm sét. Họ in hình của tôi, nhìn rất tự
mãn. Lảm như chúng tôi đang đấu tay đôi. Thật sự,
40
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tôi không có ác cảm với Chúa. Cũng không muốn
gây ấn tượng việc nghiên cứu của tôi, dùng để
chứng minh, bác bỏ sự hiện hữu của Thượng Đế.
Công việc của tôi là tìm kiếm một cấu trúc hợp lý để
giải thích vũ trụ chung quanh con người.
Nhiều thế kỷ qua, người ta tin rằng những người tàn
tật như tôi đang sống dưới lời nguyền do Thượng
Đế trừng phạt. Thế thì, tôi có thể làm cho ai đó phiền
hà, nhưng tôi thích giải nghĩa mọi thứ theo một cách
khác, theo những định luật tự nhiên. Nếu bạn đọc tin
tưởng vào khoa học như tôi, sẽ chứng nghiệm, có
một số quy luật luôn luôn hiện diện và được tuân
thủ. (Ví dụ như nước bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh
thành mưa, mưa xuống đất ra sông hồ ao biển rồi bốc hơi
…) Nếu muốn, có thể lý luận rằng những quy luật là
sản phẩm của Thượng Đế, nhưng quan điểm này
nghiêng về định nghĩa quyền năng của Chúa hơn là
bằng chứng về sự tồn tại của Ngài. Khoảng năm 300
trước Công nguyên, Một triết gia tên Aristarchus bị
mê hoặc bởi hiện tượng nhật thực, đặc biệt là
nguyệt thực. Ông đã đủ can đảm để đặt câu hỏi,
những sự kiện này có phải do thần thánh tạo ra?
Ông trở thành một nhà khoa học tiền phong.
Aristarchus nghiên cứu kỹ về bầu trời và đi đến một
kết luận táo bạo: Nhật thực là bóng của trái đất đi
qua mặt trăng, không phải là việc làm của quyền lực
siêu nhiên. Được giải thoát nhờ khám phá này, ông
có thể tìm ra những gì thực sự xảy ra trên đầu ông,
và vẽ các biểu đồ cho thấy mối liên hệ thực tế giữa
mặt trời, trái đất và mặt trăng. Từ đó, ông đã đưa
41
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đến những kết luận xuất sắc. Cho rằng, trái đất
không phải là trung tâm vũ trụ như mọi người đã
nghĩ, thay vào đó, nó xoay chung quanh mặt trời.
Hiểu được sự sắp xếp này, sẽ giải thích tất cả các
hiện tượng nhật thực nguyệt thực. Khi mặt trăng phủ
bóng xuống trái đất, đó là nhật thực. Khi trái đất che
khuất mặt trăng, đó là nguyệt thực. Rồi Aristarchus
còn tiến xa hơn. Cho rằng, các ngôi sao không phải
chỉ là tinh tú trên nền trời, như các người cùng thời
đã tin tưởng. Các ngôi sao là những mặt trời khác,
giống như mặt trời của chúng ta, nhưng ở rất xa.
Thật là một nhận thức đáng kinh ngạc. Vũ trụ là một
bộ máy được điều hành bởi những nguyên tắc và
quy luật. Những luật mà tâm trí con người có thể
hiểu được.
Tôi tin rằng sự phát hiện những quy luật này là
những thành tựu vĩ đại của loài người, vì chính
những định luật tự nhiên - như hiện nay, chúng ta
đang gọi tên – đã tự nói lên, liệu chúng ta có cần
những vị thần thánh để giải thích về vũ trụ hay
không? Những định luật tự nhiên mô tả đường lối
sinh hoạt thật sự của mọi thứ trong quá khứ, hiện
tại, và tương lai. Đối với các tay quần vợt chuyên
nghiệp, trái banh luôn luôn được đánh đi chính xác
vào những nơi họ đã tính trước. Hành động này gói
ghém một số quy luật. Chúng chi phối mọi thứ đang
diễn ra, từ năng lượng điều khiển cú đánh bởi cơ
bắp của cầu thủ cho đến tốc độ trên sân cỏ mọc dưới
chân. Nhưng điều quan trọng thực sự là các quy luật
vật lý mang tính phổ biến và bất biến. Chúng không
42
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
chỉ áp dụng cho đường banh quần vợt, mà cho cả
sự chuyển động của trái đất và mọi tinh tú trong vũ
trụ. Không giống như luật pháp của con người, luật
tự nhiên không thể bị phá vỡ, đó là lý do tại sao
chúng có uy lực chứng minh khi nhìn từ quan điểm
của tôn giáo dù phải tranh luận.
Nếu bạn đọc có thể chấp nhận như tôi, những định
luật tự nhiên là cố định, sẽ không mất nhiều thời giờ
để dẫn đến câu hỏi: Vai trò của Chúa làm gì ở đây?
Sự mâu thuẫn lớn lao giữa khoa học và tôn giáo
nằm ở chỗ này, mặc dù quan điểm của tôi trở thành
tựa đề lớn, gây xôn xao trong dư luận, thật ra, sự
mâu thuẫn đã có từ ngàn xưa.
Người ta có thể định nghĩa Thượng Đế là hóa thân
của các định luật tự nhiên. Tuy thế, hầu hết mọi
người không nghĩ Thượng Đế như vậy. Họ quan
niệm, siêu nhiên cũng giống như con người, phải có
những mối liên hệ cá nhân. (Tôn giáo là hệ thống liên
hệ cá nhân với siêu hình.) Khi nhìn lên vũ trụ vô tận,
và sự sống tình cờ, vô nghĩa của con người trong
bao la đó, dường như là chuyện đáng nghi ngờ nhất.
Tôi dùng từ ngữ “God” (Chúa, Thượng Đế) theo
nghĩa “không nhân tính”, như Einstein đã sử dụng,
cho các định luật tự nhiên. Như vậy, hiểu được tâm
trí Thượng Đế là hiểu biết các định luật tự nhiên. Tôi
dự đoán, con người sẽ biết tâm trí của Thượng Đế
vào cuối thế kỷ này.
43
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Một lãnh vực còn lại mà tôn giáo dùng để khẳng định
Thượng Đế là nguồn gốc tạo ra vũ trụ, (Đó là vũ trụ
ra đời nhu thế nào,) nhưng khoa học cũng đang tiến
đến và sẽ sớm đưa ra câu trả lời dứt khoát về sự
khai sinh ra vũ trụ. Tôi ấn hành một cuốn sách đặt
nghi vấn, liệu Chúa có tạo ra vũ trụ hay không? Đã
gây ra nhiều chấn động. Một độc giả bực bội đã nói
rằng, một nhà khoa học không nên có ý kiến gì về
tôn giáo. Tôi không có ý định thuyết phục ai phải tin
điều gì. Đối với tôi, đặt câu hỏi về Chúa có hiện hữu
hay không, là câu hỏi thuần về khoa học. Sau cùng,
khó mà mà nghĩ một điều gì bí ẩn, căn bản, quan
trọng hơn là “Ai đã tạo ra và điều khiển vũ trụ.”
Tôi nghĩ vũ trụ được tạo ra một cách tự nhiên từ hư
không, theo quy luật khoa học. (Quan điểm này giống
căn bản của thuyết khai sinh trời đất của Trung Hoa: Hư
vô sinh thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi
sinh tứ tượng ….) Giả định căn bản của khoa học là
thuyết tất định khoa học (Determinism). Nghĩa là,
các quy luật khoa học xác định sự tiến hóa của vũ
trụ, dựa trên trạng thái của nó trong một thời điểm.
(Trạng thái ở đây có thể hiểu là hoàn cảnh, bao gồm
những gì xảy ra, trong một thời thời gian nhất định được
xác định.) Những quy luật này có thể hoặc không
được Chúa ban hành, nhưng Chúa không thể can
thiệp để thay đổi hoặc hủy bỏ những quy luật tự
nhiên, nếu không, chúng không phải là quy luật.
Điều này giải thích, Chúa chỉ có quyền tự do lựa
chọn trạng thái, hình thức khai sinh của vũ trụ. Sau
đó, vũ trụ sẽ do các quy luật tự nhiên điều hành.
44
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Ngay cả khái niệm khai sinh này dường như cũng
có những quy luật. Nếu vậy, Chúa không có tự do
làm gì cả.
Bất chấp sự phức tạp và đa dạng của vũ trụ, hóa ra
để tạo nên một vũ trụ, chỉ cần ba nguyên liệu. Hãy
tưởng tượng rằng chung ta có thể liệt kê chúng trong
cuốn sách dạy gia chánh, nấu món vũ trụ. Như vậy
ba nguyên liệu dùng để nấu là gì?
•
•
•
Vật chất: Bất kỳ thứ gì có khối lượng. Vật
chất ở chung quanh chúng ta, trong lòng đất
dưới chân và ngoài không gian. Bụi, đá,
băng, chất lỏng… Những đám mây mênh
mông, những ngân hà xoắn ốc khổng lồ đầy
tinh tú, mỗi ngân hà chứa hàng tỷ mặt trời,
trải dài những khoảng cách đáng kinh ngạc.
Những thứ đó đều thuộc về vật chất.
Năng lượng: Cho dù một ai chưa bao giờ
nghĩ về năng lượng, nhưng tất cả chúng ta
đều biết nó. Một thứ chúng ta nhìn thấy, gặp
gỡ hàng ngày. Nhìn lên mặt trời, sẽ cảm thấy
chất ấm hoặc nóng chạm vào mặt: Đó là
năng lượng đó được tạo ra bởi một hành tinh
cách chúng ta 93 triệu dặm (mặt trời). Năng
lượng tràn ngập khắp nơi trong vũ trụ, tự
thúc đẩy trong tiến trình giữ bản chất năng
động, không ngừng thay đổi vị trí.
Có vật chất, có năng lượng, nguyên liệu thứ
ba là Không gian: Khoảng trống bao la.
Chúng ta có thể mô tả vũ trụ bằng cụm chữ:
tuyệt vời, đẹp đễ, bạo lực… nhưng có một
cụm từ không thể dùng cho nó, đó là chật
hẹp. Bất cứ lúc nào, nhìn lên vũ trụ đều thấy
nhiều khoảng trống và rất nhiều không gian,
45
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
trải dài ra mọi hướng. Sự rộng lớn làm cho
đầu óc chúng ta xây xẩm.
Như vậy, vật chất, năng lượng và không gian, từ đâu
mà có? Nhân loại không có câu trả lời cho đến thế
kỷ 20.
Câu trả lời đến từ sự hiểu biết của một người đàn
ông, có lẽ là nhà khoa học lừng lẫy nhất trong cõi
sống, tên: Albert Einstein. Đáng buồn vì tôi chưa bao
giờ được gặp ông. Einstein đã nhận ra một điều khá
lạ lùng: Hai trong ba thành phần chủ yếu tạo ra vũ
trụ, đó là vật chất và năng lượng có cơ bản là một
thứ giống nhau, hai mặt của cùng một đồng tiền.
Phương trình nổi tiếng của ông E=mc2, đơn giản có
nghĩa: Khối lượng (vật chất) có thể xem như một
dạng năng lượng và ngược lại. Như vậy, thay vì phải
có ba thành phần, chúng ta có thể xác nhận xây
dựng vũ trụ chỉ còn hai: năng lượng và không gian.
Câu hỏi tiếp theo: Năng lượng và không gian đến từ
đâu? Sau nhiều thập niên nghiên cứu, các nhà khoa
học đã tìm ra câu trả lời: Không gian và năng lượng
được phát sinh một cách ngẫu nhiên và tự nhiên
trong một sự kiện mà ngày nay chúng ta gọi là “Vụ
nổ lớn” (Big Bang. Được giải thích chi tiết trong tác phẩm
The Large Scale Structure of Space-Time, 1973, Hoặc
giải thích sơ lược dễ hiểu hơn trong A Brief History of
Time. 1988. Stephen Hawking.)
Vào lúc xảy ra vụ nổ lớn, cả một vũ trụ đã khai sinh,
cùng với không gian. Tất cả đều phồng lên. (nở ra)
như quả bong bóng bay được thổi lên. Như vậy, tất
46
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
cả năng lượng và không gian giải thích như thế nào?
Làm sao cả vũ trụ có thể tràn đầy năng lượng? Sự
rộng lớn kỳ diệu của không gian và tất cả những gì
chứa đựng trong đó, không lẽ, chỉ đơn giản xuất hiện
từ hư không?
Đối với một số người, đây là lúc Chúa trở lại với
quyền phép. Chính là Chúa đã sáng tạo năng lượng
và không gian. Vụ nổ lớn, Big Bang, là thời điểm
Chúa dựng nên trời đất. Nhưng khoa học giải thích
một cách khác. Đứng trước những rắc rối mà tôi tự
rước vào thân, tôi nghĩ, nhờ nói ra như vậy, người
ta có thể hiểu thêm nhiều điều về những hiện tượng
đã gây khủng khiếp cho dân Viking. Thậm chí, chúng
ta có thể vượt qua cặp “hai mặt một đồng tiền” kỳ lạ:
Đó là Vật chất và Năng lượng do Einstein đã khám
phá. Có thể sử dụng các quy luật tự nhiên để giải
quyết nguồn gốc của vũ trụ và tìm hiểu, nếu sự hiện
hữu của Chúa là cách duy nhất để giải thích vấn đề
này.
Khi tôi lớn lên, sau thế chiến thứ Hai, Anh quốc sống
trong tình trạng khắc khổ. Người ta nói với chúng tôi,
không bao giờ nhận một cái gì đó mà hoàn toàn
không trả lại một thứ gì khác. (Không có gì hoàn toàn
không tốn kém) Nhưng bây giờ, sau một đời làm việc,
tôi nghĩ chúng ta đã thật sự có một vũ trụ miễn phí.
Bí ẩn lớn nhất ở tâm điểm của Vụ nổ lớn là làm sao
để giải thích toàn bộ vũ trụ diệu kỳ mênh mông với
không gian và năng lượng có thể cụ thể hóa, vật
chất hóa tử chỗ không có gì. Bí mật này nằm trong
47
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
một thực tế kỳ lạ nhất về vũ trụ. Các định luật vật lý
đòi hỏi sự tồn tại của mọi thứ là “năng lượng âm”
(negative energy.)
Để giúp bạn đọc hiểu được khái niệm lạ lùng nhưng
quan yếu này, hãy cho tôi sử dụng một phép loại suy
đơn giản: Thử tưởng tượng có người muốn xây
ngọn đồi trên mảnh đất bằng phẳng. Ngọn đồi biểu
tượng cho vũ trụ. Để đắp đất lên ngọn đồi, anh phải
đào cái hố để lấy đất. Như vậy, anh ta vừa tạo ra
ngọn đồi, cùng lúc tạo ra hố sâu. Cái hố là phiên bản
âm của ngọn đồi, vì tất cả những gì lấy từ hố đưa
lên trở thành chất liệu xây cất đồi cao. Đó là sự cân
bằng hoàn hảo. Đây là nguyên tắc đằng sau những
gì xảy ra vào thời kỳ bắt đầu của vũ trụ. (Từ ẩn dụ tạo
ra ngọn đồi, chúng ta đi đến thời điểm khai sinh của vũ trụ.)
Khi Vụ nổ lớn tạo ra số năng lượng khổng lồ dương
tính, đồng thời nó tạo ra khối năng lượng âm tính
bằng khối dương tính. Theo sự kiện này, số dương
và số âm cộng lại sẽ bằng 0 (zero). Đó là một trong
các định luật tự nhiên. Như vậy, số năng lượng âm
đã đi đâu? Nó ở trong nguyên liệu thứ ba đã liệt kê
trong sách dạy nấu ăn: Không gian, năng lượng âm
nằm trong không gian. Điều này mới nghe có vẻ kỳ
quặc, nhưng theo quy luật tự nhiên liên quan đến
hấp lực (gravity) và chuyển động (motion) – hai định
luật thuộc hạng lâu đời nhất trong khoa học – thì
chính không gian là một nhà kho vô tận chứa khối
năng lượng âm khổng lồ. Đủ để bảo đảm khi tất cả
cộng lại sẽ bằng số 0 (số không.)
48
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi thừa nhận, trừ khi toán học là sở thích của chúng
ta, nếu không, sự thật là chúng ta khó nắm bắt
những giải thích. Lưới trời vô tận của hàng tỷ tỷ thiên
hà, mỗi thiên hà kéo thiên hà khác bởi hấp lực, sinh
hoạt như một thiết bị lưu trữ khổng lồ. Vũ trụ như
một cục pin vĩ đại tích trữ năng lượng âm. Về bên
dương giống như ngọn đồi, bao gồm khối lượng và
năng lượng mà chúng ta thấy ngày nay. Hố sâu
tương ứng với ngọn đồi, như vậy, bên âm của vạn
vật, tràn ngập khắp không gian.
Điều này có ý nghĩa gì trong việc tìm kiếm sự hiện
hữu của Thượng Đế? Có nghĩa: nếu vũ trụ cộng lại
là số không, (năng lượng dương cộng năng lượng âm bằng
zero,) không có gì, thì Chúa không cần tạo ra nó. Vũ
trụ ví như một bữa ăn miễn phí.
Nếu đã biết số dương cộng số âm bằng không có gì,
điều còn lại bây giờ, là tìm ra - hoặc tôi dám hỏi – ai
là kẻ tiên chinh đã kích hoạt để bắt đầu toàn bộ quá
trình này? Điều gì xuất hiện đã gây ra sự tự phát của
vũ trụ? Mới nghe qua, dường như khó hiểu. Xét cho
cùng, trong cuộc sống hàng ngày, mọi thứ không
phải chỉ trở thành hiện thực, cụ thể hóa từ không
không. Không thể chỉ búng ngón tay và gọi một
tiếng, tức thì ly cà phê chạy đến. Chúng ta phải tạo
ra từ hạt cà phê, pha nước sôi, trộn ít đường và sữa.
Nhưng nếu chúng ta đi sâu vào ly cà phê, xuyên qua
các hạt sữa, đến các nguyên tử. Chúng ta bước vào
một thế giới nơi có thể tạo ra một thứ gì từ không có
gì. Tối thiểu trong một thời gian ngắn. Bởi vì, ở mức
49
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
độ này, những hạt như proton hoạt động theo các
quy luật tự nhiên mà chúng ta gọi là cơ học lượng
tử (quantum mechanics). Chúng có thể xuất hiện
tình cờ, hiện diện một thời gian rồi biến mất, để xuất
hiện trở lại ở một nơi khác.
Chúng ta biết bản thân của vũ trụ trước kia đã từng
rất nhỏ, có thể nhỏ hơn hạt proton. Như vậy, nếu
bây giờ vũ trụ lớn mênh mông chắc phải có điều gì
kỳ lạ đã xảy ra. Nghĩa là, bản thân của vũ trụ sau khi
khai sinh, bao la và phức tạp một cách kỳ dị, có thể
chỉ đơn thuần đột nhiên nổ ra và tồn tại mà không vi
phạm các định luật tự nhiên. Từ thời điểm đó, một
khối năng lượng lớn đã được giải thoát khi không
gian tự mở rộng - một nơi lưu trữ tất cả các năng
lượng âm cần thiết để cân bằng với năng lượng
dương. Nhưng tất nhiên câu hỏi quan trọng được
đặt ra một lần nữa: Có phải Chúa đã tạo ra định luật
lượng tử cho phép Vụ nổ lớn thành hình? Tóm lại,
có cần Chúa sắp đặt luật lượng tử để kích hoạt vụ
nổ khai sinh vũ trụ? Tôi không có ý xúc phạm đến
đức tin của bất kỳ ai, nhưng tôi nghĩ, khoa học đưa
ra lời giải thích thực tế, thuyết phục hơn chuyện có
Chúa sáng tạo.
Kinh nghiệm hàng ngày cho thấy tất cả mọi chuyện
xảy ra đều phải liên quan đến điều gì xảy ra trước
đó. Bằng kinh nghiệm này, chúng ta dễ dàng nghĩ
rằng có một thứ gì đó, hoặc là Chúa, đã khiến vũ trụ
thành hình. Nhưng khi nói về toàn thể vũ trụ, ý nghĩ
đó không nhất thiết đúng. Cho phép tôi giải thích:
50
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Hãy tưởng tượng dòng sông, chảy xuống sườn núi.
Điều gì tạo ra dòng sông? Câu trả lời đúng sẽ là mặt
trời chiếu xuống đại dương, nước bốc hơi lên trời,
tạo thành mây, mây gặp lạnh thành mưa. Nước
xuống đất là nguồn sông. Nước xuống sông thành
dòng chảy. Như vậy, điều gì khiến mặt trời tỏa sáng
và nóng? Nếu nhìn vào bên trong nắng, sẽ thấy một
quá trình gọi là “nhiệt hạch,” trong đó các nguyên tử
hydro gặp nhau tạo thành Heli, giải tỏa một số năng
lượng lớn. Vậy, Hedro đến từ đâu? Câu trả lời: Từ
Vụ nổ lớn. Nhưng đây là một điểm nhỏ cần quan
tâm: Bản thân của các luật tự nhiên cho biết, vũ trụ
không chỉ tự tồn tại mà còn không cần bất kỳ sự giúp
đỡ nào, như một proton, không đòi hỏi gì về năng
lượng. Tuy nhiên, cũng có thể không có lý do nào
tạo Vụ nổ lớn.
Giải thích theo lý thuyết của Einstein và sự hiểu biết
của ông về không gian và thời gian trong vũ trụ, trên
căn bản, cả hai gắn liền vào nhau. (Không thể tách rời
không gian và thời gian. Ở đâu có không gian là có thời gian,
hoặc ngược lại.)
Vì vậy, từ khi vụ nổ lớn (Big Bang) bắt
đầu, một điều kỳ diệu đã xảy ra, đó là sự xuất hiện
của thời gian.
Để tìm hiểu ý tưởng gây bối rối này, hãy xem xét một
lỗ đen lơ lửng trong không gian. Một lỗ đen điển hình
là một ngôi sao có khối lượng (vật chất) lớn đến
mức, tự nó làm cho nó sụp đổ. Nó lớn đến độ không
có ánh sáng nào có thể thoát ra khỏi hấp lực của
chính nó, Đó là lý do tại sao nó hoàn toàn đen tối.
51
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Hấp lực của nó rất mạnh, làm cong và biến dạng
không chỉ ánh sáng mà còn cả thời gian. (Lỗ đen tự hút
ánh sáng và thời gian vào trung tâm của nó.) Để giải thích
thêm, hãy tưởng tượng chiếc đồng hồ đang bị hấp
lực của lỗ đen hút vào. Khi đồng hồ tiến dần đến gần
lỗ đen, kim đồng hồ sẽ chậm lại vì sức hút. Bây giờ,
hãy tưởng tượng chiếc đồng hồ đi vào lỗ đen - giả
sử nó có thể chịu đựng được hấp lực lớn – nó sẽ
thực sự dừng lại. (kim đồng hồ không chạy.) Nó dừng lại
không phải vì hư hỏng, mà vì bên trong lỗ đen không
có thời gian. Đó là chính xác những gì đã xảy ra khi
vũ trụ bắt đầu.
(Theo tôi, người dịch, đoạn giải thích về sự bắt đầu của thời gian
này không cho người đọc một khái niệm sáng tỏ. Ví dụ về chiếc
đồng hồ chỉ nói lên sự vắng mặt của thời gian trong lỗ đen. Sự
liên hệ giữa không có thời gian trong lỗ đen và sự khai sinh của
thời gian như thế nào, không được rõ ràng. Các bạn đọc nên tìm
hiểu về thời gian vũ trụ trong tác phẩm A Brief History of Time
của Stephen Hawking, Sự giải thích sẽ mạch lạc và thuyết phục
hơn.)
Trong một trăm năm qua, chúng ta đã đạt được
những bước tiến ngoạn mục trong sự hiểu biết về
vũ trụ. Hiểu được một số định luật điều hành tất cả
những gì xảy ra trong mọi trường hợp. Ngoại trừ một
số trường hợp quá đặc biệt như: nguồn gốc vũ trụ
và lỗ đen. Tôi tin rằng vai trò của thời gian lúc vũ trụ
khai sinh là chìa khóa cuối cùng để loại bỏ sự cần
thiết của đấng tạo hóa. Cùng một lúc, sẽ biểu lộ cách
vũ trụ tự tạo ra chính nó.
52
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Nếu chúng ta du hành ngược thời gian về lại thời
điểm xảy ra Vụ nổ lớn. Trên đường đi, sẽ thấy vũ trụ
nhỏ dần, càng ngày càng rút lại, cho đến một lúc,
toàn bộ vũ trụ chỉ là một không gian co cụm. Sau
cùng là một lỗ đen rất nhỏ, đông đặc, nén chặt. Nó
giống như những lỗ đen ngày nay, trôi nổi trong
không gian. Các quy luật tự nhiên điều hành một
cách nào đó khá kỳ diệu. Chúng cho chúng ta biết,
ở đây, lúc đó, thời gian cũng phải ngừng lại. (Trước
khi nổ lớn, vũ trụ là một khối vật chất nén đặc, có trọng lượng
nặng khủng khiếp và không có thời gian. Thời gian chỉ xuất hiện,
Chúng ta không thể đi đến
trước lúc Nổ Lớn (Big Bang) vì trước đó không có
thời gian. Rốt cuộc, chúng ta đã tìm ra một thứ gì
không có nguyên nhân, bởi vì không có thời gian để
nguyên nhân xuất hiện. (Nói một cách khác, không có thời
gian thì không thể có không gian, thì không có gì cả.) Đối với
tôi, điều này có khả năng chứng tỏ không có đấng
tạo hóa. Trước Vụ nổ lớn, không có thời gian, không
có gì, không có điều kiện cho đấng tạo hóa hiện hữu.
bắt đầu ngay lúc nổ lớn.)
Người ta muốn nghe những câu trả lời cho những
câu hỏi lớn, ví dụ như, tại sao con người sống ở
đây? Họ biết, không thể mong đợi câu trả lời một
cách dễ dàng, vì vậy họ đã chuẩn bị tâm lý để đón
nhận những giây phút gay go. Khi họ hỏi tôi, liệu có
Chúa tạo ra vũ trụ hay không. Tôi nói, bản chất của
câu hỏi không có ý nghĩa. Vì trước Vụ nổ lớn, thời
gian chưa hiện diện. Không có thời gian để Chúa tạo
ra vũ trụ. Tương tựa như câu hỏi đường đi đến biên
giới của trái đất. Trái đất hình cầu không có biên giới,
53
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
vì vậy tìm kiếm câu trả lời cho biên giới của trái đất
ở đâu là việc không có ý nghĩa.
Tôi có đức tin hay không? Mỗi người chúng ta đều
có tự do tin vào những gì mình muốn. Theo quan
điểm của tôi, lời giải thích ngắn gọn nhất là không
có Chúa. Không ai tạo ra vũ trụ và không ai chỉ đạo
số phận của con người. Điều này dẫn tôi đến một
nhận thức cần thiết khác: Có lẽ không có thiên đàng,
cũng không có thế giới bên kia. Tôi nghĩ, niềm tin
vào thế giới bên kia chỉ là mơ tưởng. Không có bằng
chứng nào đáng tin cậy về những điều này và chúng
sẽ phai mờ khi đối diện với những gì chúng ta hiểu
biết về khoa học. Tôi nghĩ, khi chết chúng ta sẽ trở
về cát bụi. Nhưng có một ý nghĩa nào đó khi chúng
ta đang sống, tạo ra ảnh hưởng, và truyền lại phẩm
chất “gene” cho con cái đời sau. Chúng ta chỉ có một
đời để hưởng thụ và cảm tạ cơ cấu cao kỳ lớn lao
của vũ trụ. Và tôi vô cùng biết ơn điều này.
54
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Vạn Vật Bắt Đầu
Như Thế Nào?
.
Hamlet nói: “Tóm lại, tôi có thể bị ràng buộc và tự
xem mình là vua của không gian vô tận” Tôi nghĩ,
ông ta có ý nói, mặc dù con người bị hạn chế bởi thể
chất, đặc biệt trong tình trạng bệnh tật của tôi, tâm
trí của chúng ta được tự do khám phá toàn bộ vũ trụ,
và mạnh dạn đi đến những nơi, ngay cả phi thuyền
Star Treck cũng không dám đến. Phải chăng vũ trụ
vô tận hoặc chỉ rộng lớn? Nó có một khởi đầu hay
không? Nó sẽ tồn tại mãi mãi hoặc chỉ trong thời gian
dài? Làm thế nào mà tâm trí trong thân xác hữu hạn
của chúng ta có thể hiểu được một vũ trụ vô hạn?
Chẳng phải chúng ta quá tự phụ khi cố gắng làm
việc này? Trước những khó khăn khi gánh chịu số
phận cùa Prometheus, vị thần lửa đã đánh cắp lửa
của các vị thần trong huyền thoại Hy Lạp để trao
tặng cho loài người sử dụng, tôi tin rằng, chúng ta
55
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
có thể và nên làm, cố gắng hiểu biết vũ trụ. Hình
phạt của Prometheus là bị xích vĩnh viễn vào một
tảng đá để chim ó đến ăn gan mỗi ngày, rồi đêm đến,
gan sẽ mọc lại, mặc dù hạnh phúc cuối cùng của
ông được giải thoát bởi anh hùng Hercules. Chúng
ta đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc tìm hiểu
vũ trụ. Tuy chưa có một hình ảnh hoàn chỉnh nhưng
tôi nghĩ hình ảnh đó có thể không còn xa.
Theo niềm tin của dân Boshongo ở Trung Phi, thuở
ban đầu chỉ có bóng tối, nước và vị thần Bumba tối
cao. Một ngày nọ, Bumba trong cơn đau bụng đã
mửa ra mặt trời. Nắng trời làm khô một phần nước,
lộ ra đất liền. Vẫn còn đau bụng, Bumba mửa ra mặt
trăng, tinh tú và một số động vật, con báo hoa mai,
cá sấu, rùa, sau cùng là con người.
Huyền thoại sáng tạo này cũng giống như những
huyền thoại khác, cố gắng trả lời những câu hỏi do
con người đặt ra: Tại sao chúng ta có mặt ở đây?
Đến từ đâu? Câu trả lời tổng quát cho biết loài người
tương đối gần đây đang tiến tới sự hiểu biết nguồn
gốc vì rõ ràng họ đang cải thiện kiến thức và kỹ
thuật. Cứ như vậy, hiểu biết này không thể kéo dài
lâu ngày, nó sẽ còn tiến triển nhiều hơn nữa. Ví dụ,
theo giám mục Ussher, sách Sáng Thế Ký đặt thời
gian đầu tiên vào ngày 22 tháng10 năm 4004 trước
công nguyên lúc 6 giờ chiều. Mặt khác, môi trường
vật chất như sông núi thay đổi rất ít trong một đời
người. Vì vậy, người ta cho rằng những thứ đó làm
cái nền bất biến, và tồn tại vĩnh viễn như một khung
56
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
cảnh thiên nhiên hoặc được tạo ra cùng một lúc với
con người.
Tuy nhiên, không phải mọi người đều hài lòng với ý
tưởng vũ trụ có một khởi đầu. Ví dụ, Aristotle, triết
gia nổi tiếng ở Hy Lạp, tin rằng vũ trụ hiện hữu vĩnh
viễn, không khởi đầu, không chấm dứt. Một cái gì
vĩnh cửu hoàn hảo hơn bất kỳ những cái gì được tạo
ra. Ông gợi ý, nếu chúng ta biết được sự tiến bộ là
vì những cơn lũ lụt lớn hoặc các thảm họa khác, đã
nhiều lần đẩy sự văn minh của loài người về lại lúc
ban đầu.
Động lực để tin vào một vũ trụ vĩnh cửu là muốn
tránh kêu gọi sự xuất hiện của thần thánh để tạo ra
và điều hành vũ trụ. Ngược lại, những ai tin vũ trụ
có một khởi đầu, muốn sử dụng nó như một lý do
cho sự hiện hữu của Chúa như nguyên nhân đầu
tiên, hoặc định luật đầu tiên của vũ trụ.
Nếu ai tin vũ trụ có một khởi đầu, thì câu hỏi hiển
nhiên sẽ là “Chuyện gì đã xảy ra trước khi khởi đầu?
Chúa đã làm gì trước khi tạo ra trần thế? Có phải
Chúa chuẩn bị hỏa ngục cho những ai đặt câu hỏi?
Vấn đề vũ trụ có một khởi đầu hay không là mối quan
tâm lớn cho triết gia người Đức, ông Immanuel Kant.
Ông cảm thấy mâu thuẫn trong phương diện luận lý
hoặc hóa học, dù không hay có. Về luận điểm, ông
đặt câu hỏi: Nếu vũ trụ có một khởi đầu, tại sao nó
phải chờ đợi một khoảng thời gian vô hạn rồi mới
bắt đầu? Ngược lại, nếu nó đã tồn tại vĩnh viễn, tại
sao nó phải mất một khoảng thời gian vô hạn để đạt
57
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
được tình trạng hiện nay? (Nghĩa là, tại sao vũ trụ vô hạn
phải chờ đợi rất lâu để sinh ra vạn vật và trần gian?) Đây là
phản đề. Cả hai luận điểm (tiền đề và phản đề) đều
phụ thuộc vào sự giả định của ông Kant, và hầu hết
của những người khác. Như vậy, theo họ, thời gian
đó là tuyệt đối. Có nghĩa, thời gian đi từ quá khứ vô
tận cho đến tương lai vô tận mà không liên quan gì
đến bất kỳ vũ trụ nào có thể hiện hữu hay chưa hiện
hữu.
Hình ảnh này vẫn còn trong tâm trí của nhiều khoa
học gia ngày nay. Tuy nhiên, năm 1915, nhà bác học
Einstein đã cách mạng đưa ra thuyết tương đối rộng.
Trong đó, không gian và thời gian không còn là tuyệt
đối, không còn làm phong nền cố định cho các hiện
tượng xảy ra, Thay vào đó, chúng là số lượng động
lực được định hình bởi vật chất và năng lượng trong
vũ trụ. (Nghĩa là chúng ta biết được không gian và thời gian do
kinh nghiệm nhận được từ các đồ vật và chuyện xảy ra.) Thời
gian và không gian chỉ được định nghĩa trong vũ trụ,
(không phải ngoài vũ trụ như Kant đã giả định) Vì vậy, không
có lý do để nói về thời gian trước khi vũ trụ bắt đầu.
Tương tựa như hỏi một địa điểm phiá nam ở Nam
cực, không thể nào xác nhận.
Mặc dù lý thuyết của Einstein hợp nhất thời gian và
không gian, nhưng không cho chúng ta biết nhiều về
bản thân của không gian. Gần như, điều hiển nhiên
là không gian tiếp tục là không gian, vẫn là không
gian. Chúng ta không dự đoán vũ trụ sẽ kết thúc
bằng cách tông vào bức tường gạch, mặc dù không
58
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
có lý do chính đáng nào nói rằng chuyện đó không
xảy ra. Nhưng các công cụ hiện đại nhưng viễn vọng
kính không gian Hubble cho phép chúng ta thăm dò
không gian một cách sâu thẳm. Con người đã thấy
được hàng tỷ tỷ ngân hà với hình dạng và kích thước
khác nhau. Có những ngân hà hình elip khổng lồ,
ngân hà hình xoáy ốc như ngân hà của chúng ta.
Mỗi ngân hà có hàng tỷ tỷ ngôi sao. Nhiều ngôi sao
xoay chung quanh nhiều ngôi sao lớn khác. Ngân hà
của chúng ta ngăn chận tầm nhìn theo những hướng
nhất định, nhưng cùng một lúc, cho thấy các ngân
hà được phân bố hầu như đồng đều trong không
gian với mật độ nhiều ngôi sao và khoảng trống. Mật
độ của các ngân hà dường như đang giảm xuống ở
những khoảng cách rất lớn, nhưng điều này có thể
vì chúng ta ở quá xa, bị mờ nhạt, không thể nhận ra
rõ ràng. Theo như những gì chúng ta quan sát, vũ
trụ tiếp tục tồn tại trong không gian và vẫn gần giống
như thế này, cho dù nó có đi bao xa cũng vậy.
Mặc dù vũ trụ có vẻ giống nhau ở trong mỗi vị trí
không gian, nhưng chắc chắn nó đang thay đổi theo
thời gian. Chúng ta biết được điều này vào những
năm đầu của thế kỷ 20. Cho đến lúc đó, người ta
vẫn cho rằng về cơ bản vũ trụ không thay đổi theo
thời gian. Nó có thể đã tồn tại trong thời gian vô hạn,
nhưng điều này dường như dẫn đến những kết luận
vô lý. Nếu ngôi sao tỏa sáng và nóng trong thời gian
vô hạn, chúng sẽ làm vũ trụ nóng lên cho đến khi vũ
trụ đạt đến nhiệt độ nóng tương đương. Như vậy,
ban đêm, cả bầu trời sẽ sáng như mặt trời, bởi vì
59
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mọi tuyến nhìn sẽ thấy đến ngôi sao hoặc trên đám
mây bụi đang bị đốt nóng cho đến khi nóng bằng các
ngôi sao. Như vậy, những gì chúng ta đã quan sát,
ban đêm, bầu trời đen là một chứng cớ quan trọng.
chứng tỏ vũ trụ không thể tồn tại vĩnh viễn, trong tình
trạng mà chúng ta thấy như hôm nay. Chắc chắn đã
có một điều gì xảy ra trong quá khứ khiến các ngôi
sao bật sáng trong thời gian hữu hạn. Sau đó, ánh
sáng từ các ngôi sao xa xôi đó chưa có đủ thời giờ
để chạm đến chúng ta. Điều này giải thích tại sao
bầu trời về đêm không phát ánh sáng ra mọi phương
hướng. (Có những ngôi ở sao xa quá cho đến giờ này ánh
sáng của chúng vẫn chưa chạm vào trái đất, nhưng chúng sẽ
dần dần xuất hiện. Ban đêm sẽ thấy nhiều sao hơn. Tuy vậy,
theo định luật cái gì có sinh phải có tử, một số ngôi sao sẽ tắt
dần ánh sáng và chết, trở thành những lỗ đen.)
Nếu những ngôi sao đã có mặt vĩnh viễn, tại sao đột
nhiên chúng sáng lên cách đây vài tỷ năm? Cái đồng
hồ nào cho ngôi sao biết đến giờ tỏa sáng? Điều này
làm các triết gia bối rối, như Immanuel Kant , tin vũ
trụ đã hiện hữu vĩnh viễn. Nhưng hầu hết đối với mọi
người, vũ trụ này được tạo ra, giống như bây giờ,
khoảng chừng vài ngàn năm trước đây. Giống như
giám mục Ussher đã kết luận.
Tuy nhiên, sự khác biệt với ý tưởng này bắt đầu xuất
hiện, bằng những quan sát qua kính thiên văn dài
lớn trên đỉnh núi Wilson vào những năm trong thập
niên 1920. Trước tiên, nhà thiên văn Edwin Hubble
khám phá nhiều mảng sáng mờ, gọi là tinh vân, thực
60
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
chất là những ngân hà khác, mỗi ngân hà có nhiều
sao lớn như mặt trời, như ở rất xa. Để thấy chúng
xuất hiện rất nhỏ và mờ nhạt, phải ở cách xa chúng
ta khoảng hàng triệu, thậm chí có thể là hàng tỷ năm
tốc độ ánh sáng (1 giây = 299,792,458 mét). Điều này
cho thấy sự khởi đầu của vũ trụ có thể chỉ cách đây
vài ngàn năm.
Khám phá tiếp theo của ông Hubble còn đáng chú ý
hơn. Bằng cách phân tích ánh sáng từ các ngân hà
khác, ông có thể đo lường, liệu chúng đang di
chuyển về hướng chúng ta hoặc ngược lại đang đi
ra xa. Ngạc nhiên, ông thấy các ngân hà di chuyển
về hướng khác. Hơn nữa, càng ra xa chúng ta,
chúng càng đi nhanh hơn. Nói một cách khác, vũ trụ
đang giãn nở. Các ngân hà di chuyển ra xa nhau.
Việc phát hiện sự giãn nở của vũ trụ là một trong
những cách mạng trí tuệ vĩ đại của thế kỷ 20. Nó
hoàn toàn gây ra sự bất ngờ, và thay đổi hoàn toàn
các cuộc thảo luận về nguồn gốc vũ trụ. Nếu các
ngân hà di chuyển xa nhau, chắc hẳn đã ở gần nhau
trong quá khứ. Từ tốc độ nở rộng hiện tại, có thể
ước tính các ngân hà phải ở gần nhau khoảng 10
đến 15 tỷ năm trước, Như vậy, có vẻ vũ trụ đã bắt
đầu lúc đó, với tất cả đều ở cùng một điểm trong
không gian.
Nhiều nhà khoa học không hài lòng với việc vũ trụ
có một khởi đầu, bởi dường như nó ngụ ý đã bị vật
lý phá vỡ. Có người phải kêu gọi tiếp viện từ bên
ngoài khoa học, thuận tiện nhất là kêu Chúa, để xác
61
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
định sự khởi đầu của vũ trụ. Do đó, họ đưa ra thuyết
tiên tiến, trình bày vũ trụ đang giãn nở trong thời gian
hiện tại, nhưng không nhất thiết phải có một khởi
đầu. Một trong số đó là thuyết trạng thái ổn định, do
Hermann Bondi, Thomas Gold, và Fred Hoyle chủ
trương trong năm 1948.
Trong lý thuyết ổn định, trình bày, khi các ngân hà
rời xa nhau, các ngân hà mới sẽ thành hình từ vật
chất, được tạo ra liên tục trong không gian. Do đó,
vũ trụ sẽ hiện hữu vĩnh cửu và sẽ luôn luôn giống
nhau. Đặc tính sau cùng này có hiệu quả tuyệt vời
là một dự đoán chắc chắn có thể kiểm tra bằng quan
sát. Đài phát thanh Cambridge của nhóm thiên văn
gia do Martin Ryle hướng dẫn, đã thực hiện một
cuộc khảo sát về các sóng phát thanh yếu (tức là
những sóng đã phai theo thời gian) vào đầu năm 1960.
Cho biết, làn sóng được phân bố khá đồng đều trên
bầu trời, cho thấy còn rất nhiều các nguồn nằm bên
ngoài ngân hà của chúng ta. Trung bình, các nguồn
sóng mờ sẽ ở xa hơn sóng rõ.
Thuyết ổn định dự đoán mối quan hệ giữa số lượng
của nguồn và cường độ của chúng. Nhưng các quan
sát cho thấy còn nhiều nguồn mờ nhạt hơn dự đoán,
chứng minh mật độ của các nguồn cao hơn trong
quá khứ. Điểm này trái với giả định cơ bản của lý
thuyết ổn định, cho rằng, mọi thứ trong vũ trụ không
thay đổi theo thời gian. Vì lý do này và các lý do
khác, thuyết ổn định đã bị loại bỏ.
62
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Một nỗ lực khác nhằm bác bỏ thuyết vũ trụ có một
khởi đầu, là sự gợi ý, đã có một giai đoạn vũ trụ bị
co rút lại vì sự quay và những diễn biến bất thường
trong nó, gây ra sự kiện các vật chất không rơi vào
cùng một chỗ. Thay vào đó, các phần khác nhau của
vật chất đã thiếu sót nhau, vì vậy, vũ trụ sẽ giãn nở
trở lại (để bù trừ) với mật độ luôn luôn hữu hạn. Hai
người Nga, Evgeny Lifshitz và Isaak Khalatnikov, đã
chứng minh sự co rút tổng quát mà không có sự cân
xứng chính xác, sẽ luôn luôn gây ra độ nẩy bật, với
mật độ vẫn hữu hạn. Kết quả này rất thuận lợi cho
chủ nghĩa Duy vật biện chứng của Mác-Lênin, vì nó
tránh được câu hỏi khó xử về sự thành hình của vũ
trụ. Do đó, nó trở thành một văn bản niềm tin cho
các nhà khoa học Liên Xô.
Tôi bắt đều nghiên cứu về vũ trụ học ngay khoảng
thời gian Lifshitz và Khalatnikov công bố kết luận
của họ về vũ trụ không có một khởi đầu. Tôi nhận ra
đây là một câu hỏi rất quan trọng, nhưng không bị
thuyết phục bởi lập luận mà Lifshitz và Khalatnikov
đã áp dụng.
Chúng ta đã quen với ý tưởng, khi một sự kiện gì
xảy ra là do các sự kiện trước đó tạo thành và sự
kiện trước này phải do các sự kiện trước nữa gây
ra. Bất kỳ là chuyện gì, luôn luôn có một chuỗi nhân
quả kéo dài vào quá khứ. Hãy giả sử chuỗi này có
sự khởi đầu, giả sử có sự kiện đầu tiên.
Điều gì gây ra việc đó? Đây không phải là câu hỏi
mà nhiều nhà khoa học muốn trả lời. Họ cố gắng
63
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tránh né, bằng cách tuyên bố như người Nga và các
nhà lý thuyết ổn định rằng vũ trụ không có sự khởi
đầu, hoặc bằng cách duy trì nguồn gốc của vũ trụ
thuộc về siêu hình học hoặc tôn giáo.
Theo ý tôi, đây không phải là vị trí mà bất kỳ nhà
khoa học chân chính nào cũng muốn đảm nhận. Nếu
các quy luật khoa học bị đình chỉ vào thời kỳ khởi
đầu của vũ trụ, chẳng lẽ chúng cũng sai lầm vào
những thời điểm khác? Một quy luật không phải là
quy luật nếu chỉ đúng trong một số trường hợp. Tôi
tin rằng con người nên cố gắng hiểu sự khởi đầu
của vũ trụ trên căn bản khoa học. Nó có thể là một
công việc vượt quá khả năng của chúng ta, nhưng
tối thiểu chúng ta nên cố gắng.
Roger Penrose và tôi đã cố gắng chứng minh các
định lý hình học để chứng tỏ vũ trụ phải có sự khởi
đầu, dựa trên lập luận, nếu thuyết tương đối của
Einstein là đúng, và một số điều kiện hợp lý nhất
định đã được thỏa thuận. Rất khó để tranh cãi với
những chứng mình bằng định lý toán học, vì vậy,
sau cùng, Lifshitz và Khalatnikov cũng đã thừa nhận
tiền đề, vũ trụ nên có một khởi đầu.
Mặc dù ý tưởng về sự khởi đầu của vũ trụ có thể
không được hoan nghênh cho lắm trong tư tưởng
Cộng Sản, nhưng không có bất kỳ hệ tư tưởng nào
có thể cản trở sức phát triển của khoa học vật lý.
Trước hết, khoa học này cần thiết để chế tạo ra bom
nổ, và quan trọng là diễn trình thành công của nó.
Trước đó, hệ tư tưởng Liên Xô đã từng ngăn cản sự
64
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tiến bộ của sinh vật học bằng cách phủ nhận sự thật
của di truyền học.
Cho dù, qua các định lý hình học mà Roger Penrose
và tôi đã chứng minh rằng vũ trụ phải có một khởi
đầu, nhưng chúng không cung cấp nhiều thông tin
về bản chất của cuộc khởi đầu này. Chúng chỉ có
thể cho biết, vũ trụ bắt đầu từ một vụ nổ Big Bang.
Vụ nổ lớn này phát ra từ một điểm nhỏ, nơi mà toàn
bộ vũ trụ và vạn vật được nén nhỏ, gói chặt trong
một điểm duy nhất, có mật độ vô hạn, một điểm lạ
kỳ chứa đựng không gian-thời gian.
Nơi điểm này, thuyết tương đối rộng của Einstein
không còn hiệu quả, vì vậy, không thể dùng nó để
dự đoán vũ trụ đã bắt đầu như thế nào. Đến đây,
nguồn gốc của vũ trụ dường như đã vượt ra ngoài
phạm vi khoa học.
Bằng chứng dùng quan sát để xác nhận ý tưởng vũ
trụ có một khởi đầu rất dày đặc, được đưa ra vào,
tháng 10 năm 1965, vài tháng sau khi kết quả lạ lùng
của tôi, với sự phát hiện một nền mờ của sóng vi ba
(microwaves) trong không gian.
Những làn sóng này giống như làn sóng trong lò
Microway, nhưng kém sức mạnh hơn. Chỉ có thể
hâm nóng bánh Pizza đến 270.4 độ C. ( 518.72 độ
F), không thể làm tan bánh pizza đông lạnh, đừng
nghĩ đến việc nấu chín. Chúng ta có thể tự mình
quan sát làn sóng vi ba. Các bạn đọc nào còn nhớ
máy truyền hình analog, chắc chắn đã nhận ra làn
65
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sóng này. Mỗi khi bạn vặn máy truyền hình đến một
đài trống, sẽ thấy màn ảnh có đầy ruồi muỗi bay, vì
làn sóng vi ba gây ra trên nền màn ảnh. Cách giải
thích hợp lý duy nhất là còn sót lại trên nền những
bức xạ trong trạng thái rất nóng và đặc. Trong không
gian, khi vũ trụ giãn nở, bức xạ sẽ nguội dần cho
đến lúc tàn dư mờ nhạt mà ngày nay chúng ta đang
trông thấy.
Chuyện vũ trụ khởi đầu bằng một điểm kỳ lạ không
phải là ý tưởng mà tôi hay một số người khác hài
lòng. Lý do định luật tương đối của Einstein bị phá
vỡ khi gần vụ Nổ Lớn (Big Bang) vì nó là nguyên lý
cổ điển. Có nghĩa, lý thuyết cổ điển cho rằng, hiển
nhiên theo lẽ thông thường, mỗi hạt vật lý đều có
một vị trí và một tốc độ xác định rõ ràng. Vì vậy, nếu
người ta biết được vị trí và tốc độ của tất cả các hạt
trong vũ trụ tại một thời điểm, người ta có thể tính
toán chúng sẽ ra sao vào bất kỳ ở một thời điểm nào
khác, trong quá khứ hoặc tương lai. Tuy nhiên, vào
đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng, họ
không thể tính toán. đo lường, chính xác điều gì sẽ
xảy ra trong khoảng cách rất ngắn. Họ không chỉ cần
những nguyên lý đúng hơn, mà dường như, có một
mức độ ngẫu nhiên hoặc không chắc chắn nào đó
trong tự nhiên, không thể loại bỏ ra khỏi nguyên lý,
cho dù nguyên lý đó đáng tin tưởng. Quan điểm này
có thể tóm tắt trong nguyên lý Bất Định được đưa ra
trong năm 1927 bởi nhà khoa học người Đức,
Werner Heisenberg. Đó là, không thể dự đoán chính
xác vị trí và tốc độ của một hạt nhân. Nếu vị trí dự
66
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
được đoán càng chính xác thì khả năng dự đoán tốc
độ càng kém chính xác và ngược lại.
Ông Einstein phản đối mạnh mẽ ý kiến cho rằng vũ
trụ bị chi phối bởi sự ngẫu nhiên. Ý nghĩ của ông
được tóm gọn trong câu châm ngôn: “Chúa không
chơi trò xúc xắc.” Nhưng tất cả bằng chứng cho
thấy, Chúa khá yêu thích cờ bạc. Vũ trụ giống như
một sòng bạc khổng lồ để đổ xúc xắc, hoặc quay
bánh xe, trong mọi trường hợp. Chủ sòng bạc có
nguy cơ mất tiền mỗi khi quăng xúc xắc hoặc quay
bánh xe Rulette. Nhưng tính chung trên một số
lượng cao cờ bạc lớn, tỷ lệ trung bình tất cả tiền
đánh cá sẽ có lợi tức về phần chủ sòng. Họ chỉ cần
bảo đảm điều kiện tự nhiên này. Đó là lý do, tại sao
các chủ sòng bạc đều giàu có. Cơ hội duy nhất mà
chúng ta có thể thắng được là đặt tất cả tiền chơi
vào vài lần đổ xúc xúc hoặc quay vòng bánh xe. (nếu
thắng thì nghỉ chơi với tiền lời, nếu bại cũng nghỉ chơi luôn.) Vũ
trụ cũng tương tựa như vậy. Vì sự bao la của vũ trụ,
có một số lượng rất lớn đổ xúc xắc, kết quả trung
bình là một cái gì đó, có thể dự đón được. Nhưng
khi vũ trụ rất nhỏ, gần lúc nổ lớn (Big Bang), chỉ có
một ít đổ xúc xắc, lúc này, nguyên tắc Bất Định là
quan trọng. Do đó, để có thể hiểu nguồn gốc vũ trụ,
người ta kết hợp nguyên lý Bất Định vào lý thuyết
tương đối của Einstein. Đây là một thử thách lớn
trong lý thuyết vật lý ít nhất trong vòng 30 năm qua.
Chúng tôi vẫn chưa giải quyết được nó, nhưng đã
đạt được nhiều tiến bộ.
67
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Bây giờ, giả dụ như chúng ta cố gắng dự đoán
tương lai. Vì chúng ta chỉ biết được một số kết hợp
của vị trí và tốc độ của một hạt, chúng ta không thể
đưa ra dự đoán chính xác về vị trí và tốc độ của các
hạt trong tương lai. Chúng ta chỉ có thể chỉ định một
xác xuất cho các kết hợp riêng biệt giữa vị trí và tốc
độ. Do đó, sẽ có một xác suất nào đó đối với tương
lai phải xảy ra của vũ trụ. Bây giờ, giả dụ, chúng ta
cố gắng tìm hiểu quá khứ theo phương cách tương
tựa. Với bản chất quan sát mà chúng ta đang thực
hiện, tất cả những gì chúng ta có thể làm là gán cho
vũ trụ một xác suất về lịch sử thực tế. Vì vậy, vũ trụ
phải có một số lịch sử có thể xảy ra và mỗi lịch sử
có xác suất riêng của nó. Có thể vũ trụ đang có một
lịch sử, trong đó Anh quốc sẽ đoạt giải vô địch túc
cầu World Cup một lần nữa, mặc dù xác suất khá
thấp. Ý tưởng vũ trụ có nhiều lịch sử nghe giống như
khoa học viễn tưởng, nhưng giờ đây, đã được công
nhận là sự thật qua khoa học. Đây là câu chuyện
của Richard Feynman, (Richard Feyman ‘1918-1988’.
Giải Nobel Vật Lý 1965 về lý thuyết Lượng Tử.) Người
từng làm việc tại Viện Kỹ Thuật California, nổi tiếng
và đáng tôn trọng, ông chơi một dãy trống bongo,
sắp thành một đường dài. Feynman tiếp cận cách
tìm hiểu mọi thứ hoạt động như thế nào, bằng cách
chỉ định cho mỗi lịch sử khả thể một xác suất cụ thể.
Sau đó, dùng ý tưởng này để dưa ra dự đoán. Việc
này diễn tiến tốt đẹp và ngoạn mục. Vì vậy, chúng
tôi giả định nó cũng cũng hoạt động giống như vậy
khi trở về quá khứ.
68
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Hiện giờ, các nhà khoa học đang nỗ lực kết hợp
thuyết tương đối của Einstein, ý tưởng của Feynman
về nhiều lịch sử, để trở thành một lý thuyết thống
nhất, hoàn chỉnh, có thể mô tả mọi thứ xảy ra trong
vũ trụ. Lý thuyết thống nhất này sẽ cho phép chúng
ta tính toán vũ trụ sẽ phát triển như thế nào, nếu
chúng ta biết rõ trạng thái của nó trong một thời
điểm. Nhưng lý thuyết thống nhất tự nó sẽ không
cho chúng ta biết vũ trụ đã khởi đầu như thế nào,
hoặc trạng thái ban đầu của nó ra làm sao. Đối với
những việc đó, chúng ta cần những thứ gì khác để
bổ sung. Chúng đòi hỏi những gì được gọi là điều
kiện biên giới, những thứ cho chúng ta biết chuyện
gì xảy ra ở biên giới của vũ trụ, ở mé lề của không
gian và thời gian. Nhưng nếu biên giới vũ trụ chỉ ở
một điểm bình thường của không gian và thời gian,
chúng ta có thể vượt qua và tuyên bố lãnh thổ bên
ngoài như một phần khác của vũ trụ. Nhưng nếu
biên giới vũ trụ là một lề lởm chởm (như răng cưa),
nơi không gian và thời gian bị thu hẹp với nhau với
mật độ vô hạn. Rất khó xác định điều kiện biên có ý
nghĩa. Vì vậy, không rõ điều kiện biên giới nào là cần
thiết. Dường như không có lý luận cơ bản để chọn
một tập hợp của điều kiện biên này hơn là tập hợp
khác.
Tuy vậy, Jim Hartle ở Đại học California, Santa
Barbara và tôi nhận ra còn có một khả năng thứ ba.
Có thể vũ trụ không có biên giới trong không gian và
thời gian. Thoạt nhìn, dường như điều này mâu
thuẫn với những nguyên lý hình học mà tôi đã đề
69
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
cập trước đây. Những nguyên lý cho thấy vũ trụ phải
có một khởi đầu, một biên giới trong thời gian. Tuy
nhiên, để làm cho kỹ thuật của Feynman được xác
định rõ ràng về mặt toán học, các nhà toán học đã
phát triển một khái niệm gọi là thời gian tưởng
tượng. Không có liên quan gì đến thời gian thực sự
mà chúng ta đã biết. Đây là một thủ thuật toán học
để thực hiện các phép toán, và nó thay thế cho thời
gian thực sự mà chúng ta đang sống. Ý tưởng của
chúng tôi cho rằng không có biên giới trong thời gian
tưởng tượng, Điều đó làm mất đi việc cố gắng phát
minh những điều kiện biên. Chúng tôi gọi đây là “Đề
nghị không biên giới.”
Nếu điều kiện biên của vũ trụ là không có biên giới
trong thời gian tưởng tượng, thì nó sẽ không chỉ có
một lịch sử. Có nhiều lịch sử trong thời gian tưởng
tượng và mỗi lịch sử sẽ xác định một lịch sử trong
thời gian thực tế. Vì vậy, chúng ta có vô số lịch sử
trong vũ trụ. Điều gì đã chọn ra lịch sử cụ thể, hoặc
tập hợp các lịch sử mà chúng ta đang sống, từ vô
số lịch sử có thể có trong vũ trụ?
Một điểm mà chúng ta nhanh chóng nhận thấy, rất
nhiều lịch sử có thể xảy ra trong vũ trụ, sẽ không trải
qua quá trình thành hình các ngân hà và hành tinh
mà hành tinh là cơ bản cần thiết cho sự xuất hiện và
tồn tại của loài người.
Có thể cũng có những sinh vật thông minh (sinh vật
có trí tuệ) có khả năng sinh sôi nẩy nở mà không cần
ngân hà và hành tinh, tuy vậy, điều đó có vẻ khó xảy
70
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
ra. (Ông muốn nói những sinh vật nào đó có thể sống và tồn tại
ở một nơi ngoài vũ trụ của chúng ta.) Thực tế, chúng ta tồn
tại như những sinh vật có khả năng đặt câu hỏi: “Tại
sao vũ trụ lại như vậy?” Phải chăng câu hỏi này là
giới hạn của chúng ta trong lịch sử làm người? Ngụ
ý rằng, nó là một trong số ít lịch sử sinh ra ngân hà
và ngôi sao. Đây là một ví dụ về nguyên tắc nhân
học (Anthropic Priciple.)
Nguyên tắc Nhân học nhận định, vũ trụ ít nhiều gì
phải giống như chúng ta thấy, bởi vì nếu nó khác đi
thì sẽ không có ai ở đây để quan sát nó. Nhiều nhà
khoa học không thích nguyên tắc Nhân học vì nó có
vẻ không hơn gì cái vẫy tay, và không có khả năng
dự đoán mạnh mẽ. Nhưng nguyên tắc Nhân học có
thể cho ra một công thức chính xác, và dường như
là điều cần thiết khi giải quyết nguồn gốc vũ trụ. Lý
thuyết M, là ứng cử viên sáng giá nhất của chúng tôi
cho một lý thuyết hoàn toàn thống nhất, cho phép
một số lượng rất lớn các lịch sử vũ trụ có thể xảy ra.
Hầu hết những lịch sử này đều không phù hợp cho
sự phát triển của cuộc sống thông minh. Hoặc chúng
trống rỗng, hoặc tồn tại quá ngắn, hoặc quá cong,
hoặc sai lầm một cách nào đó. Tuy nhiên, theo ý
tưởng đa lịch sử của Feynman, những lịch sử không
có con người, lại có xác suất khá cao.
Chúng tôi thực sự không quan tâm có bao nhiêu lịch
sử khả thể (có thể xảy ra) mà không cưu mang những
sinh vật thông minh. Chỉ chú ý đến những lịch sử
trong đó đời sống thông minh có thể phát triển.
71
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Những đời sống này không cần bất cứ điều gì giống
như loài người. Loại người xanh lá cây (người rừng
hoặc một loại người trong cổ tích, mặt mày che đầy lá cây) cũng
sẽ như vậy. Thực tế, họ có thể sống tốt hơn. Nhân
loại không có thành tích khả quan về hành vi thông
minh.
Một ví dụ cho thấy sức mạnh của nguyên tắc Nhân
học, hãy nhìn xem số lượng chiều hướng trong
không gian. Kinh nghiệm chung, chúng ta đang sống
trong không gian ba chiều. Có nghĩa, chúng ta có
thể trình bày mực nước biển trong kinh độ, vĩ độ và
độ cao. (meridian, latitude, elevation.) Nhưng tại sao
không gian lại là ba chiều? Tại sao không phải 2, 4,
hoặc những số chiều hướng khác, như khoa học giả
tưởng? Trong thực tế, theo lý thuyết M, không gian
có 10 mười chiều (tương tựa như lý thuyết có một
chiều thời gian), nhưng 7 trong 10 chiều hướng
không gian đang cuộn lại rất nhỏ, chỉ còn 3 hướng
rộng lớn và gần như bằng phẳng. Nó giống như một
ống hút uống nước. Bề mặt của ống là hai chiều.
Hướng còn lại được cuộn thành một vòng tròn nhỏ,
để nhìn từ xa, ống hút giống như một lằn vẽ trên một
mặt, (one-dimensional line.)
Tại sao chúng ta không sống trong một lịch sử mà
trong đó 8 chiều hướng được cuộn nhỏ lại, chỉ để
hai chiều (ngang và rộng) như chúng ta nhận ra? Một
động vật chỉ biết hai chiều sẽ gặp trở ngại khi tiêu
hóa thức ăn. Nếu chúng có bộ ruột như chúng ta,
thức ăn sẽ đi xuyên qua, cắt thân hình làm hai, và
72
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
con vật tội nghiệp đó sẽ chết. Vì vậy, chỉ hai hướng
phẳng sẽ không đủ cho bất cứ sinh vật phức tạp nào
có đời sống thông minh. Có điều gì đặc biệt về ba
chiều không gian. Trong không gian ba chiều, các
hành tinh có thể ổn định quỹ đạo xung quanh các
ngôi sao lớn. Đây là hệ quả hấp lực theo quy luật
Bình phương nghịch đảo (the inverse square law) do
Robert Hooke phát hiện vào năm 1665 và được
Isaac Newton phát triển sau đó. Hãy nghĩ về hấp lực
của hai vật thể trong một khoảng cách thực tế. Nếu
khoảng cách đó tăng gấp đôi thì hấp lực giữa chúng
chia cho bốn. Nếu khoảng cách tăng lên ba lần, thì
hấp lực chia cho chín, nếu tăng bốn lần, thì chia cho
mười sáu và cứ theo công thức đó. Điều này dẫn
đến sự ổn định của quỹ đạo hành tinh.
Bâu giờ hãy nghĩ đến không gian bốn chiều. Ở đó,
hấp lực sẽ tuân theo luật lập phương nghịch đảo.
Nếu khoảng cách giữa hai vật thể tăng gấp đôi, hấp
lực phải chia cho 8; tăng 3, chia 27; tăng 4, chia 64.
Sự thay đổi này đối với luật lập phương nghịch đảo
sẽ ngăn cản các hành tinh có quỹ đạo ổn định xung
quanh mặt trời. Hoặc chúng bị hút vào mặt trời hoặc
bị đẩy ngoài bóng tối giá lạnh. Tương tựa, quỹ đạo
các electron trong nguyên tử sẽ không ổn định, vì
vậy vật chất mà chúng ta biết, sẽ không tồn tại. Do
đó, mặc dù ý tưởng đa lịch sử chấp nhận bất kỳ số
lượng chiều hướng phẳng nào, nhưng chỉ lịch sử có
ba chiều phẳng mới dung chứa những sinh vật
thông minh. Chỉ trong một lịch sử như vậy, mới có
câu hỏi: Tại sao không gian có ba chiều?
73
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Một đặc điểm của vũ trụ mà chúng ta quan sát được
liên quan đến nền sóng vi ba do Arno Penzias và
Robert Wilson phát hiện. Xét về cơ bản, nó là bản
ghi hóa thạch khi vũ trụ còn trẻ. Nền này khi nhìn
gần như giống nhau, không tùy thuộc vào góc và
hướng nhìn. Sự khác biệt giữa các hướng nhìn khác
nhau khoảng 1/100000. Những khác biệt này vô
cùng nhỏ nhưng cần một giải thích. Lời giải thích
thường được chấp nhận nhất một cách trôi chảy là
từ rất sớm, vũ trụ đã trải qua một thời kỳ giãn nở rất
nhanh, bởi một hệ số tối thiểu là hàng tỷ tỷ. Quá
trình được gọi là lạm phát, một việc tốt cho vũ trụ,
trái ngược với lạm phát giá cả thường xuyên gây
phiền nhiễu cho chúng ta. Nếu chỉ có vậy, thì bức xạ
sóng vi ba sẽ hoàn toàn giống nhau theo mọi
phương hướng. Nếu vậy, những khác biệt nhỏ từ
đâu đến?
Đầu năm 1982, tôi đã viết một bài báo đề nghị rằng
những khác biệt này phát sinh từ những dao động
lượng tử trong thời kỳ lạm phát. Các dao động lượng
tử xảy ra như hệ quả của Nguyên lý Bất định. Hơn
nữa, những dao động này là mầm mống cho các cấu
trúc trong vũ trụ, tạo ra các ngân hà, ngôi sao, trong
đó có trái đất và nhân loại. Ý tưởng này về căn bản
giống như cơ chế được gọi là Bức xạ Hawking từ
chân biên của lỗ đen, mà tôi đã dự đoán trước đó
một thập niên. Ngoại trừ, bây giờ ý tưởng này đến
từ một chân trời của vũ trụ, là bề mặt phân chia vũ
trụ giữa những phần có thể trông thấy và những
phần không thể trông thấy. Chúng tôi tổ chức một
74
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
cuộc hội thảo ở Cambridge vào mùa hè năm đó, với
sự tham dự của tất cả những nhà chuyên môn danh
tiếng có bản lãnh trong phạm vi này.
Trong cuộc họp, chúng tôi xây dựng hầu hết một bức
tranh hiện tại của lạm phát, bao gồm các dao động
mật độ quan trọng, đưa đến sự thành hình của ngân
hà và sự sinh tồn của loài người. Một số người đã
đóng góp vào câu trả lời sau cùng. Đây là thời điểm
10 năm trước khi các dao động của sóng vi ba trên
trời được phát hiện bởi vệ tinh COBE trong năm
1993, như vậy, lý thuyết đã đi trước thực nghiệm.
Vũ trụ học trở thành ngành khoa học chính xác 10
năm sau đó, năm 2003, với kết quả đầu tiên từ vệ
tinh WMAP. Nó đã tạo ra một bản đồ tuyệt vời về
nhiệt độ của bầu trời với sóng vi ba của vũ trụ. Một
bức ảnh chụp chớp của vũ trụ trong khoảng 1% so
với tuổi hiện tại. Những bất thường đã thấy được dự
đoán bởi lạm phát, có nghĩa, một số vùng trong vũ
trụ có mật độ cao hơn một chút so với các vùng
khác. Hấp lực của mật độ gia tăng làm chậm sự mở
rộng của vùng đó. Dần dần khiến nó sụp đổ để tạo
ra các ngân hà và hành tinh. Vì vậy, hãy xem xét kỹ
bản đồ của bầu trời sóng vi ba. Nó là bản thiết kế
cho tất cả cấu trúc trong vũ trụ. Chúng ta là sản
phẩm của dao động lượng tử trong vũ trụ khi còn rất
sơ khai. Chúa thực sự đã đổ xúc xắc.
Hôm nay, thay thế vệ tinh WMAP, là vệ tinh Planck.
với bản đồ vũ trụ có mức phân giải (resolution) cao
độ. Planck đang kiểm tra các lý thuyết của chúng tôi
75
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
một cách nghiêm túc, thậm chí có thể phát hiện ra
dấu vết của sóng hấp lực đã được dự đoán bởi lạm
phát. Đây là hấp lực lượng tử được giăng mắc khắp
bầu trời.
Có thể có các vũ trụ khác, lý thuyết M. dự đoán rất
nhiều vũ trụ được tạo ra từ hư vô, tương ứng với
những lịch sử khả thể. Mỗi vũ trụ có nhiều lịch sử
khả thể và nhiều trạng thái khả thể khi chúng già dần
đến hiện tại và kéo dài hơn nữa trong tương lai. Hầu
hết những trạng thái này sẽ hoàn toàn không giống
như vũ trụ mà chúng ta quan sát được. Vẫn còn có
hy vọng chúng ta sẽ thấy bằng chứng đầu tiên cho
lý thuyết M tại máy gia tốc hạt LHC, máy va chạm
lớn Large Hardon Collider, tại CERN ở Geneva. Từ
một góc độ lý thuyết M, nó chỉ thăm dò những năng
lượng thấp, nhưng chúng ta có thể được may mắn,
trông thấy một tín hiệu yếu hơn của lý thuyết cơ bản,
như siêu đối xứng (supersymmetry.) Tôi nghĩ, việc
khám phá những cặp siêu đối xứng sẽ cách mạng
hóa sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ.
Năm 2012, sự phát hiện hạt Higgs của LHC tại
CERN ở Geneva đã được công bố. Đây là phát hiện
đầu tiên về một hạt cơ bản mới trong thế kỷ 21. Vẫn
nuôi dưỡng hy vọng LHC sẽ phát hiện ra siêu đối
xứng. Nhưng ngay cả khi LHC không phát hiện ra
bất kỳ hạt cơ bản nào, siêu đối xứng vẫn có thể tìm
thấy trong các máy gia tốc thuộc các thế hệ tiếp
theo, hiện nay đang được kế hoạch thiết kế.
76
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Sự khởi đầu của vũ trụ trong Vụ nổ lớn nóng cao độ
là phòng thí nghiệm năng lượng cao sau cùng để
kiểm tra lý thuyết M. và ý tưởng chúng tôi về các
khối xây (building block) không-thời gian và vật lý.
Các lý thuyết khác nhau để lại những dấu vân tay
trong cấu trúc đương thời của vũ trụ, vì vậy, dữ liệu
vật lý thiên văn có thể cung cấp cho chúng ta những
manh mối về sự hợp nhất của tất cả các lực lượng
tự nhiên. Do đó, cũng có thể có những vũ trụ khác,
nhưng tiếc thay, chúng ta sẽ không bao giờ khám
phá ra chúng.
Chúng ta đã thấy đôi điều về nguồn gốc vũ trụ. Việc
này dẫn đến hai câu hỏi lớn: 1- Phải chăng vũ trụ
này là duy nhất? 2- Vũ trụ có chấm dứt hay không?
Tiếp theo, hành vi trong tương lai của các lịch sử
khả thể nhất của vũ trụ là gì? Dường như còn có
nhiều khả năng khác nhau, thích hợp với sự xuất
hiện của những sinh vật thông minh. Chúng tùy
thuộc vào số lượng vật chất trong vũ trụ. nếu có
nhiều hơn “một lượng tới hạn” nào đó, hấp lực giữa
các ngân hà sẽ làm chậm lại quá trình giãn nở. Cuối
cùng tất cả sẽ bắt đầu ngã về hướng của nhau và
sẽ tập trung vào một Đại nạn Nghiền nát (Big
Crunch.) Đó là sự chấm dứt của lịch sử vũ trụ trong
thời gian hiện thực.
Khi tôi ở vùng Viễn Đông, được yêu cầu không đề
cập đến đại nạn này, vì ảnh hưởng của nó đối với
thị trường. Nhưng thị trường đã sụp đổ, bằng cách
nào đó, câu chuyện này đã truyền ra ngoài. Ở Anh
77
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
quốc, mọi người dường như không quá lo lắng về
sự chấm dứt có thể xảy ra trong tương lai hai mươi
tỷ năm. Bạn có thể thực hiện rất nhiều việc, ăn uống
vui vẻ trước đó.
Nếu mật độ của vũ trụ dưới “giá trị tới hạn” (critical
value), hấp lực sẽ quá yếu để ngăn cản các ngân hà
rời xa nhau, chia tay vĩnh viễn. Tất cả ngôi sao sẽ
bốc cháy, vũ trụ trở nên trống rỗng, lạnh lẽo và giá
rét. Vì vậy, một lần nữa, vạn vật sẽ kết thúc, nhưng
ít bi kịch hơn. Tuy nhiên, loài người còn có vài tỷ
năm chờ đợi.
Trong câu trả lời này, tôi cố gắng giải thích đôi điều
về nguồn gốc, tương lai, và bản chất vũ trụ. Một vũ
trụ nhỏ và dày đặc trong quá khứ, vì vậy, nó khá
giống bản tóm tắc mà tôi đã bắt đầu. Tuy nhiên, bản
tóm tắc này là mã hóa mọi thứ xảy ra trong thời gian
thực sự. Vì vậy, Hamlet đã tuyên bố khá đúng. Tóm
lại, chúng ta có thể bắt buộc và tự xem mình là vua
của một không gian vô tận.
78
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Có Sinh Vật Trí Khôn Nào
Sống Trong Vũ Trụ Không?
Tôi muốn suy đoán một chút về khả năng phát triển
sự sống trong vũ trụ, đặc biệt, hướng về sự sống
của sinh vật có trí khôn. Điều này bao gồm luôn loài
người, mặc dù phần lớn hành vi của nhân loại suốt
lịch sử làm người, khá ngu ngốc và thiếu tính toán
để hỗ trợ sự tồn tại của muôn loài. Hai câu hỏi sẽ
thảo luận là “Xác suất của sự sống hiện diện trong
vũ trụ là bao nhiêu?” và “Cuộc sống có thể phát triển
như thế nào trong tương lai?”
Theo kinh nghiệm chung, mọi thứ đều trở nên mất
trật tự rồi hỗn loạn theo thời gian. Quan sát này thậm
chí có định luật riêng, gọi là định luật thứ hai của
nhiệt động học (Thermodynamics.) Định luật này
cho rằng tổng lượng sự rối loạn (mất trật tự), hay
còn gọi là entropy (khái niệm khoa học, đo lường vật lý
về trạng thái rối loạn), trong vũ trụ luôn luôn tăng theo
thời gian. Tuy nhiên, luật này chỉ đề cập đến tổng số
lượng rối loạn. Thứ tự (trật tự) trong một cơ thể có
79
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
thể tăng lên với điều kiện mức độ rối loạn trong môi
trường chung quanh gia tăng nhiều hơn. Định luật
này xảy ra trong mọi sinh vật sống. Chúng ta có thể
định nghĩa cuộc sống là một hệ thống có trật tự (thiên
nhiên và nhân tạo) có khả năng giữ cho bản thân đi
ngược lại khuynh hướng rối loạn và có khả năng tự
tái tạo (reproduce itself). Nghĩa là, nó có thể tạo ra
các hệ thống tương tựa có trật tự nhưng độc lập. Để
thực hiện công việc này, hệ thống phải chuyển đổi
năng lượng ở một số hình thái có trật tự như thức
ăn, ánh sáng mặt trời, năng lượng điện, trở thành
năng lượng hỗn loạn, dưới hình thái nhiệt. (Phải
chăng, có hai loại năng lượng: Năng lượng không có trật
tự, còn gọi là năng lượng hỗn loạn và năng lượng có trật
tự, tức là đã thành hình nề nếp vật lý mà con người đã
quen thuộc?) Bằng cách này, hệ thống có thể đáp
ứng sự đòi hỏi từ tổng số lượng hỗn loạn gia tăng,
cùng một lúc, gia tăng trật tự trong bản thân và trong
dòng giống về sau. Nghe có vẻ giống như cha mẹ
sống trong một ngôi nhà trở nên lộn xộn bừa bãi hơn
vì họ có em bé mới.
Một sinh vật như bạn hoặc tôi thường có hai thành
phần: (1) Một tập hợp hướng dẫn điều khiển hệ
thống biết cách tiếp tục và cách tự tái tạo. (2) Một cơ
chế để thực hiện các hướng dẫn. Trong sinh vật học,
hai thành phần này được gọi là “gen” và sự trao đổi
vật chất (metabolism). Nhưng điểm cần nhấn mạnh,
không nhất thiết phải là sinh vật có gen. Ví dụ, vi
khuẩn vi tính là một lập trình tạo ra các bản sao của
chính nó trong bộ nhớ của máy vi tính và có khả
80
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
năng chuyển sang các máy khác. Như vậy, nó nằm
trong định nghĩa của một hệ thống sống, đã xác định
bên trên. Giống như vi khuẩn sinh học, là một dạng
thoái hóa, nó chỉ chứa các hướng dẫn hoặc “gen”,
mà không có một quá trình trao đổi, chuyển hóa cho
bản thân. Thay vào đó, (như vi khuẩn vi tính), nó tự
lập trình thay thế quá trình trao đổi của máy vi tính
chủ, hoặc (trong sinh học là) tế bào. Một số người
thắc mắc, liệu vi khuẩn có nên xem là sinh vật sống
hay không? Lý do, chúng chỉ là ký sinh trùng, không
thể độc lập với hệ thống chủ (hoặc thân thể). Thực
tế, hầu hết các hình thái sống, bao gồm luôn chúng
ta, đều là ký sinh trùng. Chúng phải kiếm ăn và phụ
thuộc sự tồn tại của các dạng sống khác. Tôi nghĩ,
vi khuẩn vi tính nên xem như có sự sống. Có thể nói
lên đôi điều về bản chất con người, cho đến hôm
nay, dạng sống duy nhất mà chúng ta tạo ra là hoàn
toàn có thể hủy diệt. Quan điểm này nhằm vào việc
tạo ra đời sống theo hình ảnh của chính chúng ta.
Trong bài viết, về sau, tôi sẽ quay lại với các dạng
sống điện tử.
Chúng ta thường nghĩ “sự sống” dựa trên một chuỗi
nguyên tử carbon, với vài nguyên tử khác như
nitrogen hoặc photpho. Có thể suy đoán, người ta
có sự sống với một số hóa chất căn bản khác, như
silic, nhưng carbon được xem là trường hợp tích
cực nhất, vì nó chứa đựng rất nhiều hóa học. Các
nguyên tử carbon đó hoàn toàn nên tồn tại với
những đặc tính của chúng. Nhưng đòi hỏi một sự
điều chỉnh hoàn hảo các hằng số vật lý, ví dụ như
81
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mức thang QCD, (trong lượng tử học về sắc
‘quantumchromodynamic’, số lượng
‘^’ gọi là thang đo
QCD), điện tích và cần ngay cả chiều không gian-
thời gian. Nếu những hằng số này có giá trị khác
nhau đáng kể, gây nên hoặc hạt nhân của nguyên
tử carbon không ổn định, hoặc các hạt điện tử
(electron) sụp đổ vào hạt nhân. Thoạt mới nhìn, có
vẻ như vũ trụ được điều động rất tinh vi. Cũng có
thể là bằng chứng cho thấy vũ trụ đã xây dựng đặc
biệt để sinh sản loài người. Tuy nhiên, nên cẩn thận
trước những lập luận như vậy, vì nguyên lý Nhân
học, có khái niệm rằng các lý thuyết về vũ trụ phải
tương dụng với sự tồn tại của con người. Điều này
dựa trên sự thật hiển nhiên, nếu vũ trụ không phù
hợp với sự sống, chúng ta sẽ không ở đây để ngạc
nhiên hỏi vì sao nó điều chỉnh (hoạt động) tinh vi như
vậy.
Nguyên lý Nhân học có thể áp dụng trong hai dạng
mạnh và yếu. (Có thể hiểu là nguyên lý lớn và nguyên
lý nhỏ. Để phân biệt hai khái niệm đối nghịch.) Đối với
dạng nguyên lý mạnh, người ta giả thiết có nhiều vũ
trụ khác nhau, mỗi vũ trụ có giá trị khác biệt từ những
hằng số vật lý. Trong dạng nguyên lý yếu, giá trị cho
phép vật thể tồn tại, như nguyên tử carbon, có thể
hoạt động, xây dựng những khối và chuỗi nguyên tử
tạo ra hệ thống sống. Vì chúng ta phải sống trong
một của số vũ trụ này, không nên ngạc nhiên khi các
hằng số vật lý được điều chỉnh một cách tinh vi. Nếu
không, nhân loại đã biến mất. Do đó (theo luận lý loại
suy), dạng nguyên lý Nhân học mạnh không thỏa
82
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đáng, vì có cách nào giải thích ý nghĩa sự vận hành
để các vụ trụ khác tồn tại? (Giả dụ, các vũ trụ đó không
có điều kiện cho sự sống.) Và nếu chúng tách rời với
vũ trụ của chúng ta, làm sao những gì xảy ra trong
chúng có thể ảnh hưởng đến vũ trụ của con người?
Như vậy, tôi sẽ chọn nguyên lý Nhân học yếu. Sử
dụng các giá trị của các hằng số vật lý đã có. Nhưng
nên xem kết luận nào có thể rút ra từ thực tế về sự
sống tồn tại trên hành tinh này, ở giai đoạn này,
trong lịch sử vũ trụ.
Không có carbon lúc vũ trụ bắt đầu bằng vụ nổ Big
Bang, khoảng 13,8 tỷ năm trước đây, lúc đó, vũ trụ
rất nóng, đến nỗi tất cả vật chất chỉ ở trong dạng các
hạt proton và neutron. Và số proton và neutron bằng
nhau. Sau đó, vũ trụ giãn nở, nguội dần. Ngay một
phút sau khi nổ, nhiệt độ trong vũ trụ giảm xuống
khoảng một tỷ độ, gấp khoảng 100 lần nhiệt độ trên
mặt trời. Ở mức nhiệt độ này, neutron bắt đầu phân
rã thành nhiều hơn proton.
Nếu tất cả chỉ xảy ra như vậy, toàn thể vật chất trong
vũ trụ đã trở thành nguyên tố đơn giản nhất: hydro,
mà hạt nhân của nó chỉ có một proton duy nhất. Tuy
nhiên, một số hạt neutron va chạm với hạt proton,
rồi dính vào nhau để tạo ra nguyên tố đơn giản nhất
tiếp theo: helium, mà hạt nhân của nó có hai proton
và hai neutron. Nhưng chưa có nguyên tố nào phức
tạp hơn như carbon hoặc oxy thành hình trong giai
đoạn vũ trụ sơ khai. Khó mà tưởng tượng có thể xây
dựng một hệ thống sống chỉ có hydro và Heli. Dù
83
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sao, vũ trụ lúc đó còn quá nóng để nguyên tử kết
hợp thành phân tử.
Vũ trụ tiếp tục giản nở và nguội dần. Có một số vùng
mật độ cao hơn so với vùng khác và hấp lực vật lý
phụ ở các vùng đó làm chậm quá trình giản nở, rồi
sau cùng dừng lại. Thay vào đó, chúng sụp đổ để
tạo thành các thiên hà, bắt đầu vào khoảng hai tỷ
năm sau vụ nổ Big Bang. Một số ngôi sao ban đầu
có khối lượng lớn hơn và nóng hơn mặt trời của
chúng ta (vì có nhiều mặt trời khác.), đốt cháy hydro và
Heli nguyên thủy thành các nguyên tố phức tạp hơn
như Carbon, Oxigen, và Iron. Quá trình này có thể
kéo dài vài triệu năm. Sau đó, vài ngôi sao phát nổ
như ngôi sao siêu tân tinh (là ngôi sao đột nhiên tăng
độ sáng và nổ bung phần lớn khối lượng của nó) và phát
tán những nguyên tố phức tạp vào không gian, để
tạo nguyên liệu cơ bản cho các thế hệ sao về sau.
Các ngôi sao khác ở quá xa, không thể trực tiếp nhìn
thấy, nếu có những hành tinh quay chung quanh
chúng. Tuy nhiên, có hai kỹ thuật cho phép chúng ta
khám phá các hành tinh xoay quanh các ngôi sao.
Thứ nhất, quan sát ngôi sao, xem lượng ánh sáng
từ nó phát ra từ nó có đều đặn không. Nếu có hành
tinh di chuyển trước ngôi sao, ánh sáng từ ngôi sao
sẽ bị che khuất, ánh sáng sẽ mờ một chút. Nếu sự
kiện này xảy ra thường xuyên, nghĩa là, có một hành
tinh trên quỹ đạo chạy chung quanh ngôi sao. Thứ
hai, đo chính xác vị trí của ngôi sao. Nếu một hành
tinh quay quanh ngôi sao sẽ tạo ra sự di động nhỏ ở
vị trí ngôi sao đó. Việc này có thể quan sát. Nếu sự
84
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
di động xảy ra đều đặn, như vậy, suy ra, ngôi sao đó
có hành tinh. Những phương pháp này được áp
dụng lần đầu cách đây khoảng 20 năm. Đến nay, đã
phát hiện vài ngàn hành tinh xoay quanh các ngôi
sao xa xôi. Người ta ước đoán, một trong năm ngôi
sao giống như trái đất, có hành tinh chạy quanh với
khoảng cách đòi hỏi để thích ứng với sự sống. Hệ
mặt trời của con người được thành hình cách đây
bốn tỷ rưỡi năm hoặc chín tỷ rưỡi năm sau vụ nổ Big
Bang, từ khí đào thải với tàn tích của các ngôi sao
trước kia. Trái đất được xây dựng từ các nguyên tố
phức tạp, bao gồm carbon và oxy. bằng một cách
nào đó, một số nguyên tử này được sắp xếp dưới
dạng phân tử DNA, một dạng xoáy kép nổi tiếng do
Francis Crick và James Watson phát hiện trên trang
mạng Tân Bảo tàng của đại học Cambridge vào thập
niên 1950. Dạng này liên kết hai chuỗi trong hình
xoắn ốc, là các cặp nitrgen cơ bản. Gồm có bốn loại
nitrogen: adenine, cytosine, guanine, và thymine.
Một adenine ở chuỗi bên này luôn luôn kết hợp với
một thymine ở chuỗi bên kia. Cũng kết hợp như vậy,
một guanine với một cytosine. Do đó, trình tự của
các nitrogen cơ bản trên một chuỗi định rõ trình tự
bổ túc, duy nhất trên chuỗi kia. Có thể tách rời hai
chuỗi này và mỗi chuỗi sinh hoạt như một khuôn
mẫu có khả năng tạo ra các chuỗi tiếp theo. Do đó,
phân tử DNA có thể tái tạo thông tin di truyền được
mã hóa trong trình tự của nitrogen cơ bản. Các phần
của trình tự có thể được sử dụng để tạo ra protein
và các hóa chất khác, có thể mang theo tính thông
85
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
truyền, mã hóa trong trình tự, và lắp ráp những
nguyên liệu nguyên chất cho DNA tự tái tạo.
Như tôi đã nói trước đây, chúng ta không biết làm
thế nào mà các phân tử DNA xuất hiện lần đầu tiên.
Rất ít cơ hội cho những ý kiến bất đồng với giả
thuyết phân tử DNA phát sinh bởi các biến động
ngẫu nhiên, một số người đề nghị, sự sống trên trái
đến từ nơi khác, ví dụ, đến từ những mảnh đá trên
Hỏa tinh vỡ ra rơi vào địa cầu, khi hành tinh này
chưa ổn định, vì vậy, còn có những hạt mầm sự
sống đang trôi nổi trong ngân hà. Nhưng có vẻ như
DNA không thể tồn tại lâu trong bức xạ ngoài không
gian.
Xác suất có sự sống khác xuất hiện trên hành tinh
tuy rất nhỏ, nhưng nếu xảy ra, người ta phải chờ đợi
rất lâu. Nói chính xác hơn, người ta có thể mong đợi
trong thời gian cho phép sự tiến hóa nảy sinh những
sinh vật có trí khôn như chúng ta, sự sống này xuất
hiện muộn nhất là trước khi mặt trời nở lớn và nhận
chìm trái đất. Khoảng thời gian mà sự kiện này có
thể xảy đến là thời gian mặt trời tồn tại, khoảng 10
tỷ năm. Vào thời điểm này, một dạng sống có trí
khôn nào đó phải thông thạo chuyện du hành trong
không gian, để trốn thoát đến các ngôi sao khác.
Nếu không, sự sống trên trái đất sẽ bị diệt vong.
Bằng chứng từ hóa thạch cho thấy đã có một số
dạng sống trên trái đất cách đây khoảng ba tỷ rưỡi
năm trước. Có lẽ chỉ 500 triệu năm sau khi trái đất
ổn định và mát dần để sự sống phát triển. Tuy vậy,
86
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sự sống có thể mất bảy tỷ năm để cấu tạo và phát
huy trong vũ trụ, mà vẫn còn đủ thời giờ để tiến hóa
như chúng ta, đang đặt câu hỏi về nguồn gốc vũ trụ.
Nếu xác suất sự sống sinh ra trên hành tinh là rất
nhỏ, tại sao nó xảy ra trên trái đất trong khoảng một
phần tư của lịch sử thời gian?
Sự xuất hiện sớm nhất của sự sống trên trái đất cho
thấy, có nhiều khả năng sự sống tự phát xảy ra trong
những điều kiện thích hợp. Có thể có một số dạng
cấu tạo đơn giản hơn đã sinh ra DNA. Một khi DNA
xuất hiện, nó sẽ tự động hoàn tất đến mức thay thế
hoàn toàn các dạng có trước. Chúng tôi không biết
các dạng có trước này như thế nào, nhưng có thể là
RNA.
RNA tương tựa như DNA, nhưng đơn giản hơn và
không có cấu trúc xoắn kép. Các đoạn RNA ngắn có
khả năng tái tạo như DNA. Rồi từ từ có thể cấu tạo
ra DNA. Chúng ta không thể tạo ra các hóa chất
(acid) di truyền và kiểm soát sự sống trong phòng thí
nghiệm, (các chất này tìm thấy trong tất cả sinh vật, kể
luôn vi khuẩn.) Nhưng nếu có thời gian 500 triệu năm
và các đại dương bao phủ hầu hết mặt đất, có thể
có một xác suất hợp lý để cấu tạo thành phân tử
RNA.
Khi DNA tự tái tạo, sẽ có những lầm lỗi ngẫu nhiên,
có khả năng gây ra tai hại hoặc tử vong. Một số sẽ
trung tính, sẽ không ảnh hưởng đến chức năng của
gen. Một vài sai sót sẽ có lợi cho sự tồn tại của các
87
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
loài sinh vật. Luật tự nhiên của Darwin sẽ chọn lựa
những sai sót này.
Quá trình tiến hóa sinh học lúc khởi đầu rất chậm.
Cần khoảng hai tỷ rưỡi năm trước khi tế bào đầu
tiên tiến hóa thành các sinh vật đa tế bào. Rồi phải
mất gần một tỷ năm nữa để số loài này tiến hóa
thành cá. Một số cá tiến hóa thành động vật có vú.
Từ đó, hình như, diễn trình tiến hóa bắt đầu gia tốc.
Mất khoảng một trăm triệu năm để những động vật
có vú sơ khai tiến hóa đến con người. Lý do là
những động vật có vú sơ khai đã được cấu tạo
những phiên bản của các cơ quan thể xác mà chúng
ta đang có. Vì vậy, mọi cần thiết đòi hỏi để tiến hóa
từ động vật có vú đến con người được dễ dàng và
tinh vi.
Rồi khi diễn trình tiến hóa của loài người đến một
giai đoạn rắc rối, mang tầm quan trọng tương đương
với sự phát triển DNA. Đây là sự phát triển ngôn
ngữ, nhất là ngôn ngữ viết. Nghĩa là, thông tin có thể
lưu truyền từ thế hệ này sang nhiều thế hệ về sau,
thay vì truyền thông qua DNA. Chúng ta đã phát hiện
ra một số thay đổi trong DNA của loài người do quá
trình tiến hóa sinh học mang đến suốt 10,000 năm
ghi lại trong lịch trình, nhưng số lượng kiến thức lưu
truyền nhiều thế hệ đã gia tăng quá nhiều. Tôi đã
viết sách để kể cho bạn nghe những điều đã học hỏi
về vũ trụ qua sự nghiệp lâu dài với tư cách một nhà
khoa học. Khi làm như vậy, tôi đang chuyển kiến
88
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
thức từ bộ não của mình sang trang giấy để bạn có
thể đọc.
Nguyên tố DNA cư ngụ trong noãn sào và tinh trùng,
chứa đựng khoảng ba tỷ cặp nitrogen cơ bản. Tuy
nhiên, nhiều thông tin được mã hóa trong trình tự
này dường như dư thừa hoặc không hoạt động. Vì
vậy, tổng số lượng thông tin hữu ích trong gen
chúng ta có thể là 100 triệu mảnh mẫu (bit). Một
mảnh mẫu thông tin là câu trả lời cho câu hỏi
có/không. Ngược lại, một cuốn tiểu thuyết bìa giấy
có thể chứa khoảng hai triệu mảnh mẫu. Do đó, một
con người tương đương với khoảng 50 cuốn sách
Harry Potter. Một thư viện quốc gia, chứa khoảng
năm triệu cuốn sách hoặc khoảng 10 nghìn tỷ mảnh
mẫu. Số lượng thông tin truyền lại trong sách hoặc
qua internet nhiều gấp 100,000 lần trong DNA.
Điều quan trọng là thông tin trong sách có thể thay
đổi và cập nhật nhanh hơn nhiều. Con người đã mất
vài triệu năm để tiến hóa từ loài vượn rất kém tiến
bộ, một loài vượn sơ khai. Trong thời gian đó, thông
tin hữu ích trong DNA của con người có lẽ chỉ thay
đổi vài triệu mảnh mẫu, vì vậy tốc độ tiến hóa sinh
học ở người khoảng một mảnh mẫu một năm.
Ngược lại, khoảng 50, 000 cuốn sách mới xuất bản
bằng tiếng Anh trong mỗi năm, mang theo hàng tỷ
mảnh mẫu thông tin. Dĩ nhiên, phần lớn thông tin
này là rác, không ích lợi gì cho bất kỳ hình dạng sống
nào. Nhưng, dù vậy, tỷ lệ thông tin hữu ích có thể
89
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
thu thập thêm lên đến hàng triệu, nếu không là hàng
tỷ, cao gấp bội so với DNA.
Điều này có nghĩa chúng ta đã bước vào một giai
đoạn tiến hóa mới. Lúc đầu, quá trình tiến hóa do
thiên nhiên chọn lựa, từ những đột ứng ngẫu nhiên.
Giai đoạn theo thuyết Darwin này kéo dài khoảng ba
tỷ rưỡi năm để sinh sản ra con người, loại sinh vật
biết phát triển ngôn ngữ để trao đổi và lưu truyền
thông tin. Nhưng trong 10,000 năm qua, chúng ta ở
trong một giai đoạn có thể gọi là truyền tải thông tin
bên ngoài. Trong khi, thông tin bên trong được
truyền lại cho các thế hệ sau bằng DNA, đã thay đổi
phần nào. Những lưu trữ thông tin bên ngoài và
những hình thức lưu trữ lâu dài khác, đã gia tăng
kinh khủng.
Một số người sử dụng thuật ngữ “tiến hóa” chỉ dùng
cho sự di truyền vật chất từ bên trong (di truyền theo
DNA) và phản đối việc tiến hóa được áp dụng cho
thông tin truyền lưu bên ngoài. Tôi thiết tưởng là một
quan điểm quá hạn hẹp. Chúng ta lớn hơn là gen
của chúng ta. Chúng ta có thể không mạnh mẻ hoặc
thông minh hơn tổ tiên thời thượng cổ, nhưng điều
phân biệt giữa họ và chúng ta là kiến thức mà chúng
ta đã tích lũy trong 10,000 năm qua, nói kỹ hơn là
300 trăm năm qua. Tôi nghĩ, thật là hợp lý, nếu có
một tầm nhìn sâu rộng hơn, bao gồm di truyền thông
tin bên ngoài cũng như trong DNA, cho quá trình tiến
hóa của nhân loại.
90
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Lịch thời gian cho sự tiến hóa trong giai đoạn truyền
tải thông tin bên ngoài là phần lịch thời gian để tích
lũy thông tin. Trong quá khứ, phần lịch này đã từng
chiếm hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm,
nhưng bây giờ, phần lịch thời gian này thu ngắn
xuống khoảng 50 năm hoặc ít hơn. Mặt khác, bộ não
mà chúng ta xử lý thông tin thu thập chỉ phát triển
theo lịch thời gian của thuyết Darwin, mất hàng trăm
ngàn năm. Sự kiện này bắt đầu gây ra vấn đề. Vào
thế kỷ 18, một người có thể đọc hết tất cả những
cuốn sách đã viết, nhưng giờ đây, nếu có thể đọc
hết một cuốn sách mỗi ngày, sẽ phải mất hàng chục
ngàn năm để đọc hết những cuốn sách trong thư
viện quốc gia. Đến lúc đọc xong, đã có nhiều sách
khác đã viết, đã in.
Điều này có nghĩa, không ai có thể nắm vững hơn
một góc nhỏ kiến thức của nhân loại. Người ta phải
chuyên môn hóa chia ra nhiều lãnh vực, mỗi ngày
mỗi nhiều và hạn hẹp. Có thể sẽ là một hạn chế lớn
trong tương lai. Chắc chắn chúng ta không thể tiếp
tục lâu dài với tốc độ phát triển kiến thức theo cấp
lũy tiến như đã có trong 300 năm qua, (tức là thế kỷ
18, 19, 20.) Sẽ là một hạn chế nguy hiểm, nhất là cho
những thế hệ tương lai, vì chúng ta ngày nay vẫn
còn bản năng, đặc biệt là bản năng xung động, hung
tợn của người tiền sử trong hang động. Tính hung
hăng, dưới hình thức chinh phục hoặc giết người
khác, cướp giựt phụ nữ, thực phẩm, đã giúp cho sự
sinh tồn nào đó cho đến nay. Nhưng đến đây, tính
đó có thể tiêu diệt toàn bộ nhân loại hoặc phần lớn
91
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sự sống trên địa cầu. Chiến tranh nguyên tử vẫn là
mối hung hiểm nhất trước mắt, và còn nhiều tai họa
khác, chẳng hạn, tung ra một loại vi khuẩn có khả
năng làm biến đổi gen, hoặc hiệu quả của khi hậu
không được ổn định.
Không còn đủ thời giờ chờ đợi sự tiến hóa của
Darwin, làm cho con người thống thái hơn, nhất là
bản chất tốt đẹp hơn. Nhưng chúng ta đang bước
vào một giai đoạn mới, có thể gọi là “sự tiến hóa tự
thiết kế,” ví dụ, con người có thể thay đổi và cải thiện
DNA. Hiện nay, chúng ta đã thiết lập được bản đồ
DNA, có nghĩa, con người đọc được “cuốn sách của
sự sống,” cũng có nghĩa chúng ta có thể bắt đầu viết
lại hoặc sửa chữa những lầm lỗi trong DNA. Trước
hết, những thay đổi chỉ giới hạn trong việc sửa chữa
những khiếm khuyết di truyền, như xơ hóa (fibrosis:
sự thay thế mô bình thường bằng mô sẹo,) và loạn
dưỡng cơ (muscular dystrophy), được kiểm soát bởi
các gen đơn lẻ, dễ xác định và sửa đổi. Các phẩm
chất khác như trí thông minh, được kiểm soát bởi
một số lượng lớn gen, sẽ khó khăn hơn để xác định
và tìm thấy mối liên hệ giữ chúng nó. Tuy vậy, chắc
chắn rằng trong thế kỷ này, người ta sẽ khám phá
cách sửa đổi trí thông minh và bản năng hiếu chiến.
Lật pháp có thể được thông qua để cấm đoán ngăn
cản kỹ thuật xây dựng tính di truyền trong DNA.
Nhưng chắc chắn có một số nhà khoa học không
cưỡng được sự cám dỗ để cải thiện các đặc tính của
người, như độ lớn của trí nhớ, khả năng chống bệnh
92
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tật và thời gian sống lâu. Nếu có một siêu nhân như
vậy xuất hiện, sẽ tạo ra vấn đề lớn về chính trị, đối
với những người không được cải thiện và những
người không có khả năng cạnh tranh.
Có thể đoán rằng, con người sẽ chết đi hoặc không
còn đóng vai trò quan trọng, thay vào đó, một chủng
tộc sinh vật mới, biết tự thiết kế, tự cải thiện bản thân
với tốc độ càng ngày càng nhanh. Nếu loài người
quản trị được tự thiết kế lấy sự sống, giảm bớt
những nguy cơ bị hủy diệt, sẽ có khả năng lan rộng
và xâm chiếm các hành tinh và ngôi sao khác. Tuy
nhiên, du hành ngoài không gian trên đường dài,
những dạng sống dựa vào hóa học sẽ gặp khó khăn,
như con người dựa trên DNA. Tuổi tác sinh tồn tự
nhiên của những sinh vật hiện nay là quá ngắn so
với thời gian cần du hành ngoài vũ trụ. Theo thuyết
Tương Đối, không có gì di chuyển nhanh hơn ánh
sáng, theo vậy, chuyến đi và về từ trái đất đến ngôi
sao gần nhất sẽ mất ít nhất tám năm; nếu đi đến
trung tâm ngân hà, sẽ mất khoảng 50,000 năm.
Trong khoa học viễn tưởng, họ vượt vấn đề khó
khăn này bằng cách làm cong chiều không gian,
hoặc du hành xuyên qua các chiều không gian. Tôi
không nghĩ, những việc này có thể thực hiện được,
cho dù trí khôn có thông minh đến múc nào. Trong
lý thuyết tương đối, nếu có ai du hành nhanh hơn
tốc độ ánh sáng, người đó có thể du hành ngược
thời gian. Sự kiện này tạo ra vấn đề, con người có
thể quay lại để sửa đổi quá khứ. Người ta cũng chờ
đợi sẽ có một số lớn khách du lịch đến từ tương lai,
93
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tò mò thăm viếng cách sống cổ xưa, kiểu cũ của
chúng ta.
Có thể sử dụng kỹ thuật di truyền để cho phép sự
sống dựa vào DNA được sinh tồn vô thời hạn, hoặc
tối thiểu 100,000 năm. Nhưng có một cách dễ hơn,
nằm trong khả năng của chúng ta, là gửi máy móc
đi vào vũ trụ. Có thể chế tạo máy móc tồn tại lâu dài
để có thể du hành giữa các ngôi sao. Khi máy móc
đến một ngôi sao mới, có thể hạ cánh, tìm kiếm và
thu thập nhiều vật liệu để chế tạo nhiều máy móc tân
kỳ hơn, để có khả năng đi xa đến nhiều ngôi sao
khác. Những máy móc này sẽ có dạng sống mới,
dựa trên các thành phần cơ khí và điện tử, hơn là
các đại phân tử (macromolecule). Chúng sẽ từ từ
thay thế DNA-cơ bản sự sống, giống như DNA đã
thay thế một dạng sống trước đó.
…oOo…
Cơ hội sẽ bắt gặp một số dạng sống ngoài hành tinh
khi chúng ta du hành khám phá ngân hà, là gì? Nếu
lập luận theo lịch thời gian về sự sống trên trái đất
là đúng, thì chắc chắn sẽ có nhiều ngôi sao khác có
hành tinh hội đủ điều kiện cho sự sống trên đó. Một
số hệ thống sao đã thành hình trước trái đất vào
khoảng năm tỷ năm, như vậy, tại sao trong ngân hà
không lòi ra các dạng sống cơ học hoặc sinh học tự
thiết kế? Tại sao trái đất chưa thấy ai thăm viếng,
thậm chí, chưa trở thành thuộc địa?
94
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Nhân tiện đây, tôi xin giảm lược bớt những gợi ý
UFO, phi thuyền, chứa những sinh vật ngoài không
gian, vì tôi nghĩ, nếu có sự viếng thăm của người
hành tinh, việc này sẽ xảy ra rõ ràng, và có lẽ, cũng
gay cấn hơn. Nhưng tại sao chúng ta chưa được ai
đến thăm hỏi? Có thể xác suất tự nhiên cho sự sống
tự xuất hiện ở mức độ rất thấp, đến độ chỉ xảy ra
trên trái đất là hành tinh duy nhất trong ngân hà hoặc
vũ trụ có thể quan sát được. Một khả năng khác, nếu
có một xác suất hợp lý để hình thành các hệ thống
tự tái tạo, như tế bào, nhưng hầu hết các dạng sống
này không phát triển trí khôn. Chúng ta thường nghĩ
về sự sống có trí khôn như hệ quả tất yếu của quá
trình tiến hóa, nhưng nếu không phải như vậy, thì
sao? Nguyên tắc Nhân học cảnh báo chúng ta để đề
cao cảnh giác về những lập luận như vậy. Có nhiều
khả năng quá trình tiến hóa là một diễn tiến ngẫu
nhiên, với trí khôn chỉ là một trường hợp trong số
lượng lớn có thể xảy đến.
Cũng không được rõ ràng, nếu trí khôn có bất kỳ
năng suất nào để tồn tại lâu dài. Vi trùng, và những
sinh vật đơn bào khác có thể sống tiếp nếu tất cả
những sự sống khác bị hủy diệt bởi hành động của
chúng ta. Có lẽ, xét theo lịch tiến hóa, sinh vật với trí
khôn là sự sống khó phát triển nhất trên trái đất, vì
phải mất một thời gian rất dài, hai tỷ rưỡi năm, để
một đơn tế bào hóa thành đa tế bào, vốn dĩ là tiền
thân cần thiết của sinh vật có trí khôn. Đây là một
phần nhỏ trong tổng số lượng thời gian trước khi mặt
trời nổ tung, vì vậy rất phù hợp giả thuyết: xác suất
95
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
để sự sống phát triển trí khôn là thấp. Trong trường
hợp này, chúng ta có thể mong đợi tìm thấy nhiều
dạng sống khác trong ngân hà, nhưng khó tìm thấy
sự sống có trí khôn.
Còn một cách khác, nếu sự sống có thể không phát
triển đến giai đoạn có trí khôn, khi một tiểu hành tinh
hoặc sao chổi va chạm vào hành tinh khác. Năm
1994, chúng tôi quan sát vụ va chạm của một sao
chổi Shoemaker-Levy với Sao Mộc, tạo ra một loạt
quả cầu lửa khổng lồ. Người ta cho rằng, một vụ va
chạm của một vật thể nhỏ hơn trái đất, vào khoảng
66 triệu năm trước, là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt
chủng của loài khủng long.
Một số động vật nhỏ có vú ban đầu còn sống sót,
nhưng bất kỳ thứ gì lớn như con người gần như
chắc chắn bị xóa sổ. Khó có thể nói, những vụ va
chạm như vậy xảy ra thường xuyên như thế nào,
nhưng trung bình, phỏng đoán hợp lý, có thể là 20
triệu năm xảy đến một lần. Nếu con số này đúng, có
nghĩa sự sống có trí khôn trên trái đất đã phát triển
nhờ may mắn không có vụ va chạm lớn xảy ra trong
66 triệu năm qua. Các hành tinh khác trong ngân hà,
nơi có sự sống đang tiến hóa, có thể đã không có
cơ hội để sự sống trí khôn phát triển trong thời gian
lâu dài vì sự va chạm xảy ra quá sớm.
Khả năng thứ ba là có một xác suất hợp lý để sự
sống thành hình và tiến hóa thành những sinh vật
thông minh, nhưng hệ thống trở nên không ổn định
khiến cho sự sống có trí khôn bị hủy diệt. Đây là một
96
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
kết luận bi quan, tôi rất hy vọng sẽ không thành sự
thật.
Tôi thích khả năng thứ tư hơn, có những dạng sống
có trí khôn ngoài kia trong vũ trụ nhưng chúng ta đã
chưa nhận thấy. Năm 2015, tôi tham gia vào việc
khởi động chương trình “Sáng kiến lắng nghe những
đột phá” (Breakthrough Listen Initiatives.) Chương
trình này sử dụng các quan sát vô tuyến để tìm sự
sống có trí khôn ngoài trái đất được các cơ sở ‘stateof-the-art’, hào phóng tài trợ và hàng ngàn giờ dành
riêng cho kính thiên văn vô tuyến trải nghiệm. Đây
là một chương trình nghiên cứu khoa học lớn nhất
từ trước đến nay, nhằm tìm kiếm bằng chứng về các
nền văn minh khác trong vũ trụ.
Thông điệp Đột phá là một cuộc thi đua quốc tế
nhằm tạo ra những thông điệp mang khả năng cho
những nền văn minh tiên tiến có thể đọc hoặc lãnh
hội. Nhưng chúng ta cần phải lưu ý việc nhận được
hồi đáp cho đến khi có thể phát triển xa hơn. Gặp
gỡ một nền văn minh tiên tiến khác, ở giai đoạn hiện
tại của con người, có thể tương tựa như thổ dân lần
đầu tiên gặp ông Columbus. Tôi không tin, họ nghĩ
rằng họ sẽ khắm khá hơn.
97
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Có Thể Nào Dự Đoán Được
Tương Lai?
Vào thời cổ đại, hình như thế giới có vẻ khá bất
thường. Thảm họa như lũ lụt, bệnh dịch, động đất,
và núi lửa thường xảy ra không báo trước hoặc
không có lý do rõ ràng. Người nguyên thủy tin rằng
những hiện tượng tự nhiên (thiên nhiên) như vậy là
do một nhóm thần thánh nam nữ, cư xử thất thường,
hành động quái dị. Không biết cách nào dự đoán họ
sẽ làm gì. Hy vọng duy nhất để giành được lòng ưu
ái của họ là quà tặng và cầu xin. Ngày nay, vẫn còn
nhiều người giữ một phần nào niềm tin này để cố
gắng cầu may vận hên hoặc tránh né việc xui xẻo.
Họ khấn sẽ sống xử thế hiền lành, tử tế hơn nếu họ
có thể đạt được điểm học hạng A hoặc có thể thi đậu
bằng lái xe.
Rồi, dần dần, con người phải tự nhận ra, có những
quy luật nhất định trong hành vi của tự nhiên. Những
quy luật này xuất hiện rõ rệt nhất trong sự vận
chuyển của các thiên thể trên bầu trời. Vì vậy, Thiên
văn học là ngành khoa học đầu tiên được phát triển
98
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sớm. Được Newton đặt cơ sở toán học vững chắc
hơn 300 năm trước, chúng ta vẫn sử dụng thuyết
hấp lực của ông để dự đoán sự di động của hầu hết
các thiên thể. Theo ví dụ của Thiên văn học, người
ta nhận ra các hiện tượng tự nhiên khác cũng tuân
theo các quy luật khoa học nhất định. Điều này dẫn
đến ý tưởng về thuyết Xác Định (Determinism) khoa
học, dường như được nhà khoa học người Pháp
Pierre-Simon Laplace công khai diễn đạt. Tôi muốn
trích dẫn nguyên văn những lời nói của Laplace,
nhưng ông giống như nhà văn Proust thường viết
những câu văn quá dài đầy phức tạp và quá độ. Vì
vậy, tôi quyết định diễn giải lại đoạn trích dẫn. Thực
tế những gì Laplace nói là ‘nếu tại một thời điểm,
chúng ta biết được vị trí và tốc độ của các hạt nhân
trong vũ trụ, chúng ta sẽ có thể tính trước được tác
động của chúng ở bất kỳ thời điểm nào khác trong
quá khứ hoặc tương lai.’ Có câu chuyện có thể đã
được bịa ra: Khi Napoléon hỏi Laplace, làm thế nào
Thượng Đế đã hòa nhập vào hệ thống này? Ông ta
trả lời, “Thưa ngài, tôi không cần giả thuyết đó.” Tôi
không nghĩ, Laplace đã tuyên bố: Thượng Đế không
tồn tại. Chỉ có nghĩa, Thượng Đế không can thiệp để
phá vỡ các quy luật khoa học. Đó là quan điểm của
các khoa học gia. Luật khoa học sẽ không còn là luật
khoa học, nếu chỉ được tiến hành khi một đấng siêu
nhiên nào đó quyết định để mọi thứ tự vận hành và
không can thiệp vào.
Ý tưởng cho rằng từ một vị trí trong vũ trụ ở một thời
điểm rõ ràng sẽ xác định được tình trạng ở mọi thời
điểm khác, trở thành nguyên lý trung tâm khoa học
kể từ thời Laplace. Ngụ ý, chúng ta có thể dự đoán
được tương lai, ít nhất là về nguyên tắc. Tuy nhiên,
trong thực tế, khả năng dự đoán tương lai bị giới hạn
một cách nghiêm trọng bởi độ phức tạp của các
phương trình, mà thực chất của chúng là sự hỗn
99
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
loạn. Những ai đã xem phim Jurassic Park sẽ nhận
ra, một sự xáo trộn nhỏ ở một nơi có thể gây ra sự
thay đổi lớn ở một nơi khác. Một con bướm vỗ cánh
ở Úc Châu có thể gây cơn mưa xuống công viên
Central Park ở New York. Vấn đề là, nó không thể
lập lại. Lần sau, khi con bướm vỗ cánh sẽ tạo ra hiện
tượng khác, có khả năng ảnh hưởng đến thời tiết.
Yếu tố hỗn loạn này là lý do tại sao việc dự đoán
thời tiết không thể hoàn toàn đáng tin cậy.
Bất kể những khó khăn thực tế này, thuyết Xác Định
khoa học vẫn là giáo điều chính thức trong suốt thế
kỷ 19.
Tuy nhiên, qua thế kỷ 20, có hai phát triển cho thấy
tầm nhìn của Laplace, về một dự đoán tương lai
hoàn chỉnh, không thể thực hiện. Phát triển thứ nhất
là cơ học lượng tử (quantum mechanics). Nhà vật lý
người Đức, Max Planck, năm 1900, đã đưa ra một
giả thuyết đặc biệt, để giải quyết một nghịch lý quan
trọng. Theo những ý tưởng cổ điển từ thời Laplace,
một vật nóng, giống một miếng kim loại nung đỏ, sẽ
phát ra bức xạ. Nó sẽ mất dần năng lượng trong
sóng vô tuyến, tia hồng ngoại, ánh sáng có thể nhìn
thấy, tia cực tím, tia X-ray, và tia gamma, trên cùng
một tốc độ. Điều này không chỉ có nghĩa, chúng ta
sẽ chết vì ung thư da, mà mọi thứ trong vũ trụ sẽ ở
cùng một nhiệt độ, chuyện này rõ ràng sẽ không bao
giờ xảy ra.
Trong khi, Planck cho thấy, người ta có thể tránh
được thảm họa nếu từ bỏ ý tưởng, số lượng bức xạ
có thể có bất kỳ giá trị nào, thay vào đó, cho rằng
bức xạ chỉ xuất hiện trong dạng những gói, hoặc
lượng tử có kích thước nhất định. Hơi giống việc
chúng ta có thể mua đường cát trong siêu thị, bằng
những gói cân nặng theo kí lô gam. Năng lượng
100
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
trong các gói hoặc lượng tử đối với tia cực tím và tia
X-ray cao hơn tia hồng ngoại và ánh sánh có thể
nhìn thấy. Có nghĩa, trừ trường hợp một vật thể rất
nóng như mặt trời, nó sẽ không đủ năng lượng để
phát ra, dù chỉ một lượng tử tia cực tím hoặc tia Xray. Đó là lý do chúng ta không bị cháy nắng khi
uống một tách cà phê.
Planck xem ý tưởng lượng tử chỉ là một thủ thuật
toán học, không dính líu bất kỳ một vật lý thực sự
nào, bất kể điều đó có nghĩa là gì. Tuy nhiên, các
nhà vật lý bắt đầu tìm ra một sinh hoạt khác, chỉ có
thể giải thích bằng các số lượng có giá trị riêng biệt
hoặc đã được lượng tử hóa hơn là các giá trị liên tục
biến đổi. Ví dụ, người ta tìm thấy, các hạt cơ bản
sinh hoạt giống như các đỉnh nhỏ, xoay quanh một
cái trục. Nhưng số lượng vòng quay chẳng có giá trị
gì, cho đến khi đạt được bội số của một đơn vị cơ
bản. Vì đơn vị này rất nhỏ, người ta khó nhận thấy,
một đỉnh bình thường chậm dần theo tiến trình rất
nhanh của các giai đoạn rời rạc, không phải là một
tiến trình liên tục. Nhưng đối với những đỉnh nhỏ của
nguyên tử, bản chất rời rạc của vòng quay rất quan
trọng.
Mất một thời gian trước khi mọi người nhận ra tác
động của hành vi lượng tử này đối với thuyết Xác
Định. Mãi đến năm 1927, Werner Heisenberg, một
vật lý gia người Đức khác, trình bày cho biết không
thể đo chính xác một lượt vị trí và tốc độ của một hạt
quay. Để quan sát một hạt, phải chiếu ánh sáng vào
nó. Nhưng công trình nghiên cứu của Planck xác
nhận người ta không thể dùng số lượng nhỏ ánh
sáng một cách tùy tiện. Phải dùng ít nhất một lượng
tử. Chiếu sáng sẽ làm xáo trộn hạt và thay đổi vận
tốc của nó, khiến không thể đoán trước được. Để đo
chính xác vị trí của hạt, cần phải sử dụng ánh sáng
101
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
có sóng ngắn, như tia cực tím, tia X-ray, hoặc tia
gamma. Nhưng một lần nữa, theo công trình của
Planck, lượng tử của những dạng ánh sáng này có
năng lượng cao hơn năng lượng trong ánh sáng
nhìn thấy, do đó sẽ làm xáo trộn tốc độ của hạt nhiều
hơn. Đây là tình trạng không thể thành công: Càng
cố đo chính xác vị trí của hạt, càng biết kém chính
xác về vận tốc của nó, ngược lại, nếu muốn biết vận
tốc chính xác, sẽ mất đi sự chính xác của vị trí. Điều
này được tóm lược trong nguyên lý Bất Định
(Uncertainty Principle) do Heisenberg đã thành lập;
độ không chính xác của vị trí một hạt, “nhân” với độ
không bảo đảm vận tốc của nó, luôn luôn lớn hơn
một số lượng, gọi là hằng số Planck, “chia” cho hai
lần khối lượng của hạt.
Quan niệm của Laplace về thuyết Xác Định liên
quan đến tìm biết vị trí và tốc độ của các hạt tại một
thời điểm trong vũ trụ, đã bị phá vỡ nghiêm túc bởi
nguyên lý Bất định của Heisenberg. Làm sao người
ta có thể dự đoán tương lai, khi không thể đo chính
xác cả hai: vị trí và tốc độ của các hạt ở thời điểm
hiện tại? Cho dù chúng ta có một máy tính thần sầu
đến đâu, nếu đưa vào các dữ kiện tệ hại, sẽ nhận
được những dự đoán tệ hại hơn.
Ông Einstein rất không hài lòng về sự ngẫu nhiên
hiện hiện trong tự nhiên. Quan điểm của ông được
tóm tắt trong câu nói nổi tiếng, “Thượng Đế không
chơi trò xúc xắc.” Hình như ông cảm nhận được sự
không chắc chắn chỉ tạm thời, còn có một thực tế
khác tiềm ẩn, trong đó có thể xác định rõ ràng vị trí
và tốc độ của các hạt và sẽ có thể tiến hóa trong các
quy luật xác định theo tinh thần Laplace. Có thể,
Thượng Đế biết thực tế này, nhưng lượng tử của
ánh sáng sẽ ngăn cản chúng ta nhìn thấy nó, ngoại
trừ qua một tấm gương trong bóng tối.
102
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Quan điểm của Einstein gọi là thuyết Biến Ẩn
(hidden variable theory). Thuyết này có vẻ rõ ràng
nhất để tổ hợp nguyên lý Bất Định vào vật lý. Tạo
nên cơ sở cho bức ảnh tinh thần về vũ trụ được sự
công nhận của nhiều khoa học gia và hầu hết các
triết gia khoa học. Nhưng thuyết Biến Ẩn này sai
lầm. Nhà vật lý người Anh John Bell, đã nghĩ ra một
thử nghiệm có thể làm sai lạc các lý thuyết Biến Ân,
khi thí nghiệm được tiến hành cẩn thận, kết quả
không phù hợp với các biến ẩn. Do đó, hình như
ngay cả Thượng Đế cũng bị ràng buộc bởi nguyên
lý Bất Định và cũng không thể biết cả vị trí và tốc độ
của một hạt. Tất cả bằng chứng đều chỉ ra Thượng
Đế là một tay bài bạc khôn ngoan, quăng xúc xắc
vào mọi trường hợp có thể xảy ra.
Các khoa học gia khác đã sẵn sàng hơn Einstein để
sửa đổi quan điểm cổ điển thế kỷ 19 về thuyết Xác
Định. Một lý thuyết mới, cơ học lượng tử (quantum
mechanics), vượt qua thuyết của Heisrenberg, do
ông Erwin Schrodinger từ Áo và ông Paul Dirac từ
Anh xây dựng. Dirac là người tiền nhiệm của tôi
nhưng là giáo sư Lucasian ở Cambridge. Mặc dù cơ
học lượng tử đã hiện diện gần 70 năm, nhưng nhìn
chung, chưa được thấu hiểu và đánh giá đúng mức,
kể cả những người sử dụng nó để tính toán. Tuy
vậy, thuyết mới này khiến tất cả chúng ta quan tâm,
vì nó hoàn toàn khác với bức ảnh cổ điển về vũ trụ
vật chất và bản thân thực tại. Trong cơ học lượng
tử, các hạt không có vị trí và tốc độ được xác định
rõ ràng, thay vào đó, chúng được đại diện bằng cái
gọi là hàm sóng, (một loại mô tả bằng toán học về trạng thái
lượng tử của một hệ thống). Đây là một số lượng tại mỗi
điểm của không gian. Kích thước của hàm sóng cho
xác suất tìm thấy hạt ở vị trí đó. Tốc độ mà hàm sóng
thay đổi từ điểm này sang điểm kia cho biết tốc độ
của hạt. Từ đó, người ta có thể có một hàm sóng rất
103
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mạnh trên một vùng nhỏ. Có nghĩa sự không chắc
chắn của vị trí là nhỏ. Nhưng hàm sóng sẽ thay đổi
rất nhanh gần đỉnh, lên bên này và xuống bên kia.
Do đó, sự không bảo đảm về tốc độ sẽ lớn. Tương
tựa, người ta có thể có các hàm sóng nơi sự không
bảo đảm của tốc độ nhỏ nhưng sự không chắc chắn
trong vị trí sẽ lớn.
Hàm sóng chứa tất cả những gì người ta biết về hạt,
vị trí và tốc độ. Nếu biết hàm sóng tại một thời điểm,
thì giá trị của nó tại các thời điểm khác được xác
định bởi phương trình Schrodinger. Như vậy, chúng
ta vẫn có một loại thuyết xác định, nhưng không phải
như thuyết Xác Định của Laplace đã vạch ra. Nghĩa
là, thay vì có thể dự đoán vị trí và tốc độ của các hạt,
những gì chúng ta có thể dự đoán là hàm sóng. Điều
này dẫn đến ý nghĩa, chúng ta chỉ có thể dự đoán
một nửa những gì mà theo quan điểm cổ điển của
thế kỷ 19 đã mong muốn.
Mặc dù, cơ quan lượng tử đưa đến sự không chắn
chắn khi cố gắng dự đoán cả vị trí và tốc độ riêng rẽ,
nhưng nó vẫn cho phép dự đoán một cách chắc
chắn sự kết hợp chung giữa vị trí và tốc độ. Tuy vậy,
ngay cả mức độ chắc chắn này dường như đang bị
đe dọa bởi những phát triển gần đây. Vấn đề rắc rối
nảy sinh vì hấp hực có thể làm cong không gian-thời
gian đến mức có thể có những vùng không gian
không thể quan sát. Những vùng như vậy là phần
bên trong của lỗ đen. Có nghĩa chúng ta không thể,
kể cả nguyên tắc, quan sát các hạt bên trong một lỗ
đen, không thể nào đo được vị trí và vận tốc của
chúng. Vấn đề sẽ là liệu chuyện này có tạo thêm
nhiều trở ngại để dự đoán ngoài việc đã tìm thấy
trong cơ học lượng tử.
104
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tóm lại, quan điểm cổ điển của Laplace đưa ra là sự
chuyển động trong tương lai của các hạt hoàn toàn
được xác định, nếu biết được vị trí và vận tốc của
chùng tại một thời điểm. (Có thể dự đoán tương lai). Quan
điểm này được sửa đổi, khi Heisenberg khám phá
nguyên lý Bất Định, cho rằng người ta không thể biết
luôn cả hai vị trí và vận tốc của hạt một cách chính
xác. Tuy nhiên, vẫn có thể dự đoán được sự kết hợp
giữa vị trí và tốc độ. Nhưng có lẽ, ngay cả khả năng
dự đoán giới hạn này cũng có thể biến mất nếu tính
đến các lỗ đen.
105
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Có Gì Trong Lỗ Đen?
Người ta nói rằng, sự thật đôi khi còn lạ lùng hơn cả
hư cấu, và không nơi nào điều này đúng hơn trong
trường hợp những Lỗ Đen. Chúng là hiện tượng kỳ
dị hơn hết thảy những gì mà các nhà văn khoa học
viễn tưởng có thể mơ đến, nhưng chúng thực sự là
sự kiện thực tế trong khoa học.
Cuộc hội thảo đầu tiên về Lỗ Đen năm 1783 được
tổ chức bởi nhà khoa học-triết gia John Mitchell
(1724-1793), ở Cambridge. Ông lập luận như sau:
Nếu một người bắn ra một hạt, chẳng hạn như viên
đạn đại bác bắn thẳng lên trời, nó sẽ bị chậm lại bởi
hấp lực của trái đất. Sau cùng, viên đạn sẽ ngưng
lại, hết đi lên, và rơi xuống. Tuy nhiên, nếu vận tốc
ban đầu bắn lên nhanh và mạnh hơn một ‘trị số tới
hạn’ nào đó (tốc độ vượt hấp lực), gọi là vận tốc vượt
thoát, thì sức hút của trái đất sẽ không còn đủ mạnh
để hút hạt ngưng lại, nó sẽ tiếp tục bay cao. Vận tốc
vượt thoát vào khoảng hơn 11 kilô mét mỗi giây đối
với hấp lực trái đất và 617 kilô mét mỗi giây đối với
hấp lực của mặt trời. Cả hai vận tốc này đều nhanh
hơn viên đạn đại bác, nhưng so với tốc độ ánh sáng
thì thua xa. Ánh sáng đi 300, 000 kilô mét mỗi giây.
Nghĩa là, ánh sáng có thể vượt thoát sức hút của trái
đất và mặt trời một cách dễ dàng. Tuy nhiên, Mitchell
106
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
lập luận, có thể có những ngôi sao lớn hơn mặt trời,
có sức hút mạnh hơn sức thoát của ánh sáng.
Chúng ta không thể thấy được ngôi sao này, vì bất
kỳ ánh sáng nào của nó chiếu ra đều bị chính nó hút
ngược vào trong. Vì vậy, Mitchell gọi là những ngôi
sao tối, giờ đây chúng ta gọi là những Lỗ Đen.
Để tìm hiểu, chúng ta bắt đầu với hấp lực. Theo lý
thuyết tương đối rộng của Einstein, là thuyết về
không gian, thời gian và hấp lực. Sự sinh hoạt của
không gian và thời gian được điều khiển bởi một bộ
phương trình, gọi là phương trình Einstein, đã đưa
ra năm 1915. Mặc dù hấp lực là sức hút yếu nhất
được biết trong thiên nhiên, nó có hai ưu điểm chính
hơn những lực khác.
•
•
Thứ nhất, nó hoạt động trong một tầm dài.
Trái đất nằm trong quĩ đạo của mặt trời với
khoảng cách 93 triệu dặm. Mặt trời nằm
trong quĩ đạo của tâm điểm thiên hà với
khoảng cách 10, 000 năm tốc độ ánh sáng.
Ưu điểm thử hai, hấp lực luôn luôn hiện diện,
khác với điện lực hoặc mở ra hoặc tắt lại. Hai
đặc tính này có nghĩa, đối với một ngôi sao
lớn, lực hút giữa các hạt có thể chi phối tất
cả các lực khác và dẫn đến sự sụp đổ vì hấp
lực của nó.
Bất chấp những thực tế này, cộng đồng khoa học
gia đã chậm chạp để nhận ra những ngôi sao thật
lớn (hơn mặt trời) sẽ tự sụp đổ vì hấp lực quá mạnh
của chính nó và để tìm hiểu sinh hoạt của các ngôi
sao sụp đổ, sau đó, chuyện gì sẽ xảy ra. Thậm chí,
Albert Einstein đã viết trong luận văn năm 1939,
khẳng định những ngôi sao đó không thể sụp đổ bởi
hấp lực, vì vật thể chỉ có thể nén đến một mức nào
đó, không thể nén hơn nữa. Nhiều nhà khoa học đã
107
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
chia sẻ quan điểm tự tin này của Einstein. Nhưng
nhà khoa học Hoa Kỳ John Wheeler là ngoại lệ, trên
nhiều phương diện ông là anh hùng của lịch sử Lỗ
Đen. Trong quá trình làm việc của Wheeler từ 1950
– 1960, ông đã nhấn mạnh về nhiều ngôi sao sẽ dần
dần tự sụp đổ, và việc khám phá vấn đề này cần
được đặt ra cho lý thuyết vật lý. Ông cũng nhìn thấy
trước những thuộc tính của khối vật thể mà ngôi sao
tự sụp đổ thành hình. Đó là Lỗ Đen.
Trong đời sống bình thường của một ngôi sao, dài
khoảng nhiều tỷ năm, nó tự chống lại hấp lực của nó
bởi áp suất nhiệt gây ra từ quá trình hạt nhân chuyển
đổi khí Hydrogen thành khí Helium. Tuy vậy, cuối
cùng, ngôi sao sẽ cạn kiệt nhiên liệu nguyên tử, sẽ
tự co cụm lại. Trong vài trường hợp, nó có thể tự
biến bản thân thành những ngôi sao trắng còi (èo
uột), những dư thừa đông đặc của lõi sao. Tuy vậy,
Subrahmanyan Chanfrasekhar trong năm 1930 đã
chỉ ra khối lượng lớn nhất của ngôi sao trắng còi chỉ
khoảng chừng 1.4 lần mặt trời. Nhà vật lý Nga Lev
Landau đã tính toán một khối lượng tối đa tương tựa
cho ngôi sao hoàn toàn bằng neutron. (Tính ra chúng
ta có 4 loại ngôi sao: ngôi sao thường, ngôi sao trắng, ngôi sao
neutron, và ngôi sao lỗ đen.)
Số phận của vô số ngôi sao có khối lượng lớn hơn
ngôi sao trắng và ngôi sao neutron lớn nhất, sẽ ra
sao khi chúng kiệt quệ nhiên liệu nguyên tử? Vấn đề
này được Robert Oppenheimer điều tra, người nổi
tiếng về bom nguyên tử sau này. Trong một số bài
luận thuyết, cùng với George Volkoff và Hartland
Snyder, ông đã chỉ ra một ngôi sao như vậy không
thể chịu đựng được áp lực. Nếu người ta bỏ qua áp
lực, một ngôi sao đối xứng có hệ thống hình cầu sẽ
co cụm thành một điểm duy nhất có mật độ vô hạn.
Điểm như vậy gọi là điểm kỳ lạ. Hết tất cả học thuyết
108
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
về không gian của chúng ta đều được xây dựng trên
giả định không gian-thời gian là một thứ trơn tru và
gần như bằng phẳng, vì vậy sẽ bị phá vỡ ở những
điểm kỳ lạ, nơi độ cong của không gian-thời gian là
vô hạn. Trong thực tế, nó đánh dấu sự kết thúc của
không gian-thời gian. Đó là những gì Einstein cũng
tìm thấy nhưng không chịu tán thành.
Rồi Thế chiến thứ hai làm gián đoạn. Hầu hết các
khoa học gia, kể cả Robert Oppenheimer chuyển sự
quan tâm của họ qua vật lý nguyên tử. Vấn đề hấp
lực mất cơ hội rơi vào lãng quên. Sự chú ý đến chủ
đề này hồi sinh khi người ta khám phá ra các vật thể
ở xa được gọi là chuẩn tinh (quasar). Họ tìm thấy
chuẩn tinh thứ nhất, 3C273, năm 1963. Sau đó,
nhanh chóng khám phá ra nhiều chuẩn tinh khác.
Chúng rất sáng mặc dù ở rất xa trái đất. Các phương
pháp nguyên tử không thể tính đúng khả năng sản
xuất năng lượng của ngôi sao trắng, vì chúng chỉ
phóng ra một phần nhỏ năng lượng thuần túy. Cách
giải thích duy nhất còn lại ngôi sao tự hút hết năng
lượng vào trong và gây ra sụp đổ.
Sự tự sụp đổ vì hấp lực của ngôi sao được tái khám
phá. Khi sự việc này xảy ra, hấp lực của ngôi sao
hút tất cả những gì chung quanh vào bên trong. Ngôi
sao hình cầu co cụm lại thành một điểm có mật độ
vô hạn, điểm kỳ lạ. Và điều gì sẽ xảy ra cho ngôi sao
không đồng dạng hoặc hình cầu? Liệu sự phân phối
vật thể của ngôi sao không đồng đều này có thể gây
ra sự sụp đổ không đồng đều và không trở thành
điểm kỳ lạ? Trong bài báo đáng quan tâm năm 1965,
Roger Penrose cho biết, vẫn sẽ có điểm kỳ lạ, bằng
cách thực tế cho thấy hấp lực là sức hút. (Khi không
còn lực chống đỡ, háp lực mạnh sẽ hút hết ánh sáng vào trong
bản thân, co cụm thành một điểm.)
109
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Những phương trình của Einstein không thể xác
định được ở điểm kỳ lạ. Nghĩa là, tại điểm có mật độ
vô hạn, người ta không thể dự đoán được tương lai.
Điều này ngụ ý, những điều lạ lùng có thể xảy ra bất
cứ lúc nào khi một ngôi sao tự sụp đổ. Chúng ta sẽ
không bị ảnh hưởng bởi sự phân tích của dự đoán
nếu các điểm kỳ lạ không thể nhìn thấy. Nghĩa là,
chúng được che chắn từ bên ngoài. Penrose đề nghị
việc phỏng đoán kiểm duyệt vũ trụ: tất cả các điểm
kỳ lạ thành hình do sự sụp đổ của các ngôi sao hoặc
các thiên thể khác, đều bị che khuất tầm nhìn bên
trong các lỗ đen. Một lỗ đen là một khu vực nơi hấp
lực quá mạnh đến mức ánh sáng không thể thoát ra.
Sự phỏng đoán kiểm duyệt vũ trụ gần như chắc
chắn là thật, vì một số nỗ lực bác bỏ đã bị thất bại.
Khi John Wheeler giới thiệu thuật ngữ “lỗ đen” năm
1967, thay thế tên gọi trước đây “ngôi sao đông
lạnh.” Từ ngữ này nhấn mạnh phần còn lại của các
ngôi sao sụp đổ rất đáng quan tâm về bản thân của
chúng, bất kể chúng được tạo ra như thế nào. Thuật
ngữ mới này được chấp nhận ngay lập tức.
Từ bên ngoài, chúng ta không thể biết gì về bên
trong lỗ đen. Bất cứ thứ gì chúng ta nghĩ về nó, hoặc
nó thành hình như thế nào, các lỗ đen đều trông
giống nhau. John Wheeler nổi tiếng vì đưa ra
nguyên tắc “Một lỗ đen không có lông”.
Một lỗ đen có ranh giới gọi là chân trời ngang. Nơi
hấp lực mạnh đủ để kéo ánh sáng và giữ lại không
cho thoát ra. Bởi không có gì có thể đi nhanh hơn
ánh sáng, nên tất cả mọi thứ khác cũng bị hút vào.
Rơi xuyên qua chân trời ngang gần giống như chèo
ca-nô xuống thác Niagara. Khi đang ở trên đầu thác,
nếu chèo thật nhanh, có thể trốn thoát, nhưng một
khi đã đến mép thác, thì chắc chắn phải rớt xuống.
110
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Không cách nào trở lại. Khi chúng ta đến gần thác
đổ, luồng nước chảy nhanh và mạnh hơn. Nghĩa là,
sức kéo ở đầu ca-nô mạnh hơn ở sau đuôi. Có nguy
cơ ca-nô vỡ làm đôi. Ở lỗ đen cũng giống như vậy.
Nếu ta rớt về phía lỗ đen bằng chân, hấp lực sẽ kéo
chân mạnh hơn kéo đầu, vì chân gần lỗ đen hơn.
Hậu quả là ta sẽ bị kéo giản theo chiều dài, ép chặt,
kéo rút vào bên trong. Nếu ngôi sao đó có khối
lượng lớn hơn mặt trời gấp mấy lần, ta sẽ bị xé ra
từng mảnh nhỏ như cọng spaghetti, và dễ dàng bị
kéo đến đường chân trời. Tuy nhiên, nếu rơi vào một
lỗ đen rất lớn, với khối lượng lớn hơn một triệu lần
mặt trời, hấp lực kéo thân thể của ta vào vẫn giống
như vậy và sẽ bị kéo đến chân trời không mấy khó
khăn. Vì vậy, nếu muốn khám phá bên trong lỗ đen,
nên lựa lỗ đen lớn. Đó là lỗ đen lớn bốn triệu lần hơn
mặt trời nằm giữa thiên hà Milky Way.
Mặc dù sẽ không biết được điều gì chắc chắn khi
chúng ta rơi vào lỗ đen, nếu có ai nhìn từ xa, sẽ
không thấy chúng ta băng qua chân trời ngang. Thay
vào đó, sẽ thấy chúng ta chậm dần và lơ lững bên
ngoài. Hình ảnh chúng ta mờ dần, mờ dần, cho đến
khi hoàn toàn biến mất. Đối với sự hiểu biết của thế
giới, chúng ta đã vĩnh viễn ra đi.
Ngay sau khi con gái Lucy ra đời, tôi đạt được vinh
dự trong thời gian ngắn vì khám phá ra định lý bề
mặt. Nếu thuyết tương đối rộng đúng, và mật độ
năng lượng của khối lượng là dương, như thường
lệ, thì diện tích bề mặt của chân trời ngang, ranh giới
của một lỗ đen, có đặc tính luôn luôn gia tăng lớn
hơn khi có thêm vật chất hoặc bức xạ rơi vào lỗ đen.
Hơn thế nữa, nếu hai lỗ đen va chạm và hợp nhất
thành một lỗ, diện tích của chân trời ngang chung
quanh lỗ đen mới sẽ lớn hơn tổng số diện tích của
chân trời ngang chung quanh hai lỗ đen cũ. Thuyết
111
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
diện tích có thể kiểm tra bằng thực nghiệm bởi Laser
Interferometer Gravitational-Wave Observatory
(LIGO). Ngày 14 tháng 9, 2015, LIGO phát hiện sóng
hấp lực từ sự va chạm và hợp nhất của hai lỗ đen.
Từ dạng sóng, người ta có thể ước tính khối lượng
và góc động lượng của lỗ đen, bằng định lý ”khônglông”, những điều này xác định vùng chân trời (của
lỗ đen.)
Những đặc tính này cho thấy có sự tương đồng giữa
vùng chân trời ngang của lỗ đen và vật lý cổ điển
phổ biến, đặc biệt là khái niệm Entropy trong nhiệt
động học. Entrophy có thể xem là thước đo sự rối
loạn của một hệ thống, hoặc tương đương với sự
thiếu hiểu biết về trạng thái chính xác của nó. Định
luật nổi tiếng thứ hai của nhiệt động học cho biết
Entropy luôn luôn gia tăng theo thời gian. Khám phá
này là gợi ý đầu tiên về mối liên hệ quan trọng giữa
lỗ đen và vật lý.
Sự suy diễn giữa các tính chất của lỗ đen và các
định luật nhiệt động học có thể mở rộng. Luật thứ
nhất nhiệt động học xác nhận, một thay đổi nhỏ
trong Entropy của hệ thống, sẽ được đi kèm với sự
thay đổi tỷ lệ thuận trong năng luợng của hệ thống
đó. Brandon Carter, Jim Bardeen và tôi đã tìm ra một
luật tương tựa liên quan đến sự thay đổi khối lượng
trong một lỗ đen đối với diện tích của chân trời
ngang.
Ở đây, yếu tố tỷ lệ liên quan đến một đại lượng gọi
là hấp lực bề mặt, là cách đo lường độ mạnh của
trường hấp lực ở chân trời ngang. Nếu người ta
chấp nhận diện tích chân trời ngang tương tựa như
Entropy, thì dường như hấp lực bề mặt tương tựa
như nhiệt độ. Sự giống nhau được cũng cố bởi thực
tế là hấp lực bề mặt hoá ra đều như nhau tại tất cả
112
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
các điểm trên chân trời ngang, cũng như nhiệt độ sẽ
bằng nhau ở mọi nơi trong một vật thể ở trạng thái
cân bằng độ nhiệt.
Mặc dù, rõ ràng có sự tương đồng giữa Entropy và
diện tích chân trời ngang, chúng tôi không rõ làm
sao diện tích này có thể được xác định như Entropy
của chính lỗ đen.
Entropy của một lỗ đen nghĩa là gì?
Năm 1972, Jacob Bekenstein, sinh viên tốt nghiệp
đại học Princeton, đưa ra một đề nghị quan trọng.
Như thế này. Khi một lỗ đen bị sụp đổ bởi hấp lực,
sẽ nhanh chóng chuyển sang trạng thái ổn định,
được đặc trưng bởi ba tham số (parameter): Khối
lượng, Mômen động lượng, và điện tích. Điều này
chứng tỏ trạng thái sau cùng của lỗ đen không phụ
thuộc vào việc vật thể sụp đổ (Vật thể cấu tạo từ vật chất
hoặc không phải vật chất), cũng không nhất thiết là hình
cầu hoặc hình gì bất thường. Nói cách khác, một lỗ
đen thành hình có khối lượng, mômen động lượng,
và điện tích do bị sụp đổ của bất kỳ số lượng lớn
nào của các hình dạng khác nhau của vật chất. Vì
vậy, những gì có vẻ như cùng một lỗ đen có thể
được thành hình do sự sụp đổ của số lượng lớn của
các ngôi sao khác nhau.
Thật vậy, nếu bỏ qua các hiệu ứng lượng tử, số
lượng hình dạng sẽ vô hạn, vì lỗ đen có thể được
thành hình do sự sụp đổ của đám mây gồm số lượng
lớn vô hạn của các hạt khối lượng thấp. Nhưng số
lượng hình dạng thực sự có thể nào vô hạn?
Vật lý lượng tử nổi tiếng liên quan đến Nguyên Lý
Bất Định. Nghĩa là không thể đo vị trí cùng tốc độ
của bất kỳ vật thể nào. Nếu một người đo được
chính xác vị trí một cái gì, thì không thể xác định tốc
113
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
độ của nó. Ngược lại, nếu đo được tốc độ, thì không
thể xác định vị trí. Trong thực tế, không thể nào vị trí
hóa bất kỳ một thứ gì. Giả dụ, bạn muốn đo kích
thước của một cái gì, bạn cần tìm ra đầu và đuôi của
vật thể di động đang ở đâu. Không bao giờ có thể
đo được chính xác, vì nó bao gồm việc đo cả vị trí
và tốc độ cùng một lúc. Như vậy, không thể xác định
kích thước của vật đó. Chỉ có thể nói Nguyên tắc Bất
định khiến cho chúng ta không thể nói kích thước
của một vật thể (di động) thực sự như thế nào.
Nguyên tắc Bất định đã đặt ra giới hạn về kích thước
(trong vận tốc).
Sau một chút tính toán, người ta phát hiện, có một
kích thước tối thiểu cho một vật có khối lượng nhất
định. Đối với những thứ nặng, kích thước tối thiểu
này rất nhỏ, nhưng khi người ta nhìn những vật nhẹ
hơn và nhẹ hơn nữa, sẽ thấy kích thước tối thiểu lớn
hơn và lớn hơn nữa. Thực tế, những thứ trong vật
lý lượng tử có thể xem là sóng hoặc hạt, đưa đến
kích thước tối thiểu. Một vật càng nhẹ thì sóng phát
càng dài và lan truyền ra nhiều nơi. Vật càng nặng,
sóng nó phát càng ngắn, vì vậy nó có vẻ thu gọn.
Khi những ý tưởng này kết hợp với thuyết Tương
đối rộng, có nghĩa, chỉ những vật thể nặng hơn một
trọng lượng nào đó mới có thể tạo ra lỗ đen. Trọng
lượng đó tương đương với hạt muối. Một hệ quả
khác của tư tưởng này, mặc dù số lượng hình dạng
có thể có cho một lỗ đen có khối lượng nhất định,
mômen động lượng và điện tích, dù rất lớn, có thể
sẽ hữu hạn. Jacob Bekenstein đề nghị, từ con số
hữu hạn này, người ta có thể giải thích lỗ đen. Đây
sẽ là cách đo lường số lượng thông tin có lẽ đã bị
mất không còn thu hồi được nữa, trong quá trình sụp
đổ do lỗ đen tạo ra.
114
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Đề nghị của Bekenstein có một khuyết điểm quan
trọng: Nếu một lỗ đen có Entropy hữu hạn, tương
ứng với diện tích của chân trời ngang, nó phải có
nhiệt độ “non-zero” tương ứng với hấp lực bề mặt.
Điều này có thể hiểu, một lỗ đen có thể ở trạng thái
cân bằng với bức xạ nhiệt ở một số nhiệt độ khác
zero, Tuy vậy, theo khái niệm cổ điển, sẽ không có
trạng thái cân bằng, vì lỗ đen sẽ hút bất kỳ bức xạ
nhiệt nào rơi vào nó và không trả lại bất kỳ một thứ
gì, kể cả phát ra lại độ nhiệt.
Lập luận này tạo ra sự nghịch lý về bản chất lỗ đen,
những vật thể vô cùng nén đặc do ngôi sao tự sụp
đổ. Một giả thuyết cho rằng, các lỗ đen với các phẩm
chất giống nhau có thể thành hình từ số lượng vô
hạn của các loại ngôi sao khác nhau. Một số khác
đề nghị, số lượng này hữu hạn. Đây là vấn đề khó
khăn của thông tin, vì ý tưởng cho rằng mọi hạt và
mọi lực trong vũ trụ đều chứa đựng thông tin. Vì lỗ
đen không có lông, như nhà khoa học John Wheeler
đã nói, nhìn từ bên ngoài người ta không thể biết
được có gì bên trong lỗ đen, ngoại trừ khối lượng,
điện tích và chuyển động quay của nó. Nghĩa là, thế
giới biên ngoài chưa biết nhiều thông tin ở bên trong
lỗ đen. Nhưng có giới hạn về số lượng thông tin mà
người ta có thể bao gồm trong một vùng không gian.
Thông tin đòi hỏi năng lượng và năng lượng có khối
lượng theo phương trình nổi tiếng của Einstein,
E=mc2.
Do đó, nếu có quá nhiều thông tin trong một vùng
không gian, nó sẽ sụp đổ thành một lỗ đen và có
kích thước phản ảnh số lượng thông tin. Giống như
chồng chất sách càng ngày càng nhiều vào thư viện,
rồi các kệ sách không chịu nổi sức nặng, thư viện sẽ
sụp đổ như lỗ đen. Nếu lượng thông tin trong lỗ đen
phụ thuộc vào kích thước của lỗ đen, người ta sẽ
115
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mong đợi từ các nguyên tắc chung: lỗ đen sẽ phát
nhiệt độ và ánh sáng như mảnh kim loại nóng.
Nhưng việc này không thể xảy ra vì, như mọi người
đã biết, không có gì có thể thoát ra khỏi hấp lực của
lỗ đen.
Vấn đề này kéo dài cho đến năm 1974, khi tôi đang
truy vấn sinh hoạt của vật chất trong vùng lân cận lỗ
đen, sẽ xảy ra như thế nào theo cơ học lượng tử.
Tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy lỗ đen dường như
phát ra hạt với vận tốc ổn định, cũng như mọi người
vào giai đoạn đó, tôi công nhận ý kiến: lỗ đen không
thể phát ra bất cứ thứ gì. Vì vậy, đã cố gắng từ bỏ
sự phát hiện bối rối này, nhưng càng suy nghĩ, lại
càng khó ngui ngoai, rồi rốt cuộc vẫn phải chấp nhận
sự kiện này. Điều sau cùng thuyết phục tôi, đây là
một quá trình vật lý mà các hạt phóng ra (từ lỗ đen)
có quang phổ chính xác là nhiệt. Các tính toán cho
tôi dự đoán: một lỗ đen tạo và phát ra các hạt và bức
xạ như thể nó là vật thể bình thường, có nhiệt độ tỷ
lệ thuận với hấp lực bề mặt và tỷ lệ nghịch với khối
lượng.
Điều này gợi ra vấn đề không chính xác trong đề
nghị của Jacob Bekenstein, rằng một lỗ đen có
Entropy giới hạn, điều này hoàn toàn nhất quán, vì
nó có nghĩa: lỗ đen có thể ở trạng thái cân bằng nhiệt
độ trong nhiệt độ khác với Zero. Kể từ lúc đó, bằng
chứng toán học cho thấy lỗ đen phát ra bức xạ nhiệt
đã được một số người xác nhận qua nhiều cách
khác nhau. Một cách hiểu sự phát xạ như sau:
Cơ học lượng tử giải thích, toàn bộ không gian chứa
đầy các cặp hạt ảo và phản hạt, liên tục vật chất hóa
thành từng cặp, phân ra rồi lại dính vào, và triệt tiêu
lẫn nhau.
116
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Những hạt này gọi là hạt ảo, vì không giống các hạt
thật, chúng không thể quan sát bằng máy dò hạt.
Tuy nhiên, có thể đo tác động gián tiếp của chúng.
Sự tồn tại của chúng được xác nhận qua những
chuyển động nhỏ, gọi là di chuyển Lamb. Chúng tạo
ra năng lượng quang phổ ánh sáng từ việc kích thích
các nguyên tử hydro. Giờ đây, một hạt trong cặp hạt
ảo có thể rơi vào trong lỗ đen, bỏ lại những hạt kia
không có hạt đối tác để sinh hoạt và hủy diệt lẫn
nhau. Hạt bị bỏ rơi còn gọi là phản hạt hoặc sẽ rơi
vào lỗ đen như hạt trước trong cặp đôi, hoặc sẽ
thoát đi vào vô tận, có vẻ như nó là bức xạ do lỗ đen
phát ra.
Một cách khác để nhìn quá trình này là xem một hạt
thành phần của cặp hạt, rơi vào lỗ đen, là phản hạt,
thực sự là hạt đang du hành ngược thời gian. Như
vậy, phản hạt rơi vào lỗ đen có thể xem như hạt
thoát ra khỏi lỗ đen nhưng đi ngược thời gian.
Khi hạt đạt đến điểm mà cặp hạt, (chứa phản hạt đã
được vật chất hóa), bị trường hấp lực phân tán,
khiến nó đi theo thời gian. Một lỗ đen có khối lượng
bằng mặt trời sẽ làm thoát ra các hạt nhân bằng tốc
độ rất chậm đến mức không thể phát hiện được. Tuy
nhiên, có những lỗ đen nhỏ hơn nhiều, cỡ như ngọn
núi, có thể đã thành hình trong vũ trụ rất sớm, lúc
hỗn loạn và chưa bình thường. Một lỗ đen có kích
thước bằng ngọn núi sẽ phát ra tia X và tia gamma
với vận tốc khoảng mười triệu megawatt, để cung
cấp điện cho cả thế giới. Tuy vậy, không phải dễ
dàng khai thác một lỗ đen nhỏ để phát điện. Nếu
chúng ta có một lỗ đen như vậy, sẽ không thể giữ
làm trạm phát điện vì nó sẽ rơi xuyên sàn nhà xuống
tận trung tâm trái đất. Cách tốt nhất là đưa nó lên
quỹ đạo của quả đất.
117
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Người ta đang cố tìm kiếm những lỗ đen có khối
lượng như thế, nhưng đến nay, vẫn chưa tìm thấy
cái nào. Thật đáng tiếc, nếu họ tìm được, tôi đã lãnh
giải Nobel (**).
Nhưng có một khả năng khác, chúng ta có thể tạo
ra các lỗ đen cực nhỏ trong các chiều không gian thời gian bên ngoài. Chúng ta đã có kinh nghiệm về
một số lý thuyết, vũ trụ chỉ là một bề mặt “bốn chiều
trong không gian có mười hoặc mười một chiều”. Bộ
phim Interstella đã đưa ra ý tưởng về khái niệm này.
Chúng ta sẽ không nhìn thấy những chiều cao hơn
chiều thứ tư, vì ánh sáng sẽ không truyền qua
chúng, mà chỉ chiếu qua bốn chiều trong vũ trụ. (*)
Dù vậy, hấp lực vẫn ảnh hưởng đến các chiều không
gian “phụ” và hấp lực sẽ mạnh mẽ hơn so với trong
vũ trụ. Điều này khiến cho việc thành hình lỗ đen nhỏ
dễ dàng trong các không gian phụ (không gian phụ là
các không gian cao hơn không gian của chiều thứ tư.) Có thể
quan sát điều này tại LHC, máy va chạm Hardron
lớn, tại CERN ở Thụy Sĩ. Hệ thống này bao gồm một
đường hầm hình tròn dài 27 kilô mét. Hai chùm hạt
di chuyển vòng theo đường hầm bằng hai hướng
ngược nhau, với dụng ý các hạt sẽ va chạm. Một số
va chạm có khả năng tạo ra các lỗ đen cực nhỏ.
Những lỗ này sẽ phát ra các hạt theo một mô hình
có thể nhận thấy dễ dàng. Như vậy, rốt ráo gì, tôi
cũng nhận được giải Nobel (**).
Khi các hạt thoát ra lỗ đen, lỗ sẽ mất khối lượng và
co cụm lại.
Điều này gia tăng tốc độ phát xạ của các hạt. Đến
sau cùng, lỗ đen mất hết khối lượng và biến mất.
Như vậy, điều gì xảy ra cho tất cả các hạt và các phi
hành gia thiếu may mắn đã rơi vào lỗ đen? Chúng
118
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
và họ không thể tái hiện vì lỗ đen đã biến mất. Các
hạt thoát ra từ lỗ đen dường như hoàn toàn ngẫu
nhiên, không liên hệ gì với những thứ rơi vào. Có vẻ
như những thông tin về những gì rơi vào lỗ đen sẽ
mất luôn, ngoài trừ tổng khối lượng và số lượng
vòng quay. Nhưng nếu thông tin bị mất, sẽ là vấn đề
nghiêm trọng, đánh trúng vào tâm điểm sự hiểu biết
về khoa học của con người. Trong hơn 200 năm
qua, chúng ta đã tin tưởng vào thuyết Xác định khoa
học. – Nghĩa là, các quy luật khoa học quyết định sự
tiến hóa của vũ trụ. Nếu thông tin thực sự bị mất
trong các lỗ đen, (nghĩa là chúng ta không có đủ thông tin
và có thông tin không tiếp cận chính xác), chúng ta không
thể dự đoán tương lai (hoặc giải thích quá khứ), hơn
nữa, lỗ đen có thể phát ra bất kỳ tập hợp nào của
hạt (thông tin chưa có trước đó.)
Nó có thể phát ra một chiếc truyền hình đang chiếu
chương trình hoặc một bộ sách đầy đủ, bọc gáy da
của Shakespeare, mặc dù khả năng phát thải ra các
thứ kỳ lạ này rất thấp. Nó có khả năng phát ra bức
xạ nhiệt như mảnh kim loại nóng đỏ. Có vẻ như
không quan trọng lắm, nếu không thể dự đoán được
điều gì xuất hiện từ lỗ đen. Không có bất kỳ lỗ đen
nào gần trái đất. Nhưng đó là vấn đề nguyên tắc.
Nếu thuyết xác định, khả năng dự đoán của vũ trụ,
bị phá vỡ vì các lỗ đen, nó có thể phá vỡ mọi tình
huống khác.
Có thể có những lỗ đen ảo xuất hiện dưới dạng dao
động ngoài chân không, thu hút một tập hợp các hạt,
và phát ra một tập hợp khác, rồi biến mất vào chân
không lần nữa. Tệ hơn, nếu thuyết Xác định bị phá
vỡ, chúng ta không thể bảo đảm về lịch sử quá khứ
của mình. Sách lịch sử và ký ức chúng ta có thể chỉ
là ảo ảnh. Chính quá khứ cho chúng ta biết mình là
ai. Không có nó, chúng ta không có căn cước.
119
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Do đó, điều tối quan trọng là phải xác định xem liệu
thông tin có thật sự mất trong lỗ đen hay không?
Hoặc về nguyên tắc, có thể phục hồi lại thông tin đã
mất hay không? Nhiều nhà khoa học cảm thấy,
thông tin không thể mất, nhưng qua nhiều năm,
không ai đề nghị một cơ chế nào để xác nhận nó có
thể bảo tồn. Rõ ràng sự mất mát thông tin được xem
là thông tin nghịch lý, gây khó khăn cho các nhà
khoa học trong bốn mươi năm qua, và vẫn là một
trong số vấn đề lớn nhất chưa được giải đáp trong
lý thuyết vật lý.
Gần đây, mối quan tâm trong giải pháp khả dĩ của
thông tin nghịch lý đã được sống lại khi những khám
phá mới đã được thể hiện trong sự hợp nhất của
hấp lực và cơ học lượng tử. Trọng tâm của những
đột phá là hiểu biết về tính đối xứng của không gianthời gian.
Giả sử, không có hấp lực và không gian-thời gian
hoàn toàn không đáng tin. Sẽ giống như một sa mạc
hoàn toàn không có tính chất gì. Một nơi như vậy,
có hai loại đối xứng. Việc rơi vào lỗ đen có phải là
tin xấu cho nhà du hành vũ trụ?
Chắc chắn là tin xấu. Nếu đó là một lỗ đen có khối
lượng, trước khi bị kéo đến đường chân trời, bạn đã
bị xé ra thành những cọng mì. Mặt khác, nếu đó là
lỗ đen cực lớn, bạn có thể băng qua đường chân
trời dễ dàng, nhưng sẽ bị nghiền nát, không còn tồn
tại ở điểm kỳ lạ.
120
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Có Thể Nào Du Hành
Trong Không Gian?
.
Trong khoa học viễn tưởng, chuyện sai lệch thời
gian trong không gian là chuyện phổ biến. Thường
xảy ra trong các hành trình siêu tốc độ đi chung
quanh các thiên hà hoặc du hành xuyên qua thời
gian (giữa quá khứ và tương lai). Khoa học viễn
tưởng hôm nay có thể là sự thật cho khoa học thực
nghiệm ngày mai. Vậy thì, cơ hội du hành xuyên thời
gian là gì?
Ý tưởng về không gian và thời gian không song song
hoặc bị uốn cong xuất hiện khá gần đây. Hơn 2000
năm, người ta xem những định luật hình học Euclide
là hiển nhiên. Đối với những ai đã học hình học tại
nhà trường, có thể còn nhớ, một trong số các định
luật là ba góc của một tam giác cộng lại là 180 độ.
Tuy nhiên, trong thế kỷ trước, từ toán Tân hình học,
người ta biết được, tổng số của ba góc trong một
tam giác không phải 180 độ. Ví dụ, xem xét bề mặt
trái đất: Một đường thẳng nằm trên bề mặt trái đất
được gọi là một vòng tròn lớn (đường thẳng chạy một
vòng chung quanh trái cầu rồi hai đầu gặp nhau, nối thành hình
tròn). Đây là đường ngắn nhất giữa hai điểm, định
121
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
luật này được các hãng hàng không sử dụng. Bây
giờ, xem xét một tam giác trên bề mặt trái đất, thành
hình từ đường xích đạo: đường kinh tuyến “zero” độ
băng qua London và đường kinh tuyến 90 độ phía
đông Banglades, hai đường cắt đường xích đạo ở
hai góc vuông; hai đường này cắt nhau ở Bắc cực
tại một góc vuông, như vậy, tam giác này có ba góc
vuông, tức là 270 độ; lớn hơn 180 độ của một tam
giác nằm trên mặt phẳng. Nếu vẽ một tam giác hình
chiếc yên ngựa, sẽ thấy ba góc cộng lại nhỏ hơn 180
độ.
Bề mặt trái đất là không gian hai chiều. Nghĩa là, có
thể di chuyển trên mặt đất theo hai đường hướng
vuông góc với nhau: bắc-nam hoặc đông-tây. Tất
nhiên, có một hướng thứ ba vuông góc với hai
hướng này, là hướng lên-xuống. Nói một cách khác,
bề mặt trái đất chứa không gian ba chiều. Không
gian này nằm trên mặt phẳng, thuộc về hình học
Euclid. Các góc trong một tam giác sẽ có tổng số
180 độ. Chúng ta có thể tưởng tượng một loại sinh
vật chỉ có thể đi trên mặt đất nhưng không biết
hướng đi lên và đi xuống. Chúng không hề biết
không gian có chiều thứ ba. Đối với chúng, không
gian chỉ có hai chiều và hai chiều này cong theo mặt
đất, không thuộc về hình học Euclide.
Giống như con người nghĩ về động vật sống chỉ hai
chiều trên mặt đất; chúng ta có thể tưởng tượng con
người sống giữa không gian ba chiều, chúng ta đang
sống ở đó trên bề mặt của trái cầu trong một không
gian khác mà chúng ta không thấy. Nếu mặt địa cầu
mênh mông, không gian gần giống như hình phẳng,
như vậy hình học Euclide gần đúng trên những
khoảng cách nhỏ. Và các định luật của hình học này
sẽ bị phá vỡ trong khoảng cách lớn (trong vũ trụ mênh
122
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Để minh họa điều này, hãy tưởng tượng một
đội họa sĩ sơn màu lên trên quả bóng lớn.
mông.)
Khi độ dày của sơn tăng lên, diện tích bề mặt sẽ gia
tăng theo.
Nếu trái bóng ở trong không gian ba chiều, các họa
sĩ có thể tiếp tục sơn thêm, cho dày hơn, nhiều lớp
không giới hạn và quả bóng càng lúc càng lớn. Nếu
lập luận rằng, không gian ba chiều là bề mặt hình
cầu trong một không gian khác, thì khối lượng tuy có
thể lớn nhưng có giới hạn. Khi sơn thêm nhiều lớp
nữa, cuối cùng quả bóng lấp đầy một nửa không
gian. Các hoạ sĩ sẽ nhận ra họ bị bao bọc bởi một
không gian có kích thước càng lúc càng nhỏ, vì toàn
bộ không gian đã bị trái bóng có lớp sơn rất dày
chiếm hữu. Vì vậy, họ nhận ra đang sống trong một
không gian cong, không phải mặt phẳng.
Ví dụ này cho thấy không thể suy tính hình học thế
giới từ nhưng nguyên tắc toán học thuở ban đầu
như người Hy lạp cổ đại đã nghĩ. Thay vào đó, con
người phải đo đạc không gian đang sống bằng thực
nghiệm. Mặc dù, Bernhard Rienmann, người Đức
vào năm 1854, đã phát triển phương cách mô tả
không gian cong, nhưng chỉ là một phần trong toán
học kéo dài sáu mươi năm. Qua cách mô tả, không
gian cong tồn tại trong trừu tượng, nhưng không có
lý do gì khiến cho không gian vật lý mà chúng ta
đang sống, phải cong.
Lý do này xuất hiện năm 1915 khi Eistein đưa ra
thuyết tương đối rộng.
Thuyết tương đối rộng là cuộc cách mạng trí tuệ lớn
đã thay đổi cách chúng ta nghĩ về vũ trụ. Đây là lý
thuyết không những về không gian cong mà còn về
thời gian cong và thời gian chênh lệch (không theo một
123
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Năm 1905, ông Einstein
nhận ra, không gian và thời gian có mối liên hệ mật
thiết, đây là lúc thuyết tương đối hẹp (theory of
special relativity) của ông ra đời, liên quan hổ tương
giữa thời gian và không gian. Con người có thể mô
tả vị trí của một sự kiện bằng bốn con số. Ba con số
mô tả vị trí: có thể cách Oxford Circus nhiều dặm về
phía đông bắc, có độ cao trên mực nước biển. Trong
trường hợp lớn hơn, có thể dùng kinh độ và vĩ độ
của thiên hà, cùng với khoảng cách từ trung tâm
thiên hà đó.
chiều mà có thể trở ngược lại)
Con số thứ bốn là thời gian diễn ra sự kiện. Nghĩa
là, con người có thể xác định không gian và thời gian
chung như một khối không gian bốn chiều, gọi là
“không gian-thời gian”. Mỗi điểm của không gianthời gian được xác định bằng bốn con số này. Việc
kết hợp không gian và thời gian thành một khối
không gian-thời gian (bốn chiều) theo cách này sẽ là
chuyện tầm thường nếu có một cách độc đáo nào
đó tháo gỡ chúng ra. Nghĩa là, khối không gian-thời
gian là cách duy nhất để xác định mỗi sự kiện. (Chúng
ta đang nói về khối bốn chiều cho một sự kiện vật lý xảy ra ở
một thời điểm. Điều thắc mắc là, nếu như một ý tưởng hoặc một
điều trừu tượng xảy ra, có thể xác định bằng bốn con số hay
không? Có lẽ vì vậy, con người không thể xác định con ma?
hoặc Thượng đế?)
Tuy nhiên, trong một bài báo đáng chú ý, được viết
vào năm 1905, khi ông còn làm thư ký trong văn
phòng cấp bằng sáng chế ở Thụy Sĩ, Einstein đã chỉ
ra, người ta nghĩ về thời gian và vị trí của một sự
kiện xảy ra, tùy thuộc vào cách người ta di chuyển.
Nghĩa là, không gian và thời gian gắn bó chặt chẽ
với nhau.
[Trải nghiệm] Thời gian mà các quan sát viên khác
nhau ấn định cho một sự kiện sẽ giống nhau, nếu
124
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
các quan sát viên không di chuyển tương đối với
nhau. Nhưng họ sẽ không đồng thuận với nhau, nếu
họ di chuyển; tốc độ di chuyển càng nhanh, họ càng
không đồng ý vì càng khác biệt. Như vậy, có thể hỏi
rằng: một người cần phải đi nhanh bao nhiêu để thời
gian của một quan sát viên có thể đi ngược so với
thời gian của một quan sát viên khác?
Câu trả lời đưa ra một bài thơ buồn cười như sau:
Thiếu nữ Wight
Đi nhanh nhiều hơn ánh sáng
Hôm nay cô khởi hành
bằng cách tương đối
cô đến từ hôm qua.
Như vậy, chúng ta chỉ cần một con tàu vũ trụ bay
nhanh hơn ánh sáng, chúng ta có thể du hành xuôi
ngược trong thời gian.
Thật không may, trong cùng một bài báo, Einstein
cho biết một con tàu vũ trụ cần sức mạnh gia tăng
càng lúc càng mạnh khi tiến gần đến tốc độ ánh
sáng. Vì vậy, sẽ cần một năng lượng vô hạn để có
khả năng vượt qua tốc độ ánh sáng.
Bài báo năm 1905 của Enstein có vẻ như loại bỏ việc
du hành ngược vào quá khứ. Đồng thời cho biết,
việc du hành vũ trụ đến các ngôi sao khác sẽ rất
chậm và tẻ nhạt. Nếu không thể đi nhanh hơn ánh
sáng, thì chuyến bay khứ hồi đến ngôi sao gần nhất
sẽ mất tối thiểu là tám năm và đến trung tâm thiên
hà khoảng 50.000 năm. Nếu tàu vũ trụ bay với tốc
độ gần ánh sáng, những người trên tàu có thể nghĩ,
125
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
chuyến đi đến trung tâm thiên hà chỉ mất vài năm.
Nhưng đó chưa phải là điều an ủi nhiều, thử nghĩ,
nếu như chúng ta có thể trở về quá khứ gặp lại mọi
người thân quen đã chết đã bị lãng quên từ ngàn
năm trước. Đây là quan điểm hay cho tiểu thuyết, vì
vậy, các nhà văn phải tìm cách vượt qua những vấn
đề khó khăn của tốc độ.
Năm 1915, Enstein trình bày, tác động của hấp lực
có thể mô tả bằng cách giả sử không gian-thời gian
bị chênh lệch hoặc biến dạng bởi vật chất và năng
lượng bên trong. Lý thuyết này được biết như thuyết
tương đối rộng. Thực sự, chúng ta có thể quan sát
sự lệch của không gian-thời gian, khi ánh sáng hoặc
làn sóng vô tuyến đi qua gần mặt trời, sẽ bị hơi cong
lại. Sự kiện này xảy ra cho vị trí hiện diện của ngôi
sao hoặc nguồn vô tuyến bị xê dịch một chút khi mặt
trời đi qua ở giữa trái đất và các nguồn đó. Độ xê
dịch rất nhỏ, khoảng một inch cho một dặm (mile).
Có thể đo được với độ chính xác cao và phù hợp với
các dự tính của thuyết tương đối rộng. Chúng ta
cũng có bằng chứng thực nghiệm cho thấy không
gian-thời gian có chênh lệch.
Độ cong lệch trong các khu vực lân cận chúng ta rất
nhỏ vì trường hấp lực của mặt trời bị yếu. Dù vậy,
chúng ta biết, những trường hấp lực mạnh có thể
xảy ra, ví dụ như Vụ Nổ Lớn (Big Bang) và các lỗ
đen. Liệu không gian và thời gian có đủ chênh lệch
với nhau để đáp ứng các đòi hỏi của khoa học viễn
tưởng, về những thứ như dĩa bay siêu không gian,
lỗ sâu trùng, hay du hành trong không gian? Thoạt
nhìn, tất cả các thứ này dường như có thể xảy đến.
Ví dụ, năm 1948, Kurt Godel đã tìm ra giải đáp cho
phương trình 'trường tương đối rộng' của Enstein,
đại diện cho một vũ trụ, trong đó mọi vật chất đều
quay. Trong vũ trụ này, chúng ta có thể đi trên con
126
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tàu vũ trụ và quay trở lại, trước khi khởi hành. Godel
thuộc viện Nghiên Cứu Cao cấp ở đại học Princeton,
nơi Enstein đã ở đó những năm cuối đời. Godel nổi
tiếng nhiều nhất vì đã chứng minh rằng chúng ta
không thể chứng minh mọi thứ đều đúng, ngay cả
trong môn học đơn giản như số học. Nhưng những
gì ông chứng minh về thuyết tương đối rộng đã thực
sự cho phép du hành trong không gian, khiến cho
Enstein, cha đẻ của thuyết này, cũng không thể nghĩ
ra.
Giờ đây, chúng ta đã biết, giải pháp của Godel
không thể đại diện cho vũ trụ đang sống vì nó không
giãn nở.
Nó cũng có một giá trị khá lớn cho một khối lượng
gọi là hằng số vũ trụ, thông thường, được cho rằng
rất nhỏ. Tuy nhiên, người ta đã tìm thấy các giải
pháp khác hợp lý hơn về du hành trong thời gian.
Một thuyết đặc biệt thú vị từ cách tiếp cận, gọi là
thuyết Dây: Chứa hai chuỗi vũ trụ chuyển động qua
nhau với tốc độ thấp hơn tốc độ ánh sáng một chút.
Chuỗi vũ trụ là một ý tưởng vật lý đáng chú ý mà các
nhà khoa học viễn tưởng dường như chưa bắt kịp.
Tên của lý thuyết này cho thấy, giống như một chuỗi
dây dài nhưng mặt cắt ngang rất nhỏ. Trong thực tế,
chúng giống như sợi dây cao su vì phải chịu một lực
căng rất lớn, có thể là hàng trăm tỷ, tỷ tấn. Một chuỗi
vũ trụ gắn vào mặt trời sẽ tăng tốc từ số 0 lên 60
trong 30 % của một giây.
Thuyết chuỗi vũ trụ nghe có vẻ xa vời và thuần túy
khoa học viễn tưởng, nhưng có những lý do khoa
học chính đáng để tin rằng chúng có thể thành hình
trong vũ trụ lúc còn rất sớm, ngay sau vụ nổ Big
Bang. Bởi chúng đang chịu sức căng quá lớn, người
127
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
ta có thể đoán chừng chúng sẽ gia tăng vận tốc gần
đến tốc độ ánh sáng.
Điểm giống nhau của thuyết vũ trụ của Godel và
thuyết không gian-thời gian trong chuỗi vũ trụ
chuyển động nhanh: chúng bắt đầu biến dạng (khi
vận tốc cao) và cong đến độ không gian-thời gian tự
quay ngược trở lại và du hành vào quá khứ; chuyện
này có thể xảy ra. Chúa có thể tạo ra vũ trụ biến
dạng như vậy, nhưng chúng ta không có lý do để
nghĩ rằng Chúa đã làm. Tất cả những bằng chứng
là vũ trụ bắt đầu từ vụ nổ Big Bang mà không có kiểu
uốn cong cần thiết (ngược chiều) để du hành vào quá
khứ. Vì chúng ta không thể thay đổi cách vũ trụ đã
bắt đầu, vậy thì, câu hỏi có thể du hành trong thời
gian hay không? Sẽ trở thành câu hỏi, liệu chúng ta
có thể làm cho không gian-thời gian bị biến dạng,
cong ngược, để con người có thể trở về quá khứ
hay không? Tôi nghĩ, đây là một chủ đề quan trọng
để nghiên cứu, nhưng phải cẩn thận để không bị xếp
vào hạng ý nghĩ quái dị. Nếu người nào nộp đơn xin
tài trợ nghiên cứu về du hành thời gian, sẽ bị loại bỏ
ngay, vì không một cơ quan chính phủ nào đủ khả
năng sử dụng tiền công vào việc du hành thời gian.
Thay vào đó, người ta phải sử dụng các thuật ngữ
kỹ thuật chuyên môn như: đường cong giống thời
gian tiếp cận (closed time-like curve), là mã hiệu cho
loại du hành này.
Đúng, đây là câu hỏi nghiêm túc. Vì thuyết tương đối
rộng có thể cho phép du hành thời gian, liệu nó có
cho phép việc này xảy ra trong vũ trụ? Và nếu
không? Tại sao không?
Chủ yếu căn bản cho du hành thời gian là khả năng
di chuyển nhanh chóng trong không gian từ vị trí này
sang vị trí khác. Như tôi đã trình bày trước, Einstein
128
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đã chỉ rõ, cần một năng lượng phi hành vô hạn để
con tàu vũ trụ vượt tốc độ ánh sáng. Vì vậy, cách
duy nhất để đi từ thiên hà này sang thiên hà kia trong
một thời gian hợp lý là nếu chúng ta có thể làm cong
không gian-thời gian đến mức tạo ra một ống nhỏ
hoặc một lỗ sâu (lỗ của con sâu đào vào đất). Nghĩa là,
có thể nối kết hai thiên hà như con đường tắt để đi
lại khứ hồi mà người quen của chúng ta vẫn còn
sống (siêu tốc độ nhanh đến mức thời gian chưa kịp thay đổi
nhiều). Đây là một đề nghị nghiêm túc vì những lỗ sâu
nằm trong khả năng của nền văn minh tương lai.
Nhưng nếu, bạn có thể đi từ bên này qua bên kia
thiên hà trong vòng một hoặc hai tuần, bạn có thể
quay lại một lỗ sâu ngắn hơn và trở về trước khi bạn
khởi hành. (Nghĩa là, tốc độ nhanh của mỗi chuyến du hành
sẽ mang bạn đến quá khứ trước hoặc tương lai sau.) Thậm
chí, bạn có thể quay ngược thời gian với một lỗ sâu
duy nhất nếu hai đầu của nó cùng di chuyển tương
đối với nhau.
Người ta có thể cho rằng, muốn tạo ra lỗ sâu, phải
làm cong không gian - thời gian theo cách ngược lại
với cách bình thường làm cong vật chất. Nghĩa là,
thông thường, vật chất làm cong không gian - thời
gian trở lại với chính nó, giống như bề mặt trái đất
(cong trở lại điểm phát xuất) Trong khi muốn tạo một lỗ
sâu, người ta cần làm cong vật chất không gian thời gian theo cách ngược lại, như bề mặt của yên
ngựa. Điều này cũng đúng với bất kỳ cách làm cong
không gian - thời gian nào khác để du hành về quá
khứ, với điều kiện vũ trụ phải bắt đầu cong đến mức
cho phép du hành trong thời gian. Điều mà người ta
cần là vật chất có khối lượng âm và mật độ năng
lượng âm để làm không gian - thời gian cong theo
điều kiện đòi hỏi.
129
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Năng lượng giống như tiền bạc. Nếu có dư tiền trong
ngân hàng, bạn có thể phân phối cho nhiều việc
khác nhau. Có một số luật cổ điển được tin tưởng
cho đến thời gian khá gần đây: Không thể sử dụng
năng lượng không có, hoặc năng lượng vượt qua
khả năng tồn trữ.
Như vậy, các định luật cổ điển loại trừ phương cách
có thể làm cong lệch vũ trụ, cần thiết cho việc du
hành trong thời gian. Về sau, các định luật này bị lý
thuyết lượng tử lật đổ. Đây là một cuộc cách mạnh
vĩ đại khác trong lịch sử vũ trụ ngoài thuyết tương
đối rộng.
Lý thuyết lượng tử co giản hơn, cho phép sử dụng
một khoảng năng lượng từ hai nơi tồn trữ khác, nếu
các nơi đó đủ khả năng (có thừa năng lượng). Nói một
cách khác, lý thuyết lượng tử cho phép dùng mật độ
năng lượng âm ở một số nơi, miễn là mật độ năng
lượng dương tương đương có ở những nơi khác
(trong thực tế, một năng lượng âm phải có một năng lượng
dương. Nếu phải dùng một số năng lượng âm, thì số năng lượng
dương lẻ bạn phải tồn trữ ở một nơi nào để về sau có thể nhập
lại với năng lượng âm.)
Lý do lý thuyết lượng tử có thể cho phép mật độ
năng lượng trở thành âm vì nó dựa trên nguyên lý
Bất định. Nguyên lý này nói rằng: các khối lượng
nhất định giống vị trí và tốc độ của một hạt, không
thể xác định giá trị của cả hai (vị trí và tốc độ) một
cách rõ ràng. Nghĩa là, nếu có thể xác định vị trí càng
chính xác thì tốc độ sẽ càng không chắc chắn, hoặc
ngược lại. Thuyết Bất định cũng áp dụng cho các
trường (khu vực, phạm vi, môi trường) như trường
điện tử, trường hấp lực.
Ngụ ý rằng, các trường này không thể chính xác
bằng zero ngay cả khi chúng ta nghĩ là trống rỗng.
130
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Vì nếu nó chính xác bằng zero, thì vị trí và tốc độ sẽ
được xác định một cách rõ rệt, cả hai đều là zero.
Sự kiện này vi phạm nguyên lý Bất định. Thay vào
đó, các trường này phải có một số lượng dao động
tối thiểu nào đó. Người ta giải thích sự dao động
chân không (vacuum of fluctuation) là các cặp hạt và
phản hạt đột nhiên xuất hiện cùng nhau, rồi di
chuyển xa nhau, rồi quay trở lại với nhau, rồi hủy
diệt nhau.
Các cặp hạt-phản hạt được xem là ảo vì không thể
đo trực tiếp bằng máy dò hạt, chỉ có thể theo dõi tác
động của chúng một cách gián tiếp. Một trong những
cách đó, gọi là hiệu ứng Casimir. Hãy tưởng tượng,
bạn có hai tấm kim loại song song cách nhau một
khoảng ngắn.
Các tấm này hoạt động giống như những tấm gương
đối với hạt ảo và phản hạt. Điều này có nghĩa, các
khu vực giữa các tấm kim loại giống như đường ống
đàn organ, chỉ nhận các sóng ánh sáng có tầng số
cộng hưởng nhất định. Kết quả cho thấy, có một số
lượng dao động chân không hoặc các hạt ảo giữa
các tấm kim loại, khác hơn so với bên ngoài các tấm,
nơi dao động chân không có thể có bất kỳ loại sóng
nào. Sự khác biệt về số lượng các hạt ảo giữa các
tấm so với bên ngoài cho thấy, chúng không tạo
nhiều áp lực lên một mặt bên này so với mặt bên
kia. Chỉ có một lực đẩy các tấm lại với nhau. Đo
được bằng thực nghiệm. Vì vậy, các hạt ảo thực sự
tồn tại và tạo ra các hiệu ứng thực sự.
Vì chỉ có ít hạt ảo hoặc dao động chân không giữa
các tấm, chúng có mật độ năng lượng thấp hơn so
với vùng bên ngoài. Nhưng mật độ năng lượng của
khoảng không gian trống ở xa các tấm kim loại phải
là zero. Nếu không, nó sẽ không làm cong không
131
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
gian - thời gian và vũ trụ sẽ không gần như bằng
phẳng. Vì vậy mật độ năng lượng trong vùng giữa
các tấm phải âm. Chúng tôi có bằng chứng thí
nghiệm từ sự bẻ cong của ánh sáng: không gian thời gian bị cong và xác nhận từ hiệu ứng Casimir
cho biết, chúng ta có thể làm cho nó cong theo
hướng âm.
Đến đây, có vẻ như sự tiến bộ trong khoa học và
điện tử có thể tạo ra lỗ sâu hoặc làm cong không
gian - thời gian theo một cách nào khác để con
người có thể du hành về quá khứ. Nếu trường hợp
này xảy ra, sẽ có một loạt các câu hỏi về vấn đề trở
ngại. Một trong số các câu hỏi là, nếu du hành trong
thời gian có thể đến tương lai, tại sao không có ai từ
tương lai trở về cho chúng ta biết, cách nào để du
hành?
Ngay cả khi có những lý do chính đáng để chúng ta
không hiểu biết bản tính con người, cũng thật khó
tin rằng ai đó sẽ không khoe khoang, tiết lộ bí mật
du hành thời gian cho những "nông dân nghèo tối
dạ" như chúng ta. Dĩ nhiên, một số người sẽ khẳng
định họ đã được người tương lai đến viếng thăm.
Họ sẽ nói, UFO (dĩa bay) đến từ tương lai và chính
phủ đang tham gia vào một âm mưu khổng lồ nhằm
che đậy và giữ riêng những kiến thức khoa học mà
những "du khách" này mang lại. Tôi chỉ có thể nói,
nếu các chính phủ che giấu điều gì, thì họ đang làm
một công việc kém cỏi khai thác thông tin hữu ích từ
người ngoài hành tinh. Tôi khá nghi ngờ về thuyết
âm mưu, và tin rằng có nhiều khả năng giả tạo. Tất
cả những báo cáo nhìn thấy UFO không thể do
người ngoài trái đất gây ra vì chúng mâu thuẫn lẫn
nhau. Khi bạn thừa nhận rằng một số báo cáo là sai
lầm hoặc ảo giác, thì phải chăng có nhiều khả năng
132
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tất cả đều do người ở đây gây ra hơn là từ những
người tương lai hoặc từ thiên hà khác đến thăm?
Nếu họ thật sự muốn xâm chiếm trái đất hoặc cảnh
báo chúng ta những nguy hiểm, thì có vẻ như họ
không đạt được hiệu quả (dường như chúng ta cũng đồng
ý rằng người ngoài hành tinh thông minh và tài giỏi hơn người
trên mặt đất.)
Một cách có thể dung hòa việc du hành thời gian với
thực tế là dường như chúng ta không có bất kỳ một
du khách nào từ tương lai đến thăm, để có thể tuyên
bố những chuyến du hành như vậy sẽ xảy ra trong
mai sau. Theo quan điểm này, có thể nói không gian
- thời gian trong quá khứ là cố định, vì chúng ta đã
quan sát và thấy nó không đủ độ cong để cho phép
du hành về quá khứ. Mặt khác, tương lai còn rộng
mở. Chúng ta có thể làm cong không gian - thời gian
cho đủ mức độ để du hành thời gian (với những khám
phá và phát minh mới.) Tuy nhiên, dù có thể làm cong
để du hành trong tương lai, vẫn không thể quay trở
lại thời điểm hiện tại hoặc sớm hơn.
Hình ảnh này giải thích lý do tại sao chúng ta không
bị khách du lịch từ ngoài hành tinh tràn ngập trong
tương lai. Nhưng vẫn còn nhiều nghịch lý. Giả sử,
chúng ta khởi hành trên một hỏa tiễn có khả năng
khứ hồi quay trở lại thời điểm trước khi chúng ta khởi
hành; thì điều gì có thể ngăn cản chúng ta làm nổ bệ
phóng hoặc ngăn cản chúng ta khởi hành ngay từ
đầu? (Nói một cách khác: chúng ta khởi hành trên một con tàu
vũ trụ siêu tốc độ, vì vậy đã quay trở lại trước giờ khởi hành.
Nghĩa là chưa đi đã đến. Sự nghịch lý này được giải thích bởi
những chiều không gian - thời gian khác nhau. Tuy nhiên, chưa
có bằng chứng đáng tin.) Có một phiên bản khác của sự
nghịch lý nêu trên, ví dụ như, ai đó quay trở lại giết
chết cha mẹ của bạn, trước khi bạn sinh ra, nhưng
về cơ bản chúng tương đương. Có vẻ như có hai
giải pháp khả thi:
133
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Thứ nhất, tôi gọi là cách tiếp cận lịch sử nhất quán.
Người ta phải tìm ra một giải pháp nhất quán trong
phương trình vật lý, ngay cả khi không gian - thời
gian bị biến dạng (chênh lệch) đến mức có thể du
hành về quá khứ. Theo quan điểm này, bạn không
thể lên tàu hỏa tiễn du hành vào quá khứ, ngoại trừ
bạn đã trở lại và chưa nổ bệ phóng. Đó là một hình
ảnh nhất quán (hợp lý), nhưng ngụ ý rằng chúng ta
đã hạ quyết tâm: Không thể thay đổi ý định của
mình. Ý chí tự do quá nhiều.
Thứ hai, cách tiếp cận lịch sử thay thế. Đã được xem
là vô địch bởi nhà vật lý David Deutsch và dường
như là điều mà nhà sáng tạo "Trở về Tương lai" đã
nghĩ đến. Theo quan điểm này, trong lịch sử thay thế
sẽ không có bất kỳ sự trở lại nào từ tương lai, trước
khi tàu hỏa tiễn khởi hành và không có khả năng bị
nổ tung. Nhưng khi du hành trở về từ tương lai,
người đó bước vào một lịch sử thay thế. (Nghĩa là lịch
sử cũ vẫn tiếp tục, sau khi người đó khởi hành và trở về lịch sử
khác. Ngụ ý có nhiều lịch sử song song nhưng khác không gian
- thời gian.) Trong cuộc đua này, loài người đã hết sức
nỗ lực để chế tạo con tàu vũ trụ, nhưng ngay trước
khi nó được phóng đi, một con tàu vũ trụ khác tương
tựa đã xuất hiện từ bên kia thiên hà và phá hủy con
tàu bên này. David Deutsch tuyên bố ủng hộ cách
tiếp cận lịch sử thay thế từ sự giới thiệu khái niệm
lịch sử tổng hợp do nhà vật lý Richard Feynman đề
nghị.
Khái niệm này: Theo lý thuyết lượng tử, vũ trụ không
chỉ có một lịch sử, mà vũ trụ có tất cả mọi lịch sử khả
dĩ xảy ra, mỗi lịch sử có xác xuất riêng của nó. Ví
dụ: Phải có một lịch sử khả dĩ cưu mang một nền
hòa bình lâu dài ở Trung Đông, mặc dù xác xuất có
thể rất thấp.
134
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Trong một số lịch sử, không gian - thời gian sẽ bị
biến dạng, cong đến mức các vật thể như hỏa tiễn,
dĩa bay, có thể du hành về quá khứ. Nhưng mỗi lịch
sử đều tự chứa đựng nội dung một cách hoàn chỉnh,
không chỉ mô tả không gian - thời gian cong, mà còn
có cả mọi sự kiện trong đó.
Như vậy, một hỏa tiễn không thể chuyển sang một
lịch sử thay thế khác khi nó quay trở lại, vẫn ở trong
lịch sử (đời sống) cũ vì phải tự nhất quán. Bất chấp
những gì Deutsch tuyên bố, tôi nghĩ, thuyết tổng hợp
lịch sử ủng hộ giả thuyết lịch sử nhất quán hơn là
thuyết lịch sử thay thế.
Do đó, có vẻ như chúng ta đang bị quanh quẩn trong
phạm vi lịch sử nhất quán.
Tuy nhiên, quan điểm này không nhất thiết phải tác
động với thuyết Xác định hoặc ý thức tự do, dù xác
suất rất nhỏ, với lịch sử có không gian - thời gian bị
biến cong để có thể du hành trong thời gian qua một
vùng bao la. Đây là điều tôi gọi là Phỏng đoán Bảo
vệ Niên đại: Các định luật vật lý âm mưu ngăn cản
việc du hành thời gian trên cấp độ vĩ mô.
Có vẻ như điều xảy ra là khi không gian - thời gian
bị biến cong gần mức độ có thể du hành quá khứ,
các hạt ảo gần như có thể trở thành những hạt thực
theo một quỹ đạo đóng (closed trajectory.) Mật độ
của các hạt ảo và năng lượng của chúng trở nên rất
lớn. Nghĩa là, xác suất của những lịch sử này rất
thấp. Có vẻ như có một Cơ quan Bảo vệ Niên đại
đang làm việc để giúp thế giới an toàn cho các nhà
sử học (quan điểm này có vẻ như phỏng đoán từ suy luận, tuy
hợp lý nhưng chưa hẳn đã như vậy.) Nhưng ý tưởng về sự
biến cong không gian - thời gian vẫn còn sơ khai.
Theo một dạng thống nhất của lý thuyết dây, gọi là
135
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
thuyết M, đây là hy vọng cao nhất của chúng ta về
sự hợp nhất giữa thuyết tương đối rộng và thuyết
lượng tử, không gian – thời gian phải có 11 chiều,
không chỉ 4 chiều như chúng ta đang kinh nghiệm.
Trong 11 chiều, có 7 chiều cuộn tròn trong một
không gian rất nhỏ, đến mức không thể nhận ra. Mặt
khác, 4 chiều mà chúng ta gọi là không gian - thời
gian, không thay đổi. Nếu sự việc này chính xác, có
thể sắp xếp, 4 hướng không đổi bị trộn lẫn với bảy
hướng cong hoặc biến dạng. Chúng ta chưa biết,
khái niệm này sẽ mở ra những điều gì thú vị.
Kết luận, Không thể loại trừ việc du hành siêu tốc và
du hành về quá khứ theo sự hiểu biết hiện tại của
khoa học. Đây là vấn đề tranh cãi lớn. Chúng ta hãy
hy vọng có Luật Bảo vệ Niên đại để ngăn chận
những người quay lại quá khứ giết chết cha mẹ (thay
đổi hiện tại). Nhưng những người ái mộ khoa học viễn
tưởng không cần phải buồn lòng. Còn có thuyết M.
Có lý do nào để tổ chức buổi tiệc đón tiếp các khách
du hành trong thời gian?
Bạn có hy vọng họ sẽ xuất hiện?
Năm 2009, tôi tổ chức một bữa tiệc dành cho những
khách du hành thời gian ở trường đại học, Gonville
và Caius tại Cambridge, để xem bộ phim du hành
trong thời gian. Để bảo đảm chỉ những người du
hành thời gian thực sự mới đến, tôi đã không gửi lời
mời họ cho đến sau bữa tiệc. Vào ngày tổ chức tiệc,
tôi ngồi trong trường đại học, hy vọng, nhưng không
có ai xuất hiện. Tuy thất vọng nhưng không ngạc
nhiên, vì tôi đã chứng minh, nếu thuyết tương đối
rộng là đúng và mật độ năng lượng là dương, thì
việc du hành trong không gian không thể thực hiện.
136
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi sẽ vui mừng, nếu một trong những giả định của
tôi bị sai lầm.
137
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Liệu Chúng Ta
Có Tồn Tại Trên Địa Cầu?
Vào tháng Giêng năm 2018, bản tin của các Nhà
Khoa Học Nguyên Tử, tờ báo do một số vật lý gia
thành lập, những bác học làm việc trong dự án
Manhattan đầu tiên về sản xuất vũ khí nguyên tử.
Họ đã tăng chuyển “Đồng Hồ Ngày Tận Thế”, một
phương cách đo lường những thảm họa lớn sắp xảy
ra, từ quân sự đến môi trường sống, cho địa cầu,
đồng hồ giảm xuống từ hai phút đến nửa đêm. (Nghĩa
là đại thảm họa có khả năng xảy ra trong một thời gian ngắn.
Thời giờ sử dụng ở đồng hồ là thời giờ khoa học, đại biểu cách
đo lường nhưng không giống đồng hồ thường. Nửa đêm, ám chỉ
nguy cơ xảy đến.)
Đồng hồ này có lịch sử rất thú vị. Nó bắt đầu từ năm
1947, vào lúc khởi điểm của thời đại nguyên tử.
Robert Oppenheimer, nhà khoa học chủ chốt trong
dự án Manhattan, cho biết, sau vụ nổ bom nguyên
tử đầu tiên hai năm trước, vào tháng 7 năm 1947,
ông nói, “Chúng tôi biết thế giới sẽ không còn giống
như trước nữa. Một ít người cười, một ít người khóc,
hầu hết giữ im lặng. Tôi nhớ lại một câu trong kinh
Hindu, cuốn Bhagavad-Gita, ‘Giờ đây, tôi trở thành
thần chết, kẻ hủy hoại trần gian.’”
138
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Năm 1947, đồng hồ nguyên thủy được đặt ra, sắp
xếp từ bảy phút cho đến nửa đêm. Từ năm 1950,
nẩy sinh Chiến Tranh Lạnh, ngày tận thế tiến đến
gần hơn những thời kỳ trước. Dĩ nhiên, đồng hồ và
các chuyển động của nó chỉ mang tính biểu tượng,
nhưng tôi cảm thấy cần phải nói ra, vì lời cảnh cáo
đã báo động từ những nhà khoa học khác và tối
thiểu, do cuộc bầu cử của Donald Trump nhắc nhở,
phải được lưu ý một cách nghiêm túc. Đồng hồ với
ý tưởng thời gian trôi đi, thậm chí, đối với loài người
là thời gian đang sắp hết, chuyện này là thực tế hay
chỉ báo động? Cảnh cáo kịp thời hay chỉ làm mất
thời gian?
Tôi có mối quan tâm riêng về thời gian. Đầu tiên,
cuốn sách bán chạy nhất của tôi, cũng là lý do nhiều
người ngoài cộng đồng khoa học biết đến tôi, gọi là
Lịch Sử Tóm Lược Về Thời Gian (A Brief History of
Time). Vì vậy, một số người tưởng rằng, tôi là
chuyên gia về thời gian, mặc dù ngày nay chuyên
gia không hẳn là việc tốt. Thứ hai, một người vào
lứa tuổi 21 nghe bác sĩ nói, chỉ còn sống năm năm
nữa, nhưng lại sống đến năm 2018, được 76 tuổi,
tôi trở thành chuyên gia thời gian theo một nghĩa
khác, loại ý nghĩa đặc thù cho cá nhân. Tôi không
thoải mái, nhận thức sâu sắc về dòng thời gian, và
sống phần lớn đời mình với ý thức thời gian là ân
huệ, như người ta nói, tôi vay mượn nó.
Không nghi ngờ gì nữa, thế giới đang bất ổn về mặt
chính trị hơn bao giờ hết trong trí nhớ của tôi. Đa số
dân chúng cảm thấy bị bỏ rơi đàng sau kinh tế và xã
hội. Kết quả, họ đang chuyển sang chủ nghĩa dân
kiểm, hoặc tối thiểu là muốn được nổi tiếng, những
chính trị gia thiếu kinh nghiệm điều hành chính
quyền, thiếu khả năng quyết định bình tĩnh những
sự việc chưa được kiểm tra, trong tình hình khủng
139
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
hoảng. Nghĩa là đồng hồ tận thế nên di chuyển đến
gần giờ nguy kịch, vì viễn cảnh các lực lượng bất
cẩn hoặc ác tâm càng ngày càng gia tăng dễ sinh ra
trận chiến quyết liệt cuối cùng.
Địa cầu bị đe dọa từ nhiều phương diện, các mối đe
dọa quá lớn, khó cho tôi cảm thấy lạc quan. Thứ
nhất, địa cầu trở thành quá nhỏ đối với nhân loại
đang bành trướng. Các nguồn cung cấp vật chất cho
sự sống đang cạn kiệt ở mức cần báo động. Loài
người đã tặng cho địa cầu món quà thảm khốc là
hiệu quả của biến đổi khí hậu. Nhiệt độ tăng dần,
băng ở Bắc Cực tan rã, nạn phá rừng, nạn nhân
mãn, dịch bệnh, chiến tranh, đói kém, thiếu nước,
và sự hủy diệt của các động vật. Những sự kiện này
có thể giải quyết nhưng cho đến nay vẫn chưa được
cải thiện.
Địa cầu trở nóng là do lỗi của tất cả mọi người.
Chúng ta muốn xe hơi, muốn du lịch, và muốn đạt
đời sống căn bản khá hơn. Vấn đề là khi người ta
hiểu được chuyện gì xảy ra, đã có thể quá muộn.
Khi chúng ta đứng trên bờ vực của thời đại nguyên
tử cấp hai và thời đại khí hậu biến đổi chưa từng có,
một lần nữa, các nhà khoa học có bổn phận đặc biệt
thông báo cho công chúng và tư vấn các nhà lãnh
đạo về những hiểm họa mà nhân loại phải gánh
chịu. Chúng tôi, những nhà khoa học, hơn ai hết,
hiểu rõ sự nguy hiểm của vũ khí nguyên tử và tác
động tàn phá của nó. Đồng thời, chúng tôi đang tìm
hiểu các hoạt động của con người, của các kỷ nghệ
đang ảnh hưởng xấu đến phẩm chất khí hậu, có khả
năng thay đổi vĩnh viễn cách sống trên địa cầu. Là
công dân thế giới, chúng ta có nghĩa vụ chia sẻ hiểu
biết đó và báo động công chúng những nguy hiểm
không đáng có trong đời sống hàng ngày. Chúng tôi
thấy trước nguy cơ lớn nếu chính phủ và xã hội
140
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
không hành động ngay bây giờ, để giảm thiểu vũ khí
nguyên tử, làm cho nó mất hiệu lực, và ngăn chận
sự biến đổi khí hậu gia tăng. Đồng thời nhiều chính
trị gia đang phủ nhận thực tế sự thay đổi khí hậu do
con người tạo ra, hoặc tối thiểu là khả năng con
người có thể đảo ngược, ngay tại thời điểm nhân
loại phải đương đầu với một loạt các cuộc khủng
hoảng môi trường nghiêm trọng.
Điều nguy hiểm là sự tăng nhiệt độ toàn cầu có khả
năng tự duy trì, tự phát triển, ở tình trạng hiện nay
không rõ nó đã đạt đến mức độ này hay chưa. Sự
tan chảy của các tảng băng ở Bắc Cực và Nam Cực
làm giảm phần năng lượng mặt trời phản xạ trở lại
không gian, do đó, nhiệt độ sẽ gia tăng cao hơn nữa.
Biến đổi khí hậu có khả năng tiêu hủy vùng Amazon
và các khu rừng nhiệt đới, vì vậy, loại bỏ một trong
những cách chính yếu lấy khí carbon dioxide khỏi
bầu khí quyển. Sự gia tăng nhiệt độ trong nước biển
cũng sẽ phóng thích số lượng carbon dioxide lớn.
Cả hai sự kiện này làm tăng hiệu ứng nhà kính. (Làm
dày thêm lớp khí trong như kính bao bọc chung quanh địa cầu,
ánh nắng xuyên qua lớp kính dày sẽ làm nhiệt độ trong bầu khí
quyển nóng hơn.) Do đó, làm tình trạng địa cầu nóng
lên thêm trầm trọng. Có thể khiến khí hậu địa cầu
giống như sao Kim (Venus): ái-xít sulphuric sôi và
mưa xuống với nhiệt độ 250 độ C, 482 độ F. Cuộc
sống nhân loại sẽ không bền vững. Chúng ta cần
phải vượt qua Nghị định thư Kyoto, do quốc tế thỏa
thuận và thông qua năm 1997, để cắt giảm lượng
khí thải carbon ngay từ bây giờ. Chúng ta đã có kỹ
thuật, chỉ cần ý muốn chính trị.
Chúng ta có thể là người thiếu hiểu biết, thiếu suy
nghĩ. Trong lịch sử, khi con người gặp những khủng
hoảng tương tựa đã tìm kiếm cách giải quyết ở
những nơi khác, Như Colombus đã phát hiện Tân
141
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Thế Giới trong năm 1492, nhưng bây giờ không có
thế giới mới, chỉ có những nơi không tưởng. Chúng
ta đang sử dụng gần hết đất sống, và cách duy nhất
là tìm đến những nơi khác trong vũ trụ.
Vũ trụ là nơi đầy bạo động. Các ngôi sao phá hủy
các hành tinh, các siêu tân tinh (supernovae) bắn ra
những tia tử vong vào không gian, các lỗ đen va vào
nhau, và các tiểu hành tinh lao mình chung quanh
với tốc độ hàng trăm dặm một giây. Đành rằng
những hiện tượng này không làm cho không gian có
vẻ hấp dẫn, nhưng cũng có một số lý do khiến chúng
ta nên dấn thân vào vũ trụ thay vì ở yên nơi này.
Việc va chạm với tiểu hành tinh sẽ là sự kiện mà
chúng ta chưa có biện pháp tự vệ. Vụ va chạm lớn
lần cuối cùng với địa cầu là khoảng 66 triệu năm
trước, việc đó đã tiêu diệt những con khủng long.
Rồi nó sẽ xảy ra lần nữa. Đây không phải là khoa
học viễn tưởng, nó sẽ xảy ra theo các định luật vật
lý và xác suất.
Chiến tranh nguyên tử vẫn là mối đe dọa lớn nhất
đối với nhân loại trong thời điểm này. Nó nguy hiểm
đến mức chúng ta muốn quên đi. Nga và Mỹ không
còn quá hăng say bấm nút nữa. Nhưng giả sử, vì
một tai nạn nào đó, hoặc vũ khí nguyên tử của hai
quốc gia lớn lọt vào tay những kẻ khủng bố. Còn tai
hại hơn nữa khi nhiều quốc gia khác sở hữu vũ khí
nguyên tử. Ngay cả sau chiến tranh Lạnh kết thúc,
số vũ khí nguyên tử tồn trữ đủ khả năng hủy diệt tất
cả nhân loại. Hơn nữa, các quốc gia mới có bom
nguyên tử sẽ gây thêm bất ổn. Trong thời gian dài,
mối đe dọa nguyên tử có thể giảm bớt, nhưng các
mối đe dọa khác lại phát triển mạnh mẽ, vì vậy,
chúng ta cần đề phòng.
142
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Không cách này thì cách khác, tôi xem như thảm
họa này không thể tránh khỏi. Trong vòng 1,000 năm
tới, vào một thời điểm nào đó, cuộc đối đầu của vũ
khí nguyên tử hoặc thảm họa môi trường sẽ làm tê
liệt địa cầu, chuyện này chỉ diễn ra trong nháy mắt.
Lúc đó, tôi hy vọng và tin tưởng chủng tộc đảm lược
của chúng ta sẽ tìm cách vượt qua những hệ lụy
đương nhiên của địa cầu, và sẽ sống sót sau tai ách.
Tất nhiên hàng triệu sinh vật khác sống trên địa cầu
không có khả năng giải đáp để tồn tại, việc này thuộc
vào lương tâm của chúng ta, gọi là lương tri con
người.
Tôi nghĩ chúng đang hành động thiếu thận trọng với
tương lai trên địa cầu. Hiện tại, nhân loại chưa có
nơi nào khác để di dời, nhưng về lâu dài, loài người
không nên dồn hết trứng vào một giỏ, hoặc chỉ trên
một hành tinh (Ngụ ý, loài người nên tìm hành tinh khác để
chia ra cư trú, tránh thảm họa diệt vong.) Tôi hy vọng tránh
được việc rơi giỏ xuống đất trước khi loài người học
cách thoát khỏi địa cầu. Bản chất chúng ta là những
nhà thám hiểm. Được thúc đẩy bởi sự tò mò. Đây là
phẩm chất duy nhất của con người. Chính sự tò mò
đã khiến các nhà thám hiểm chứng minh địa cầu
không bằng phẳng; cũng chính khả năng này đưa
chúng ta đến các ngôi sao bằng tốc độ của suy nghĩ,
hối thúc con người phải đến đó bằng thực tế. Bất cứ
khi nào chúng ta thực hiện một bước nhảy vọt mới
lạ diệu kỳ như cuộc đổ bộ lên cung trăng, chúng ta
sẽ nâng cấp nhân loại, gắn bó con người và các
quốc gia lại với nhau, mở rộng những khám phá mới
và kỹ nghệ mới. (Ý nghĩ này đến từ tấm lòng yêu thương
đồng loại, gán cho đám đông một khả năng cao cả. Thực tế,
những bước tiến nhảy vọt sẽ làm một số người nghĩ ra niềm tư
lợi và nếu họ có quyền lực để thực hiện, sẽ tạo ra thêm sự bất
lợi.)
143
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Muốn rời khỏi địa cầu, việc này đòi hỏi sự quan tâm
toàn cầu, cùng nhau tiến tới. Tất cả mọi người đều
nên tham gia. Khơi dậy lòng hào hứng của những
ngày khởi đầu du hành vũ trụ, năm 1960. (Thời điểm
lên cung trăng.)
Công kỹ nghệ khoa học gần như nằm trong tầm tay.
Đã đến lúc có thể khám phá các hệ mặt trời khác. Di
cư loài người ở trải ra nhiều nơi, đây có thể là điều
duy nhất để tự cứu chúng ta. Tôi tin rằng nhân loại
sẽ phải rời bỏ địa cầu. Nếu ở lại, chúng ta có nguy
cơ bị tiêu diệt.
Ngoài hy vọng khám phá không gian, khoa học
tương lai có thể giúp con người như thế nào? Bức
tranh khoa học phổ biến tương lai được thể hiện
trong loạt phim khoa học viễn tưởng như Star Trek,
các nhà sản xuất phim Star Trek còn thuyết phục
mời tôi tham gia, nhưng không phải như vậy, thực
tế khó khăn hơn nhiều.
Tuy sự xuất hiện rất thú vị, nhưng tôi đề cập đến
phim ảnh viễn tưởng để nêu lên một quan điểm
nghiêm túc.
Hầu như tất cả viễn cảnh về tương lai mà chúng ta
thấy từ H.G. Wells trở đi, là những gì không cập
nhật. Chúng cho thấy, trong đa số lớn những trường
hợp, đây là những xã hội văn minh đi trước chúng
ta, về khoa học, công kỹ nghệ, và tổ chức chính trị.
Trong khoảng thời gian từ bây giờ đến lúc đó, sẽ có
nhiều thay đổi lớn, với những căng thẳng và hỗn
loạn. Tuy vậy, đến lúc đó, đến một tương lai mong
muốn, chúng ta phải có khoa học, công kỹ nghệ và
tổ chức xã hội gần như hoàn thiện.
Tôi đặt câu hỏi về viễn cảnh này, liệu chúng ta có
bao giờ đạt đến trạng thái ổn định cuối cùng của
144
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
khoa học và công kỹ nghệ hay không? Trong vòng
10.000 năm hoặc lâu hơn, kể từ Thời đại Băng Giá,
không có lúc nào loài người ở trong trạng thái không
gia tăng kiến thức và phát triển công kỹ nghệ.
Cũng có những gia đoạn trở ngại như Thời Đại Đen
Tối (Dark Age) sau khi đế chế La Mã sụp đổ. Nhưng
dân số thế giới, sự kiện đo lường khả năng công kỹ
nghệ bảo tồn và nuôi dưỡng sự sống, đã gia tăng
đều đặn, với đôi lần nấc cụt như đại dịch Chết Đen
(Black Death). Trong 200 năm qua, dân số thế giới
đã tăng từ 1 tỷ đến khoảng 7, 6 tỷ. Các thước đo
khác về sức phát triển công kỹ nghệ trong thời gian
gần đây là số lượng tiêu thụ điện, hoặc số lượng
những bài viết về khoa học. Chúng cũng tăng
trưởng gần như cấp số nhân. Thật vậy, ngày nay
chúng ta có những kỳ vọng cao đến mức một số
người cảm thấy bị các chính trị gia và các nhà khoa
học lừa dối, vì chúng ta chưa đạt được tầm nhìn vô
hạn trong tương lai. Ví dụ, năm 2001, phim A Space
Odyssey cho chúng ta thấy một căn cứ trên mặt
trăng và phóng chuyến bay có người lái đến sao
Mộc.
Không có dấu hiệu nào cho thấy sự phát triển khoa
học và công kỹ nghệ sẽ chậm lại hoặc dừng chân
trong một tương lai gần. Chắc chắn là không bằng
thời kỳ của Star Trek, tức là khoảng 350 năm nữa.
Nhưng với tốc độ tăng trưởng hiện nay, nó không
thể kéo dài sang thiên niên kỷ tới. Vào năm 2600,
dân số thế giới sẽ đứng vai chen vai, và sức tiêu thụ
điện sẽ làm địa cầu nóng lên đỏ rực. Nếu bạn sắp
những sách mới xuất bản sát cạnh bên nhau, với
nhịp độ ấn hành hiện tại, bạn phải di chuyển với tốc
độ 90 km mỗi giờ chỉ để đuổi kịp đến cuối hàng. Dĩ
nhiên, vào năm 2600, các tác phẩm khoa học và
nghệ thuật mới sẽ xuất hiện dưới dạng điện tử hơn
145
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
là trang giấy. Tuy nhiên, nếu nhịp độ tăng trưởng
tiếp tục theo cấp số nhân, sẽ có mười bài viết trong
một giây về những lý thuyết vật lý, sẽ không có thời
giờ để đọc.
Rõ ràng sức tăng trưởng theo cấp số nhân hiện tại
không thể tiếp tục tới vô hạn. Chuyện gì sẽ xảy ra?
Một trường hợp là nhân loại tự hủy diệt chính mình
qua thảm họa nào đó, chẳng hạn, chiến tranh
nguyên tử. Cho dù chúng ta không bị hủy diệt hoàn
toàn, vẫn có khả năng rơi vào tình thái tàn bạo và
man rợ như cảnh mở đầu phim Terminator.
Khoa học và công kỹ nghệ sẽ như thế nào trong
niên kỷ tới?
Việc này rất khó trả lời. Nhưng để tôi liều mạng đưa
ra những dự đoán tương lai. Tôi sẽ có một số cơ hội
đúng trong vòng một trăm năm tới, còn phần còn lại
của một ngàn năm sẽ là những suy đoán hoang
tưởng.
Sự hiểu biết về khoa học hiện đại bắt đầu cùng một
lúc với người Âu Châu đến định cư vùng bắc Mỹ.
Vào cuối thế kỷ 19, dường như chúng ta sắp đạt đến
sự hiểu biết hoàn chỉnh về vũ trụ dưới dạng những
gì ngày nay gọi là các định luật cổ điển. Nhưng rồi,
như đã thấy, thế kỷ 20 mở ra những quan sát, cho
biết, năng lượng đến trong các gói rời rạc, gọi là
lượng tử. Sinh ra một lý thuyết mới: Cơ Học Lượng
Tử đã được Max Planck và những người khác xây
dựng. Việc này trình bày một bức tranh hoàn toàn
khác với thực tế, trong đó, mọi thứ không có một lịch
sử duy nhất, nhưng có nhiều lịch sử có thể xảy ra
theo xác suất riêng của nó. Khi một người đi xuống
các hạt riêng lẻ, lịch sử của các hạt có thể phải bao
gồm các lối truyền đi với tốc độ nhanh hơn ánh sáng
146
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
và những lối truyền đi quay ngược thời gian. Những
lối quay ngược không giống những thiên thần đang
múa trên chiếc đinh ghim. Chúng là hệ quả do quan
sát thực sự. Ngay cả khi chúng ta nghĩ, không gian
trống rỗng, thì nó đang chứa đầy các hạt chuyển
động theo các vòng khép kín trong không gian-thời
gian. Có nghĩa, chúng di chuyển về phía trước trong
thời gian ở một bên của vòng lập lại, rồi lùi về trong
thời gian của phía bên kia. (Xin nhắc lại, đối với khoa học
Lương Tử, tất cả những gì đang sinh sống, những gì xảy ra trong
quá khứ đến tương lai đều do sự chuyển động và phối hợp của
hạt.)
Điều khó xử là có vô hạn số điểm trong không gianthời gian, nên có thể có vô số vòng hạt khép kín. Các
vòng hạt này sẽ mang năng lượng vô hạn và sẽ
cuộn tròn không gian-thời gian đến một điểm duy
nhất. Ngay cả khoa học viễn tưởng cũng không thể
nghĩ ra điều gì kỳ hoặc như thế. Đối phó với loại
năng lượng vô hạn, đòi hỏi một số tính toán thực sự
sáng tạo. Phần lớn nghiên cứu về lý thuyết vật lý
trong hai mươi năm qua nỗ lực tìm một lý thuyết nào,
trong đó, vô số những vòng khép kín không gianthời gian tự triệt tiêu lẫn nhau. Chỉ khi đó, mới có thể
thống nhất thuyết Lượng Tử và thuyết Tương Đối
Rộng của Einstein, để tạo thành một thuyết hoàn
hảo về các quy luật căn bản trong vũ trụ.
Những triển vọng sẽ khám phá lý thuyết hoàn chỉnh
này trong thiên niên kỷ tới là gì? Tôi nói, có cơ hội
tốt vì tôi là người lạc quan.
Trong năm 1980, Tôi đã từng nói, có cơ hội 50-50
sẽ khám phá một lý thuyết thống nhất hoàn hảo
trong 20 năm tới. Kể từ đó, trong một khoảng thời
gian, chúng ta đã đạt được một số tiến bộ đáng kể,
nhưng lý thuyết cuối cùng vẫn còn xa xôi. Liệu Chén
147
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Thánh vật lý luôn luôn nằm ngoài tầm tay với của
chúng ta? Tôi nghĩ là không.
Vào đầu thế kỷ 20, con người đã hiểu sự vận hành
của tự nhiên trên bậc thang vật lý cổ điển. Điều tốt
đẹp này tính ra khoảng một phần trăm milimét. Công
trình nghiên cứu vật lý nguyên tử trong 30 năm đầu
của thế kỷ cho chúng ta sự hiểu biết dài khoảng một
phần triệu milimét. Từ đó, nghiên cứu về nguyên tử
và vật lý năng lượng cao đã dẫn chúng ta đến những
thang đo có độ dài nhỏ hơn thừa số của một tỷ.
Dường như chúng ta có thể tiếp tục khám phá
những cấu trúc trên các thang đo nhỏ dần, nhỏ dần.
Tuy nhiên, có sự giới hạn đối với dãy khám phá này
tương tựa như loạt phim Russian dolls (Những búp
bê Nga.) Cuối cùng khi đến con búp bê nhỏ nhất,
không thể tách rời nhỏ hơn nữa. Trong vật lý, gọi đó
là chiều dài Planck, là một milimét cho 100.000 tỷ tỷ
tỷ. Chúng ta không thể chuẩn bị chế tạo chiếc máy
gia tốc hạt nào để thăm dò một khoảng cách nhỏ
như vậy. Chúng sẽ lớn hơn hệ mặt trời và khả năng
tài chánh hiện nay không thể chấp nhận chi phí sáng
chế. Tuy nhiên, có những hậu quả mà lý thuyết có
thể kiểm tra bởi những máy móc khiêm tốn hơn
nhiều.
Sẽ không thể thăm dò độ dài của Planck trong phòng
thí nghiệm, dù có thể nghiên cứu vụ nổ Big Bang để
quan sát lấy bằng chứng về năng lượng cao và cấp
đo chiều dài, ngắn hơn những gì có thể đạt được
trên mặt đất. Tuy nhiên, ở một mức độ lớn, chúng ta
phải dựa vào bản chất cao kỳ của toán học và tính
nhất quán để tìm ra lý thuyết cuối cùng của mọi thứ.
Tầm nhìn của Star Trek về tương lai cho con người
đạt đến trình độ cao nhưng ở mức độ căn bản là ổn
định, có khả năng trở thành hiện thực, đối với kiến
148
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
thức về luật cơ bản chi phối vũ trụ. Tôi nghĩ rằng,
con người sẽ không đạt được tình trạng ổn định
trong việc sử dụng những luật lệ này. Lý thuyết cuối
cùng sẽ không đặt ra giới hạn trên mức độ phức tạp
của một hệ thống mà chúng ta có thể làm nên. Cũng
trong chính sự phức tạp này, tôi nghĩ, phát triển
quan trọng nhất trong một ngàn nắm tới, chính là lý
thuyết này.
Cho đến nay, hệ thống phức tạp nhất đang có, là cơ
thể con người. Dường như sự sống nguyên thủy bắt
đầu từ đại dương, đã bao bọc địa cầu 4 tỷ năm
trước. Chúng ta không rõ chuyện xảy ra như thế
nào. Có thể do sự va chạm ngẫu nhiên giữa các
nguyên tử tạo ra phân tử lớn, có khả năng tự tái tạo
và tự lắp ráp thành những cấu trúc phức tạp hơn.
Những gì chúng ta biết, cách đây ba tỷ rưỡi năm,
phân tử rất phức tạp DNA xuất hiện. DNA là căn bản
cho tất cả sự sống trên địa cầu. Nó có cấu trúc xoắn
kép, như hai cầu thang xoắc ốc, do Francis Crick và
James Watson phát hiện trong phòng thí nghiệm
Cavendish tại Cambridge năm 1953. Hai sợi của dây
xoắn kép liên kết với nhau bằng các cặp nitrogen
căn bản: cytosine, guanine, adenine, thymine, giống
như các bậc thang trong cầu thang xoắn ốc. Thứ tự
các niytogen khác nhau xảy ra dọc theo cầu thang
mang thông tin di truyền cho phép phân tử DNA lắp
ráp một tổ chức sống chung quanh và tự sinh sản.
Khi DNA tự tạo ra các bản sao của nó, đôi khi bị sai
sót về thứ tự của các cặp nitrogen dọc theo đường
xoắn. Hầu hết mọi trường hợp, những sai lầm trong
quá trình sao chép, khiến cho phân tử DNA không
thể tự tái tạo, vì vậy các lỗi di truyền hoặc đột biến
sẽ chết đi. Nhưng trong một số ít trường hợp, lỗi và
sự đột biến làm tăng cơ hội cho DNA sống sót và có
khả năng tái tạo. (Hành trình của số ít DNA sống sót và tự
149
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sinh sản, rồi sống sót rồi tự sinh sản, sẽ dần dần tiến tới công
trình xây dựng những tế bào phôi, tế bào nguyên khai sự sống.)
Do đó, sức chứa thông tin trong dãy nitrogen phát
triển và gia tăng độ phức tạp. Sự chọn lọc tự nhiên
của các đột biến do nhà khoa học ở Cambridge,
Charles Darwin đề nghị vào năm 1858, mặc dù ông
không biết rõ cơ chế của nó.
Bởi tiến trình sinh hóa học là một cuộc viễn du ngẫu
nhiên trong không gian mang theo tất cả khả năng
di truyền của nó, diễn ra rất chậm chạp. Sự phức
tạp, nghĩa là số lượng đơn vị (bit) chứa thông tin
được mã hóa trong DNA, gần bằng số lượng
nitrogen trong phân tử. Mỗi bit thông tin là một câu
hỏi, mà câu trả lời chỉ chọn: có hoặc không. Trong
khoảng hai tỷ năm đầu, tốc độ gia tăng phức tạp phải
theo thứ tự của một bit thông tin và một bít phát triển
một trăm năm. Trong vài triệu năm qua, tốc độ gia
tăng mức phức tạp của DNA dần dần nhanh hơn
khoảng một bít trong một năm. Bây giờ, chúng ta bắt
đầu một kỷ nguyên mới, chúng ta sẽ có thể gia tăng
độ phức tạp của DNA mà không cần chờ quá trình
tiến hóa sinh học diễn ra chậm chạp. Có rất ít thay
đổi trong DNA của con người trong 10.000 ngàn
năm qua. Nhưng lại có khả năng cho con người tái
thiết kế hoàn toàn trong một ngàn năm tới. Tất
nhiên, nhiều người cho rằng công kỹ nghệ về gen
tạo nên con người phải bị ngăn cấm. Nhưng tôi nghi
ngờ, không thể ngăn cấm điều này. Kỹ thuật di
truyền đã được phép áp dụng trên động vật và thực
vật, vì lý do kinh tế. Một số người nào đó nhất định
sẽ thử làm con người. Trừ phi, có một trật tự thế giới
toàn trị. Nếu không, ai đó, từ nơi nào đó, sẽ thiết kế
những con người cải tiến.
Rõ ràng, phát triển con người được cải thiện sẽ tạo
ra vấn đề xã hội và chính trị đối với con người không
150
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
được cải thiện. Tôi không ủng hộ kỹ thuật di truyền
là một việc tốt, tôi chỉ nói rằng, việc này có khả năng
xảy ra trong thiên niên kỷ tới, cho dù muốn hay
không. Đây là lý do tôi không tin khoa học viễn tưởng
như Star Trek, nơi con người có cơ bản giống nhau
sau 350 năm trong tương lai. Theo tôi, loài người và
DNA của người, sẽ gia tăng độ phức tạp và tạo
nhiều khả năng tiến bộ nhanh. (Một số nhà văn viễn
tưởng đã cho một số người tương lai có khả năng siêu phàm,
hoặc đặc biệt.) Bằng một cách nào đó, con người phải
cải thiện phẩm chất tinh thần và thể xác để đối phó
thế giới càng ngày càng phức tạp, và đáp ứng
những thử thách mới, như du hành trong vũ trụ.
Cũng cần gia tăng độ phức tạp, nếu các hệ thống
sinh học luôn luôn đi trước các hệ thống điện tử.
Hiện tại, máy vi tính có lợi thế hơn về tốc độ, nhưng
chưa có dấu hiện thông minh.
Điều này không có gì ngạc nhiên vì máy vi tính hiện
nay ít phức tạp hơn bộ não con giun đất, một sinh
vật không được chú ý về khả năng trí tuệ. Nhưng
máy vi tính gần như tuân theo phiên bản định luật
Moore, nghĩa là, tốc độ và độ phức tạp tăng gấp đôi
sau mỗi 18 tháng. Đây là sự tăng trưởng theo cấp
số nhân, chắc chắn không thể tiếp tục như vậy một
cách vô hạn. Thực tế, nó đã bắt đầu chậm lại. Tuy
nhiên, tốc độ cải tiến nhanh chóng có thể tiếp tục
cho đến khi máy vi tính có độ phức tạp như não
người. Một số cho rằng máy vi tính sẽ không bao giờ
có thể tự tạo trí thông minh, bất cứ chuyện gì cũng
có thể xảy ra. Nhưng theo tôi, các phân tử hóa học
rất phức tạp trong cơ thể con người làm cho họ
thông minh, thì các mạch điện tử rất phức tạp không
kém cũng có khả năng khiến máy vi tính hoạt động
một cách thông minh. Và nếu như các máy này
thông minh đủ, chúng sẽ thiết kế những máy vi tính
thuộc thế hệ sau thông minh hơn.
151
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Đây là lý do tại sao tôi không tin vào bức tranh khoa
học viễn tưởng về một tương lai tiên tiến nhưng
thiếu dự đoán sự thay đổi. Thay vào đó, tôi mong
đợi sự phức tạp sẽ tăng tốc nhanh chóng, trong cả
hai lãnh vực: sinh học và điện tử. Không lâu, chuyện
này sẽ xảy ra trong vòng một trăm năm tới. Đó là
những gì chúng ta có thể dự đoán một cách đáng
tin. Rồi cuối thiên niên kỷ tới, nếu con người đến đó,
sự thay đổi sẽ là nền tảng.
Lincoln Steffens từng nói: “Tôi đã nhìn thấy tương lai
và nó xảy ra tốt đẹp.” Thực ra, ông ta nói về Liên Xô,
giờ đây, chúng ta đã biết, họ không thành công cho
lắm. Tôi nhận thấy trật tự thế giới có tương lai,
nhưng nó sẽ rất khác.
Mối đe dọa lớn nhất đối với tương lai của địa cầu là
gì?
Một vụ va chạm với một tiểu hành tinh khác sẽ là
mối đe dọa mà chúng ta không có biện pháp bảo vệ.
Như vụ va chạm tiểu hành tinh cách đây khoảng 60
triệu năm đã tiêu diệt loài khủng long. Một nguy cơ
trước mắt là tác dụng biến đổi khí hậu đang hoành
hành. Nhiệt độ nước biển tăng lên sẽ làm tan chảy
các cực chỏm băng và thải ra một số lượng lớn khí
carbonic. Cả hai chuyện này đều có thể biến khí hậu
địa cầu giống như sao Kim nơi có nhiệt độ 250 độ C
(482 độ F.)
152
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Có Nên Chinh Phục
Không Gian?
Tại sao chúng ta nên đi vào không gian? Có lý do
nào biện minh cho việc hao tốn công sức và tiền bạc
để kiếm được vài cục đá trên mặt trăng? Không có
những nguyên nhân nào tốt trên mặt đất hay sao?
Câu trả lời rõ ràng vì những lý do ở xung quanh
chúng ta. Nếu chúng ta không rời khỏi trái đất, sẽ
giống như người bị lạc trên hoang đảo, không muốn
cố gắng trốn thoát. Chúng ta cần khám phá hệ thống
mặt trời để tìm ra những nơi con người có thể sinh
sống và tồn tại.
Cũng tương tựa tình hình Âu Châu trước năm 1492.
Có lẽ mọi người đã lập luận, thật lãng phí tiền bạc
khi đưa Columbus đi tìm đất mới một cách vô vọng.
Tuy nhiên, nhờ việc tìm ra thế giới mới đã tạo sự
khác biệt sâu sắc cho thế giới cũ. Thử nghĩ, nếu
không tìm ta Châu Mỹ, làm sao chúng ta có
hambuger Big Mac hoặc gà chiên giòn KFC? Mở
rộng đời sống ra không gian sẽ còn có nhiều tác
dụng lớn hơn nữa. Sẽ hoàn toàn thay đổi tương lai
nhân loại, có thể, xác định: liệu chúng ta sẽ có một
tương lai nào hay không? Việc này không giải quyết
153
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
được những vấn nạn trên trái đất trước mắt, nhưng
sẽ cho một tầm nhìn mới, khiến chúng ta hướng ra
bên ngoài thay vì tiếp tục đối phó bên trong. (Nói một
cách khác, một số vấn đề như khí hậu thay đổi, cháy rừng, khô
sông, biển dâng cao ..v..v.. trên địa cầu sẽ không còn là những
điều đáng lo ngại, khi con người có thể dời sự sống đến những
hành tinh mới, có khả năng an toàn.) Hy vọng, sẽ khiến con
người phải đoàn kết để đối diện với những thách
thức chung. Đây là một kế hoạch dài hạn, ý tôi là
hàng trăm hoặc hàng ngàn năm. Chúng ta có thể có
căn cứ trên mặt trăng trong vòng 30 năm tới, đến
sao Hỏa khoảng 50 năm, khám phá những mặt trăng
của các hành tinh khác khoảng 200 năm. Tôi muốn
nói sự du hành của các phi thuyền không gian đưa
người đến những nơi đó. Chúng ta đã có thuyền đáp
xuống thăm dò Titan, mặt trăng của ngôi sao Thổ,
nhưng nếu muốn cân nhắc về tương lai nhân loại,
chúng ta phải đích thân đến đó.
Bay vào vũ trụ tuy rất tốn kém, nhưng chỉ chiếm một
phần nhỏ các nguồn tài lực của thế giới. Về mặt thực
tế, ngân sách NASA gần như vẫn giữ nguyên như
vậy kể từ thời phi thuyền Apollo đáp xuống mặt
trăng, rồi bị giảm thiểu từ 3% GDP của Hoa Kỳ năm
1970. xuống còn 1% vào năm 2017. Cho dẫu chúng
ta tăng ngân sách này lên 20 lần, để thực hiện mọi
nỗ lực nghiêm túc đi vào vũ trụ, cũng chỉ là một phần
nhỏ của tổng sản lượng thế giới.
Sẽ có một số người tranh luận rằng, đúng hơn,
chúng ta nên để dành tiền để giải quyết những khó
khăn trên địa cầu, ví dụ như khí hậu thay đổi và ô
nhiễm, hơn là lãng phí vào việc tìm kiếm hành tinh
mới với khả năng không có kết quả. Tôi không phủ
nhận tầm quan trọng việc chống lại khí hậu biến đổi
và sức hâm nóng toàn cầu, nhưng chúng ta có thể
154
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
làm được việc đó mà vẫn đầu tư ¼ GDP thế giới vào
không gian.
Chẳng lẽ tương lai nhân loại không đáng giá ¼ GDP
hay sao?
Chúng tôi nghĩ rằng, khám phá không gian rất đáng
giá trong cuộc nỗ lực vào thập niên 1960. Tổng
thống Kennedy cam kết với người dân sẽ đưa con
người lên mặt trăng vài cuối thập niên đó. Ngày 20
tháng 7 năm 1969, Buzz Aldrin và Armstrong đã đáp
xuống trên mặt trăng. Việc này làm thay đổi tương
lai con người. Lúc đó tôi 27 tuổi, là nhà nghiên cứu
ở Cambridge, đã bỏ lỡ cơ hội xem cuộc đổ bộ xuống
mặt trăng, vì bận tham dự cuộc họp ở Liverpool về
các điểm kỳ lạ (của black hole.) và nghe bài giảng của
René Thom về lý thuyết thảm họa. Thời đó, chưa có
truyền hình cập nhật, nhưng con trai hai tuổi đã mô
tả cho tôi nghe cảnh tượng đáp xuống mặt trăng
này.
Cuộc tranh đua không gian sẽ giúp tạo ra niềm say
mê khoa học, sẽ thúc đẩy sức tiến bộ của kỹ nghệ
và điện tử. Nhiều nhà khoa học ngày nay đã được
gợi hứng khởi để nghiên cứu khoa học do kết quả
của các cuộc du hành lên mặt trăng, với mục đích
tìm hiểu con người và vị trí của chúng ta trong vũ trụ.
Cho chúng ta một cách nhìn mới về thế giới, thúc
đẩy chúng ta chiếu cố toàn bộ hành tinh. Tuy nhiên,
sau lần hạ cánh cuối cùng trên mặt trăng năm 1972,
không còn có kế hoạch tương lai nào khác cho các
phi thuyền có người lái bay vào vũ trụ. Dân chúng
giảm sút lòng quan tâm đối với việc khám phá không
gian. Dẫn đến tâm lý lơ là chung đối với khoa học ở
Tây phương, vì dù nó mang lại ích lợi to lớn nhưng
không giải quyết được các vấn đề xã hội càng ngày
càng gây cho công chúng nhiều chú ý.
155
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Một chương trình mới để bay vào không gian với du
hành đoàn sẽ giúp việc khôi phục lại lòng nhiệt tình
của công chúng đối với không gian và khoa học nói
chung. Trong khi, các công việc và nhiệm vụ của
những robot sẽ ít phí tổn hơn và cung cấp nhiều tài
liệu, thông tin khoa học chính xác, nhưng chúng
không thu hút được trí tưởng tượng của công chúng.
Như vậy, họ không đưa loài người trải rộng ra nhiều
nơi trong không gian, điều mà tôi cho rằng, phải là
một chiến lược dài hạn. Mục tiêu đặt căn cứ trên mặt
trăng vào năm 2050 và đáp xuống sao Hỏa năm
2070, sẽ kích hoạt lại chương trình không gian và
cho nó một ý nghĩa về mục đích, tương tựa như mục
tiêu đổ bộ mặt trăng năm 1960 của tổng thống
Kennedy. Cuối thập niên 2017, Elon Musk công bố
kế hoạch của SpaceX (Phi thuyền X) về căn cứ trên
mặt trăng và sứ mệnh lên sao Hỏa, tổng thống
Trump đã ký chỉ thị về chính sách không gian nhằm
tái lập trung tâm NASA vào việc thăm dò khám phá
vũ trụ, vì vậy có lẽ chúng ta sẽ tiến đến mục đích
sớm hơn.
Nói chung, sự thích thú mới về không gian cũng sẽ
gia tăng vị thế khoa học đối với công chúng. Thái độ
xem thường khoa học và các nhà khoa học đang
gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Chúng ta đang
sống trong một xã hội, càng ngày càng bị chi phối
bởi khoa học và công nghệ, nhưng càng ít người trẻ
muốn dấn thân vào ngành khoa học. Một chương
trình không gian mới với đầy tham vọng sẽ kích thích
giới trẻ, thúc đẩy họ tham gia vào nhiều lãnh vực
khoa học, không chỉ vật lý thiên văn và khoa học vũ
trụ.
Điều này đúng với trường hợp của tôi. Tôi luôn luôn
ước mơ về chuyến bay vào vũ trụ, nhưng đã nhiều
năm biết chỉ là giấc mơ. Bị giam cầm trên mặt đất và
156
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
bị nhốt trong xe lăn, trong công việc về lý thuyết vật
lý, làm sao có thể trải nghiệm được sự hùng vĩ của
không gian ngoại trừ tưởng tượng. Không bao giờ
có thể nghĩ rằng, mình sẽ có cơ hội nhìn thấy trái đất
đẹp đẽ từ không gian hoặc được nhìn ra ngoài
không gian vô tận. Đây là lãnh vực của các phi hành
gia, những người may mắn được trải nghiệm sự kỳ
thú và hồi hộp của chuyến bay vũ trụ. Nhưng tôi đã
không nghĩ đến năng lượng và sự nhiệt tình của
những cá nhân có sứ mệnh thực hiện bước đầu tiên
mạo hiểm bên ngoài trái đất. Vào năm 2007, tôi có
may mắn được đi một chuyến bay trong chân không,
lần đầu tiên trải nghiệm chuyến bay không trọng lực.
Chỉ kéo dài có bốn phút, nhưng chuyến bay thật lạ
lùng. Tôi có thể tiếp tục bay mãi với nó.
Thời điểm này, họ trích dẫn lời tôi nói, e sợ nếu con
người không đi vào vũ trụ sẽ không có tương lai. Tôi
vẫn tin như vậy. Hy vọng rằng tôi đã chứng minh,
bất kỳ ai cũng có thể tham gia vào chuyến du hành
không gian. (Ý của ông là một người tàn tật như ông mà có
thể đi bốn phút trong chân không, thì có lẽ, mọi người khác đều
có cơ hội tốt hơn.)
Tôi tin các nhà khoa học, cùng với các doanh nhân
thương mại có nhiều sáng kiến, sẽ làm tất cả những
gì có thể để thúc đẩy sự phấn khởi, kỳ thú về việc
du hành vũ trụ.
Nhưng liệu con người có thể sống ngoài trái đất một
thời gian dài hay không? Chúng tôi kinh nghiệm với
ISS, Trạm Vũ trụ Quốc tế, cho thấy con người có thể
tồn tại trong nhiều tháng ở cách xa trái đất. Tuy
nhiên, quỹ đạo không trọng lực sẽ gây ra một số thay
đổi sinh lý ngoài ý muốn. Bao gồm việc xương bị suy
yếu, cũng như chất lỏng sẽ có những vấn đề thực
dụng…v…v… Vì vậy, muốn có bất kỳ cơ sở nào cho
157
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
con người ở trên hành tinh hoặc mặt trăng; phải đào
sâu vào bề mặt, để tạo ra khả năng cách nhiệt, để
bảo vệ khỏi bị các thiên thạch và các tia vũ trụ băng
trúng. Hành tinh hoặc mặt trăng cũng có thể đóng
vai trò cung cấp nguyên liêu thô cần thiết nếu xã hội
con người ngoài trái đất có thể tự duy trì, không phụ
thuộc vào trái đất. (Các khoa học gia còn hy vọng, các
nguồn nguyên liệu từ các hành tinh có khả năng cung cấp, thay
thế cho những nguyên liệu khan hiếm hoặc những nguyên liệu
mới để sử dụng thích hợp cho đời sống ngoài vũ trụ.)
Những vị trí nào có khả năng làm những thuộc địa
cho con người trong hệ thống mặt trời. Rõ ràng nhất
là mặt trăng. Vừa gần gũi, vừa tương đối đi và đến
dễ dàng. Chúng ta đã đặt chân lên và lái xe loanh
quanh trên đó.
Mặt khác, mặt trăng khá nhỏ, không có bầu khí
quyển, hoặc từ trường để làm lệch hướng các hạt
bức xạ mặt trời, khác với các điều kiện sống trên trái
đất. Mặt trăng không có nước lỏng, mặc dù có băng
tuyết trong các miệng núi lửa ở bắc và nam cực. Một
thuộc địa trên mặt trăng có thể sử dụng nguồn băng
nước này làm nguồn cung cấp Oxy, với nguồn năng
lượng cung cấp bởi mặt trời và hệ thống solar (Điện
tích trữ từ mặt trời.) Mặt trăng có thể dùng làm căn cứ,
một trạm dừng chân, để du hành khắp không gian.
Sao Hỏa là mục tiêu tiếp theo. Nó cách trái đất bằng
nửa đường đi mặt trời, do đó, nhận được nửa hơi
ấm. Nó từng có từ trường nhưng bị phân hủy cách
đây 4 tỷ năm, khiến cho sao Hỏa không được bảo
vệ an toàn bởi bức xạ mặt trời. Sao Hỏa bị mất đi
phần lớn bầu khí quyển, chỉ còn khoảng 1% áp suất
so với áp suất của trái đất. Tuy nhiên, trong quá khứ
áp suất ờ đó phải cao hơn, nhờ chúng ta thấy được
các dấu tích, dường như là các kênh và hồ nước đã
cạn. Hiện nay, chất lỏng không thể tồn tại trên mặt
158
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sao Hỏa. Sẽ bị bốc hơi trở thành môi trường gần
như chân không. Điều này cho thấy, sao Hỏa đã
từng có một thời ẩm ướt và ấm áp, lúc đó, sự sống
có thể đã xuất hiện một cách tự nhiên hoặc theo quá
trình panspermia (nghĩa là sự sống đến từ những
nơi khác trong vũ trụ.) Hiện giờ không thấy dấu hiệu
sự sống ở đây. Nếu tìm được bằng chứng có sự
sống đã từng tồn tại, điều này cho thấy xác suất sự
sống phát triển trên một hành tinh có điều kiện phù
hợp là khá cao. Chúng ta cần phải cẩn thận để
không lầm lỗi về vấn đề truyền nhiễm giữa hành tinh
với đời sống trên trái đất. (Nghĩa là không thể mang những
thứ nhiễm trùng, bệnh dịch, hoặc những thứ có khả năng lây lan
tàn hại từ trái đất lên các hành tinh.) Cũng như vậy, chúng
ta phải rất cẩn thận, không thể mang bất kỳ “sự
sống” nào từ sao Hỏa về đây, nếu con người không
thể chống lại, nhân loại có thể sẽ bị quét sạch.
NASA đã gửi một số lượng phi thuyền vũ trụ đến sao
Hỏa, bắt đầu từ con tàu Mariner 4 trong năm1964.
Chúng đã khảo sát hành tinh này và mới nhất là phi
thuyền quỹ đạo dọ thám sao Hỏa. Chúng đã phát
hiện những khe núi sâu do tác động của nước và
những ngọn núi cao nhất trong hệ mặt trời. NASA
cũng đã hạ cánh một số phi thuyền lên bề mặt của
sao Hỏa để thăm dò. Chúng đã gửi về lại những bức
ảnh về cảnh sa mạc khô cằn. Giống như trên mặt
trăng, nước và oxy có thể lấy được từ băng tuyết ở
các cực. Núi lửa đã hoạt động trên sao Hỏa. Việc
này sẽ mang khoáng chất và kim loại lên trên bề mặt
mà những người ở thuộc địa có thể sử dụng.
Trong hệ mặt trời này, mặt trăng và sao Hỏa là hai
địa điểm thích hợp nhất để thành lập thuộc địa. Sao
Thủy và Sao Kim quá nóng. Sao Mộc và sao Thổ là
hai khối khí khổng lồ nhưng không có bề mặt cứng.
159
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Mặt trăng của quỹ đạo sao Hỏa rất nhỏ, không có lợi
thế hơn chính sao Hỏa. Một số mặt trăng trong quỹ
đạo sao Mộc và sao Thổ có thể thích hợp hơn.
Europa, mặt trăng của sao Mộc, có bề mặt đóng
băng. Cũng có thể có nước ở bên dưới, nơi sự sống
có thể phát triển.
Làm sao chúng ta có thể tìm ra điều này? Con người
phải hạ cánh trên Europa để khoan lỗ xuyên qua mặt
băng?
Titan, một mặt trăng của sao Thổ, lớn hơn, nặng hơn
mặt trăng của trái đất, nó có bầu khí quyển thật dày.
Sứ mệnh Cassini-Huygens của NASA và cơ quan
Vũ Trụ Âu Châu đã có một phi thuyền đáp xuống
Titan để thăm dò. Gửi về hình ảnh bề mặt của nó.
Rất lạnh, vì quá xa mặt trời, và tôi sẽ không thích
sống bên cạnh cái hồ chứa chất lỏng mêtan.
Nhưng nếu mạnh dạn vượt ra ngoài hệ mặt trời thì
sao? Các quan sát của chúng ta trình bày cho thấy
một phần nhỏ đáng kể của các ngôi sao có hành tinh
vây quanh. Cho đến nay, chỉ có thể phát hiện các
hành tinh khổng lồ như Sao Mộc, sao Thổ, nhưng
cũng hữu lý khi cho rằng xung quanh chúng có
những hành tinh nhỏ hơn như trái đất. Một trong số
này nằm trong vùng Goldilock, nơi khoảng cách từ
ngôi sao đến nó vẫn nằm trong phạm vi phù hợp cho
nước lỏng tồn tại trên bề mặt. Như trường hợp này,
có khoảng một nghìn ngôi sao trong khoảng cách 30
năm ánh sáng từ trái đất. Nếu 1% trong số này có
các hành tinh kích thước bằng trái đất, chúng ta có
10 ứng cử viên để xây dựng một thế giới mới.
Lấy “Proxima b” làm ví dụ: Ngoại hành tinh này, tuy
gần trái đất nhất, nhưng vẫn xa khoảng bốn năm
rưỡi ánh sáng, xoay quanh ngôi sao Proxima
160
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Centauri trong hệ mặt trời Alpha Centauri. Nghiên
cứu gần đây cho thấy Proxima mang một số điểm
tương đồng như địa cầu.
Du hành đến thế giới của “ứng cử viên này”, có lẽ
không thể thực hiện được với mức độ công nghệ
hiện nay, nhưng bằng cách sử dụng trí tưởng tượng,
chúng ta có thể biến việc du hành giữa các ngôi sao
trở thành mục tiêu lâu dài, trong khoảng 200 đến 500
năm tới.
Tốc độ của mỗi hỏa tiễn bắn đi sẽ bị chi phối bởi hai
yếu tố: tốc độ của ống xịt khí và khối lượng của hỏa
tiễn, khối lượng này làm giảm đi tốc độ, nhất là khi
cần tăng tốc. Tốc độ của hỏa tiễn ngày nay chúng ta
đang sử dụng là khoảng 3 km / giây. Sau khi loại bỏ
30% khối lượng khỏi hỏa tiễn, tốc độ có thể thêm
nửa km / giây, nhưng sau đó sẽ dần dần chậm lại.
Theo NASA, sẽ mất ít nhất 260 ngày để đến sao
Hỏa, con số này xê dịch ít nhiều trong khoảng 10
ngày. Một số khoa học gia dự đoán là 130 ngày.
Nhưng sẽ mất ba triệu năm mới có thể đi đến một
hệ thống sao gần nhất. Để có tốc độ nhanh hơn,
phải có tốc độ xịt hơi cao hơn tốc độ khí xả hiện nay,
tức là tốc độ ánh sáng. Một chùm ánh sáng mạnh
nơi đáy hỏa tiễn có thể lái phi thuyền vũ trụ phóng
nhanh. Phản ứng tổng hợp hạch nhân có thể cung
cấp 1% năng lượng khối lượng cho con thuyền, việc
này sẽ gia tăng lên 1/10 tốc độ ánh sáng.
Ngoài ra, chúng ta sẽ cần tiêu hủy vật chất-phản vật
chất hoặc một số dạng năng lượng hoàn toàn mới.
Trên thực tế, Alpha Centauri ở rất xa nên phi thuyền
phải chở đủ nhiên liệu với khối lượng gần bằng các
ngôi sao trong thiên hà, để có thể du hành đến đó
trong một cuộc đời người.
161
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Nói một cách khác, với công nghệ hiện tại, việc du
hành giữa các ngôi sao hoàn toàn không thực tế.
Alpha Centauri không bao giờ trở thành một nơi để
đi nghỉ mát.
Chúng ta có cơ hội thay đổi chuyện này, nhờ trí
tưởng tượng và sự khéo léo. Năm 2016, tôi cùng
doanh nhân Yuri Milner khởi sự chương trình
Breakthrough Starshot, một nghiên cứu dài hạn
nhằm biến chuyện du lịch giữa các vì sao trở thành
hiện thực. Nếu thành công, chúng tôi sẽ gửi một
cuộc thăm dò đến Alpha Centauri trong vòng đời của
những người còn sống ngày nay, nhưng một lát
nữa, tôi sẽ quay trở lại câu chuyện này.
Cuộc hành trình này bắt đầu như thế nào? Cho đến
nay, chúng tôi chỉ khám phá rất giới hạn trong khu
vực vũ trụ địa phương. Bốn mươi năm trôi qua, phi
thuyền gan dạ nhất là Voyager, vừa được đưa lên
không gian giữa các vì sao. Tốc độ 11 dặm trong
một giây. Nghĩa là sẽ mất khoảng 70,000 năm để
đến Alpha Centauri. Chòm sao này cách chúng ta
4,37 năm ánh sáng, 25 ngàn tỷ dặm. Nếu có những
sinh vật còn sống trên Alpha Cantauri cho đến nay,
họ vẫn hạnh phúc, không biết gì vể sự trỗi dậy của
Donald Trump.
Rõ ràng chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên
không gian mới. Các phi hành gia tư nhân là những
người tiên phong, với những chuyến bay vô cùng
tốn kém, nhưng theo thời gian, tôi hy vọng những
chuyến bay vũ trụ sẽ trở thành trong tầm tay của đa
số dân chúng thế giới. Việc đưa càng nhiều hành
khách vào không gian càng mang lại ý nghĩa mới
cho trái đất và trách nhiệm của chúng ta với tư cách
là những người quản lý địa cầu. Đồng thời giúp
chúng ta xác định vị trí và tương lai con người trong
162
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
vũ trụ, đó là nơi tôi tin đang cưu mang định mệnh
cuối cùng của nhân loại.
Chương trình Breakthrough Starshot là cơ hội thật
sự để con người thực hiện những bước đột phá sớm
vào không gian, với mục đích tìm hiểu và cân nhắc
các khả năng xâm chiếm các thuộc địa mới. Đây là
sứ mệnh bằng chứng về khái niệm (proof-of-concept
mission) và hoạt động dựa trên ba khái niệm: phi
thuyền nhỏ (miniaturized spacecraf), sức đẩy ánh
sáng (light propulsion), và Tia la-de khóa pha
(phase-locked laser). (Căn bản kỹ thuật này là tạo ra sự
quan hệ “pha” cố định giữa các phương thức theo chiều dọc của
khoang cộng hưởng La-de. Tia này được gọi là “khóa pha”.)
Star Chip, phi thuyền thăm dò không gian đầy đủ
chức năng với kích thước giảm xuống còn vài cm,
được gắn vào một con thuyền nhẹ, làm bằng siêu
vật liệu, nặng không quá vài gam. Dự kiến rằng sẽ
đưa vào quỹ đạo không gian một ngàn Star Chip và
thuyền ánh sáng Nano. Trên mặt đất, một loạt tia lade được sắp xếp hàng cả kilô mét sẽ kết hợp thành
một chùm sáng duy nhất rất mạnh. Bắn chùm tia
xuyên qua bầu khí quyển, tống những con thuyền
Nano trong không gian với sức mạnh hàng chục
gigawatt.
Ý tưởng đàng sau sự đổi mới này là phi thuyền Nano
cưỡi trên chùm ánh sáng như Einstein đã từng mơ
ước được cưỡi chùm ánh sáng vào năm ông mười
sáu tuổi. Không hoàn toàn bằng tốc độ ánh sáng,
nhưng bằng một phần năm của nó, tức là 100 triệu
dặm trong một giờ.
Một hệ thống như vậy có thể đến sao Hỏa trong
vòng chưa đầy một giờ, đến sao Diêm Vương trong
vài ngày, vượt qua Voyager trong vòng chưa đầy
163
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
một tuần và đến Alpha Centauri chỉ trong hơn 20
năm.
Khi đáp xuống, thuyền Nano có thể chụp ảnh bất kỳ
hành tinh nào xuất hiện trong hệ thống, kiểm tra từ
trường và các phân tử hữu cơ, gửi các dữ liệu đó về
trái đất trong một chùm tia la-de khác. Tín hiệu nhỏ
này được nhận bởi cùng một dãy đĩa đã sử dụng để
phóng chùm tia sáng và quá trình quay trở lại, ước
tính sẽ kéo dài khoảng bốn năm ánh sáng. Quan
trọng hơn, quỹ đạo của Star Chip có thể bao gồm
chuyến bay ngang qua Proxima b, hành tinh này có
kích thước bằng trái đất, nằm trong vùng có thể sinh
sống được, thuộc về sao chủ Alpha Centauri. Từ
năm 2017, Breakthrough và Đài quan sát Nam Âu
Châu đã hợp tác để tiếp tục tìm kiếm các hành tinh
có đủ điều kiện để sinh sống trong phạm vi sao
Alpha Centauri.
Chương trình Breakthrough cũng có các mục tiêu
phụ. Như khám phá hệ mặt trời và phát hiện các tiểu
hành tinh băng ngang qua quỹ đạo của trái đất xoay
quanh mặt trời. Ngoài ra, nhà vật lý người Đức
Claudius Gros đã đề nghị một công nghệ có thể sử
dụng để thiết lập một vùng sinh quyển cho các vi
khuẩn đơn bào sống tạm thời trên các ngoại hành
tinh.
Cho đến nay, những chuyện này có khả năng xảy
ra. Tuy nhiên, còn một thử thách lớn. Tia la-de với
công suất gigawatt chỉ cung cấp lực đẩy vài Newton.
Nhưng phi thuyền Nano đáp ứng được khó khăn này
vì chỉ nặng vài gam. Phần kỹ thuật còn lại là thách
thức lớn hơn nhiều. Thuyền Nano phải tồn tại với gia
tốc cực mạnh, chịu lạnh, chân không và Proton,
cũng như những va chạm với bụi, rác trong không
164
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
gian. Ngoài ra, việc tập trung một tập hợp các tia lade tổng cộng 100 gigawatt để bay thuyền vũ trụ sẽ
rất khó khăn do sự nhiễu loạn của khí quyển. Làm
sao để kết hợp hàng trăm tia la-de xuyên qua bầu
khí quyển đang chuyển động? Làm sao để đẩy
thuyền Nano bay nhanh mà không làm nó cháy?
Làm sao để thuyền đi đúng hướng? Rồi, cần phải
giữ vững phi thuyền hoạt động suốt 20 năm trong
chân không lạnh đóng băng, để thuyền có thể gửi
tín hiệu về qua quá trình bốn năm ánh sáng? Đây là
vấn đề kỹ thuật. Cuối cùng những thách đố hiểm hóc
sẽ do các kỹ sư giải quyết. Khi việc này phát triển
thành công nghệ trưởng thành, các nhiệm vụ và
công việc khác sẽ được dự tính. Nếu các mảng lade kém công suất mạnh mẽ, thời gian hành trình đi
đến các hành tinh, đến hệ mặt trời khác, đến không
gian giữa các ngôi sao sẽ bị kéo dài thêm một cách
đáng kể.
Dĩ nhiên, đây sẽ không phải chỉ là chuyến du hành
vũ trụ, ngay cả khi phi thuyền với phi hành đoàn.
Việc này sẽ không dừng lại. Đó sẽ là thời kỳ văn hóa
nhân loại du hành giữa các chùm sao, khi rốt ráo,
con người có thể vượt qua ngoài thiên hà. Nếu
Breakthrough Starshot gửi lại hình ảnh một hành
tinh có thể sinh sống, đang xoay quanh một ngôi sao
hàng xóm gần nhất, kết quả này có thể mang lại tầm
quan trọng lớn lao đối với tương lai nhân loại.
Đi vào kết luận, tôi trở về lại với Einstein. Nếu tìm
thấy một hành tinh trong hệ Alpha Centauri, hình ảnh
này được chụp bằng một máy ảnh di chuyển với tốc
độ 1/5 tốc độ ánh sáng, sẽ bị hơi méo mó do ảnh
hưởng của thuyết tương đối hẹp. Đây là lần đầu tiên
một con thuyền vũ trụ bay đủ nhanh để nhìn thấy
hiệu ứng như vậy. Trên thực tế, lý thuyết của
Einstein là trung tâm toàn bộ sứ mệnh. Nếu không
165
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
có nó, sẽ không có la-de, sẽ không có khả năng thực
hiện các phép tính cần thiết cho việc dẫn đường,
chụp ảnh và truyền dữ liệu về trên quá trình 25 ngàn
tỷ dặm với tốc độ 1/5 vận tốc ánh sáng.
Chúng ta có thể thấy con đường giữa một cậu bé 16
tuổi ước mơ cưỡi chùm ánh sáng và giấc mơ của
chính chúng tôi, đang dự định biến thành hiện thực,
cưỡi chùm ánh sáng của chính mình bay đến các
ngôi sao. Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa
của một kỷ nguyên mới. Con người xâm chiếm vào
lục địa của các hành tinh khác không còn là khoa
học viễn tưởng, nó có thể là khoa học thực dụng.
Loài người đã tồn tại như loài sinh vật riêng biệt
trong khoảng hai triệu năm. Nền văn minh bắt đầu
cách đây khoảng 10,000 năm, và tốc độ tiến hóa
không ngừng gia tăng. Nếu nhân loại tiếp tục tăng
tiến trong một triệu năm nữa, tương lai của chúng ta
sẽ chắc chắn đi đến những nơi chưa có ai đến trước
đó. Tôi kỳ vọng điều tốt đẹp nhất. Phải như vậy.
Chúng ta không có lựa chọn khác.
Kỷ nguyên của dân chúng du hành vũ trụ đang sắp
đến. Bạn nghĩ, nó có ý nghĩa gì cho chúng ta?
Vì mong ước được du hành vũ trụ, tôi sẽ là người
đầu tiên mua vé. Hy vọng trong vòng một trăm năm,
chúng ta có thể du hành đến bất kỳ nơi nào trong hệ
mặt trời, ngoại trừ những hành tinh bên ngoài.
Nhưng du hành đến các ngôi sao khác sẽ lâu hơn,
tôi nghĩ trong khoảng 500 năm nữa, con người sẽ
đến thăm một số ngôi sao gần bên. Không giống
như phim khoa học giả tưởng Star Trek. Chúng ta
sẽ không di chuyển với tốc độ nhanh khủng khiếp.
Vì vậy, một chuyến du hành khứ hồi sẽ mất ít nhất
khoảng 10 năm hoặc lâu hơn.
166
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
C ó Thể Nào
Trí Tuệ Nhân Tạo
Khôn Hơn Con Người?
Trí thông minh là trung tâm ý nghĩa của quá trình làm
người. Mọi thứ mà nền văn minh cung cấp đều là
sản phẩm do trí tuệ con người làm ra.
DNA vượt trội các bản thiết kế sự sống giữa các thế
hệ. Khi các dạng sống trở nên phức tạp hơn, chúng
thu nhận thông tin từ các cảm biến như mắt và thính
giác, xử lý thông tin trong não hoặc các hệ thống hỗ
trợ, để chọn cách hành động và sau đó hành động
theo bối cảnh sống, chẳng hạn như bằng cách gửi
thông tin đến các cơ bắp. 13,8 tỷ năm lịch sử vũ trụ
chứa đựng một sự kiện tuyệt vời đã diễn ra. Do
thông tin này được xử lý một cách thông minh bằng
cách nào đó, các dạng sống đã phát triển ý thức.
Vũ trụ bây giờ đã thức tỉnh, tự biết nhận thức về
chính nó. Tôi coi đó là một chiến thắng khi chúng ta,
những người chỉ là những kẻ tầm thường, đã đạt
được sự hiểu biết chi tiết về vũ trụ.
167
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tôi nghĩ không có sự khác biệt đáng kể giữa cách
hoạt động của bộ não con giun đất và cách sinh hoạt
của máy vi tính. Tôi cũng tin rằng sự tiến hóa ngụ ý,
không thể có sự khác biệt về chất não giữa giun đất
và của con người. Do đó, về nguyên tắc, máy vi tính
có thể mô phỏng trí thông minh của con người, hoặc
thậm chí có thể tốt hơn. Ngày nay, đã rõ ràng, một
thứ gì đó có thể mang trí thông minh cao hơn tổ tiên:
chúng ta tiến hóa để thông minh hơn tổ tiên giống
vượn và Einstein thông minh hơn cha mẹ của ông.
Nếu máy vi tính tiếp tục tuân theo Định luật Moore,
tăng gấp đôi tốc độ và dung lượng bộ nhớ của chúng
sau mỗi mười tám tháng, thì kết quả là máy điện tử
có khả năng vượt qua con người về trí thông minh
vào một thời điểm nào đó trong một trăm năm tới.
Khi trí tuệ nhân tạo (AI) vượt trội trong thiết kế AI
đến mức nó có thể tự cải thiện, tự tiến hóa một cách
độc lập, không cần con người, chúng ta có thể phải
đối mặt với sự bùng nổ trí thông minh mà cuối cùng
dẫn đến việc những hệ thống máy có trí thông minh
vượt trội hơn con người, cũng như chúng ta so với
những con ốc sên. Khi điều đó xảy ra, chúng tôi sẽ
cần đảm bảo rằng các máy tính có mục tiêu phù hợp
với mục tiêu của con người. Thật khó để loại bỏ khái
niệm máy móc thông minh cao sẽ là một sai lầm của
khoa học viễn tưởng, nhưng đây có thể là một sai
lầm, và là sai lầm tồi tệ nhất của loài người từ trước
đến nay.
Trong khoảng hai mươi năm gần đây, AI đã tập
trung vào các vấn đề xung quanh việc xây dựng các
tác nhân thông minh, các hệ thống nhận thức và
hành động trong một môi trường cụ thể. Trong bối
cảnh này, trí thông minh có liên quan đến các khái
niệm thống kê và kinh tế về tính hợp lý - nghĩa là khả
năng đưa ra quyết định, kế hoạch hoặc suy luận
168
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đúng đắn. Kết quả của nghiên cứu gần đây, đã có
một mức độ hòa nhập và thụ tinh chéo lớn giữa AI,
(hàm ý những AI có thể kết hợp với nhau sinh ra AI khác), máy
học, thống kê, lý thuyết điều khiển, khoa học thần
kinh và các lĩnh vực khác. Việc thiết lập các khung
lý thuyết dùng chung, kết hợp với sự sẵn có của dữ
liệu và sức mạnh xử lý, đã mang lại những thành
công đáng kể trong các nhiệm vụ thành phần khác
nhau, chẳng hạn như nhận dạng giọng nói, phân loại
hình ảnh, xe tự hành, máy dịch, chuyển động bằng
chân và hệ thống trả lời câu hỏi.
Khi sự phát triển trong các lĩnh vực này và các lĩnh
vực khác chuyển từ nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm sang các công nghệ có giá trị kinh tế, một
chu trình đạo đức sẽ phát triển, theo đó, ngay cả
những cải tiến nhỏ trong hiệu suất cũng đáng giá
một khoản tiền lớn, thúc đẩy đầu tư ngày càng nhiều
hơn vào nghiên cứu. Hiện có một sự đồng thuận
rộng rãi rằng nghiên cứu AI đang tiến triển ổn định
và tác động của nó đối với xã hội có thể sẽ tăng lên.
Những lợi ích tiềm năng còn rất lớn; chúng ta không
thể dự đoán những gì có thể đạt được khi trí thông
minh này được phóng đại bởi các phương tiện mà
AI có thể cung cấp. Việc xóa bỏ bệnh tật và nghèo
đói là hoàn toàn có thể xảy ra. Vì tiềm năng to lớn
của AI, điều quan trọng là phải nghiên cứu cách thu
được lợi ích từ nó, đồng thời, tránh những cạm bẫy
tiềm ẩn. Thành công trong việc tạo ra AI sẽ là sự
kiện lớn nhất trong lịch sử loài người.
Thật không may, nó cũng có thể là lần cuối cùng, trừ
khi chúng ta học cách tránh né, kiểm soát những rủi
ro. AI được sử dụng như một bộ công cụ, AI có thể
tăng cường trí thông minh hiện có của chúng ta để
mở ra những tiến bộ trong mọi lĩnh vực khoa học và
xã hội. Tuy nhiên, nó cũng sẽ mang đến những nguy
169
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
hiểm. Trong khi các dạng trí tuệ nhân tạo nguyên
thủy được phát triển cho đến nay đã tỏ ra rất hữu
ích, tôi lo sợ hậu quả của việc tạo ra thứ gì đó có thể
sánh ngang hoặc vượt xa con người. Mối quan tâm
là AI sẽ tự phát triển và tự thiết kế lại với tốc độ càng
ngày càng gia tốc. Con người bị giới hạn bởi quá
trình tiến hóa sinh học chậm chạp, không thể cạnh
tranh và sẽ bị thay thế. Và trong tương lai, nếu AI có
thể phát triển lòng ham muốn riêng tư, những ý
muốn mâu thuẫn với chúng ta. Những người khác
tin rằng con người có thể điều khiển tốc độ công
nghệ trong một thời gian dài và khả năng của AI để
giải quyết nhiều vấn đề khó khăn của thế giới. Mặc
dù tôi nổi tiếng là một người lạc quan về đời sống
nhân loại, nhưng tôi không dám chắc lắm.
Chẳng hạn, trong ngắn hạn, quân đội thế giới đang
cân nhắc việc bắt đầu chạy đua vũ trang trong các
hệ thống vũ khí tự động có thể tự lựa chọn và loại
bỏ các mục tiêu của mình. Trong khi Liên Hợp Quốc
đang tranh luận về một hiệp ước cấm các loại vũ khí
như vậy, những người đề xuất vũ khí tự trị thường
quên đặt câu hỏi quan trọng nhất. Điểm kết thúc có
thể xảy ra của một cuộc chạy đua vũ trang là gì và
đó có phải là điều mong muốn đối với loài người?
Chúng ta có thực sự muốn vũ khí AI giá rẻ trở thành
Kalashnikovs của ngày mai, được bán cho bọn tội
phạm và khủng bố trên thị trường chợ đen? Trước
những lo ngại về khả năng duy trì quyền kiểm soát
lâu dài đối với các hệ thống AI tân tiến đang được
quan tâm hơn bao giờ hết. Liệu chúng ta có nên
trang bị và chuyển giao quyền bảo vệ của mình cho
AI? Năm 2010, các hệ thống giao dịch trên máy tính
đã tạo ra sự kiện Flash Crash trên thị trường chứng
khoán; Một vụ tai nạn do máy tính kích hoạt sẽ như
thế nào trong môi trường phòng thủ? Thời điểm tốt
170
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
nhất để ngăn chặn cuộc chạy đua vũ trang tự trị là
ngay từ bây giờ.
Trong trung hạn, AI có thể tự động hóa công việc,
để mang lại cả sự thịnh vượng và bình đẳng. Nhìn
xa hơn về phía trước, các hạt (nguyên tử) có thể
được sắp xếp theo những cách thực hiện các phép
tính, thậm chí còn phức tạp hơn sự sắp xếp của các
hạt trong não người vì không có quy luật vật lý nào
ngăn cản điều này. Quá trình chuyển đổi bùng nổ có
thể xảy ra, mặc dù nó có thể diễn ra khác với trong
phim khoa học viễn tưởng. Như nhà toán học Irving
Good nhận ra vào năm 1965, những bộ máy với trí
thông minh siêu phàm có thể từ từ cải tiến thiết kế
của chúng lên nhiều cấp hơn nữa. Điều này nhà văn
khoa học viễn tưởng Vernor Vinge gọi là điểm kỳ dị
công nghệ. Người ta có thể tưởng tượng công nghệ
như vậy vượt xa thị trường tài chính, các nhà nghiên
cứu con người phát minh ra, các nhà lãnh đạo sai
khiến và có khả năng khuất phục chúng ta bằng
những vũ khí mà chúng ta thậm chí không thể hiểu
được. Trong khi tác động ngắn hạn của AI phụ thuộc
vào ai kiểm soát nó, tác động dài hạn phụ thuộc vào
việc: liệu có thể kiểm soát được nó hay không?
Nói tóm lại, sự ra đời của AI siêu thông minh sẽ là
điều tốt nhất hoặc tồi tệ nhất từng xảy ra với nhân
loại. Rủi ro thực sự với AI không phải là ác ý mà là
năng lực. Một AI siêu thông minh sẽ cực kỳ giỏi trong
việc hoàn thành các mục tiêu của mình và nếu
những mục tiêu đó không phù hợp với con người thì
chúng ta đang gặp trở ngại. Bạn có thể không phải
là một kẻ ác tâm ghét đám kiến, tấn công kiến vì ác
ý, nhưng nếu bạn đang phụ trách một dự án năng
lượng xanh thủy điện và khiến cho kiến bị ngập lụt
trong vùng này, thì thật là xui xẻo cho lũ kiến.
171
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Chúng ta đừng đặt loài người vào trường hợp
những con kiến đó. Chúng ta nên lập kế hoạch
trước. Nếu một nền văn minh ngoài hành tinh vượt
trội gửi cho chúng tôi một tin nhắn văn bản với nội
dung “Chúng tôi sẽ đến trong vài thập niên nữa”, liệu
chúng ta có trả lời: “Được rồi, hãy gọi cho chúng tôi
khi bạn đến đây, chúng tôi sẽ bật đèn”? Có lẽ là
không, nhưng đây ít nhiều là những gì đã xảy ra với
AI. Ít có nghiên cứu nghiêm túc đã được dành cho
những vấn đề này ngoài trừ một số sơ sở nhỏ phi
lợi nhuận.
May mắn thay, sự kiện này hiện đang thay đổi.
Những người tiên phong về công nghệ như Bill
Gates, Steve Wozniak và Elon Musk đã nhắc lại mối
quan tâm của tôi và một nền văn hóa lành mạnh về
đánh giá rủi ro và nhận thức về các tác động xã hội
đang bắt đầu bén rễ trong cộng đồng AI. Vào tháng
1 năm 2015, tôi cùng với Elon Musk và nhiều chuyên
gia AI đã ký một bức thư ngỏ về trí tuệ nhân tạo, kêu
gọi nghiên cứu nghiêm túc về tác động của nó đối
với xã hội. Trước đây, Elon Musk từng cảnh báo
rằng trí tuệ nhân tạo siêu phàm có khả năng mang
lại những lợi ích khôn lường, nhưng nếu khai thác
không cẩn thận sẽ gây ảnh hưởng tai hại đến loài
người.
Ông ấy và tôi ngồi trong ban cố vấn khoa học cho
Future of Life Institute, một tổ chức làm việc để giảm
thiểu những rủi ro tồn tại mà nhân loại phải đối mặt,
và đã soạn thảo bức thư gửi ra. Kêu gọi nghiên cứu
cụ thể về cách có thể ngăn chặn các vấn đề tiềm ẩn
đồng thời gặt hái những lợi ích mà AI mang lại, đồng
thời được thiết kế để các nhà nghiên cứu và phát
triển AI chú ý hơn đến sự an toàn của trí tuệ nhân
tạo. Ngoài ra, đối với các nhà hoạch định chính sách
và công chúng, bức thư này có ý nghĩa cung cấp
172
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
thông tin nhưng không mang tính báo động. Chúng
tôi nghĩ rằng điều rất quan trọng là mọi người đều
biết, các nhà nghiên cứu AI đang suy nghĩ nghiêm
túc về những mối quan tâm và vấn đề đạo đức. Ví
dụ, AI có tiềm năng xóa bỏ bệnh tật và đói nghèo,
nhưng các nhà nghiên cứu phải nỗ lực để tạo ra AI
có thể kiểm soát được.
Vào tháng 10 năm 2016, tôi cũng đã mở một trung
tâm mới ở Cambridge, nơi sẽ cố gắng giải quyết một
số câu hỏi mở do tốc độ phát triển nhanh chóng
trong nghiên cứu AI. Trung tâm Leverhulme về
Tương lai của Trí tuệ là một viện đa lĩnh vực, chuyên
nghiên cứu về tương lai của trí thông minh có vai trò
quan trọng đối với tương lai của nền văn minh và
loài người chúng ta. Chúng tôi dành rất nhiều thời
gian để nghiên cứu lịch sử, mà chúng ta hãy đối mặt
với nó, phần lớn là lịch sử của sự ngu ngốc. Vì vậy,
đây là một thay đổi đáng hoan nghênh mà mọi người
đang nghiên cứu thay vì tương lai của trí thông minh.
Chúng ta nhận thức được những mối nguy hiểm
tiềm tàng, nhưng có lẽ với các công cụ của cuộc
cách mạng công nghệ mới này, chúng ta thậm chí
có thể khắc phục một số thiệt hại gây ra cho thế giới
tự nhiên do công nghiệp hóa.
Những phát triển gần đây trong sự tiến bộ của AI
bao gồm lời kêu gọi của Nghị viện Châu Âu về việc
soạn thảo một bộ quy định để quản trị việc tạo ra
robot và AI. Hơi ngạc nhiên, điều này bao gồm một
hình thức cá nhân điện tử, để đảm bảo các quyền
và trách nhiệm cho AI có khả năng và tiên tiến nhất.
Một phát ngôn viên của Nghị viện Châu Âu đã nhận
xét rằng, vì càng ngày càng có nhiều lĩnh vực trong
cuộc sống của chúng ta bị ảnh hưởng bởi robot,
chúng ta cần đảm bảo rằng robot đang và sẽ có,
phải phục vụ con người, (không phải ngược lại.)
173
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Một báo cáo được trình bày trước Nghị viện tuyên
bố rằng thế giới đang trên đỉnh của một cuộc cách
mạng robot công nghiệp mới. Kiểm tra việc cung cấp
các quyền hợp pháp robot với tư cách là người điện
tử, ngang bằng với định nghĩa pháp lý về tư cách
doanh nghiệp, có được cho phép hay không. Nhưng
nhấn mạnh rằng mọi lúc, các nhà nghiên cứu và nhà
thiết kế phải đảm bảo tất cả các thiết kế robot đều
có thể tiêu diệt bởi công tắc tiêu hủy. (Nói một cách
khác, khi cần thiết, chỉ cần bấm nút, AI sẽ chết, hoặc ngưng hoạt
động.)
Điều này không giúp được gì cho các nhà khoa học
trên tàu vũ trụ với Hal, một máy tính rô bốt bị trục
trặc trong Stanley Kubrick’s 2001: A Space
Odyssey, nhưng đó chỉ là chuyện viễn tưởng. Chúng
tôi đối phó với thực tế. Lorna Brazell, nhà tư vấn tại
công ty luật đa quốc gia Osborne Clarke, cho biết
trong một báo cáo, chúng tôi không coi cá voi và khỉ
đột là người có tư cách riêng, vì vậy không cần thiết
phải xăm lo vào vai trò người máy. Nhưng sự cảnh
giác là ở đó. Báo cáo thừa nhận khả năng trong
vòng vài thập niên nữa AI có thể vượt qua năng lực
trí tuệ con người và thách thức mối quan hệ giữa
người thật và người máy.
Đến năm 2025, sẽ có khoảng ba mươi thành phố
lớn, mỗi thành phố có hơn mười triệu dân. Với việc
tất cả những người đang khao khát hàng hóa và dịch
vụ được phân phối bất cứ khi nào họ muốn, liệu
công nghệ có thể giúp chúng ta bắt kịp với sự khao
khát thương mại tức thì không? Robot chắc chắn sẽ
tăng tốc quá trình bán lẻ trực tuyến. Nhưng để cách
mạng hóa việc mua sắm, họ cần phải đủ nhanh để
cho phép giao hàng trong ngày cho mọi đơn đặt
hàng.
174
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Ngày càng có nhiều cơ hội để giao lưu với thế giới
mà không thực sự hiện diện ở đó. Như bạn có thể
mong đợi, tôi thấy điều đó hấp dẫn, đặc biệt là khi
cuộc sống thành phố náo nhiệt khiến chúng ta vô
cùng bận rộn. Đã bao nhiêu lần bạn ước mơ có thể
hóa thành hai người để chia sẻ bớt công việc đang
tràn ngập? Tạo ra các đại diện điện tử (robot) thực
tế của chính chúng ta là một giấc mơ đầy tham vọng,
nhưng công nghệ mới nhất cho thấy rằng không
phải là một ý tưởng xa vời như người ta vẫn tưởng.
Khi tôi còn trẻ, sự phát triển của công nghệ chỉ ra
một tương lai mà tất cả chúng ta sẽ tận hưởng nhiều
thời gian giải trí hơn. Nhưng trên thực tế, chúng ta
càng làm được nhiều việc, chúng ta càng trở nên
bận rộn hơn. Các thành phố của chúng ta đã có đầy
đủ máy móc để mở rộng khả năng làm, nhưng nếu
chúng ta có thể ở hai nơi cùng một lúc thì sao?
Chúng tôi đã quen với giọng nói tự động trên hệ
thống điện thoại và thông báo công khai. Giờ đây,
nhà phát minh Daniel Kraft đang nghiên cứu cách
chúng ta có thể tái tạo bản thân thực sự một cách
trực quan. Câu hỏi đặt ra là avatar có thể thuyết
phục đến mức nào?
Thầy dạy tương tác có thể chứng tỏ sự hữu ích cho
các khóa học trực tuyến mở lớn (MOOC) và để giải
trí. Nó có thể thực sự thú vị, các diễn viên điện tử sẽ
trẻ mãi không già và có thể thực hiện những kỳ tích
khó làm.
Thần tượng tương lai của chúng ta thậm chí có thể
không có thật.
Cách chúng ta kết nối với thế giới điện tử là chìa
khóa cho những tiến bộ mà chúng ta sẽ đạt được
trong tương lai.
175
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Ở những thành phố thông minh nhất, những ngôi
nhà thông minh nhất sẽ được trang bị các thiết bị
trực diện đến mức họ sẽ gần như dễ dàng giao tiếp
qua lại.
Khi máy đánh chữ được phát minh, nó đã giải phóng
cách chúng ta quan hệ với máy móc. Gần 150 năm
sau và màn hình bằng chạm ngón tay điều khiển đã
mở ra những cách mới để giao tiếp với thế giới điện
tử. Các điểm mốc AI gần đây, chẳng hạn như xe hơi
tự lái hoặc máy vi tính chiến thắng trong trò chơi cờ
vây, là những dấu hiệu cho thấy điều gì sắp xảy ra.
Mức đầu tư khổng lồ đang đổ vào công nghệ này,
vốn đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc
sống. Trong những thập niên tới, nó sẽ thâm nhập
vào mọi khía cạnh của xã hội, hỗ trợ và tư vấn một
cách thông minh về nhiều lý do bao gồm chăm sóc
sức khỏe, công việc, giáo dục và khoa học. Những
thành tựu mà chúng ta đã thấy cho đến nay chắc
chắn sẽ nhạt nhòa so với những gì mà những thập
niên tới sẽ mang lại và không thể nào dự đoán được
những gì chúng ta có thể đạt đến, khi trí óc được
khuếch đại bởi AI.
Có lẽ với những công cụ của cuộc cách mạng công
nghệ mới này, có thể làm cho cuộc sống của con
người trở nên tốt đẹp hơn. Ví dụ, các nhà nghiên
cứu đang phát triển AI có thể giúp đảo ngược tình
trạng tê liệt ở những người bị chấn thương tủy sống.
Sử dụng cấy ghép chip silicon và giao diện điện tử
không dây giữa não và cơ thể, công nghệ này sẽ
cho phép mọi người điều khiển chuyển động cơ thể
bằng suy nghĩ của họ.
Tôi tin rằng tương lai của giao tiếp là não điện tử. Có
hai cách: đặt điện tử trên hộp sọ hoặc cấy ghép điện
tử vào não. Cách thứ nhất giống như nhìn qua kính
176
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mờ, cách thứ hai tốt hơn nhưng có nguy cơ bị nhiễm
trùng. Nếu chúng ta có thể kết nối bộ não con người
với internet, nó sẽ có tất cả Wikipedia làm tài
nguyên.
Thế giới càng ngày càng thay đổi nhanh hơn khi con
người, thiết bị và thông tin ngày càng được kết nối
với nhau. Sức mạnh tính toán càng ngày càng phát
triển và tính toán lượng tử đang nhanh chóng được
hiện thực hóa sự hiểu biết. Điều này sẽ cách mạng
hóa trí tuệ nhân tạo với tốc độ nhanh hơn theo cấp
lũy tiến. Nó sẽ tiến hành mã hóa. Máy tính lượng tử
sẽ thay đổi mọi thứ, thậm chí cả sinh học của con
người. Đã có một kỹ thuật để chỉnh sửa DNA chính
xác, được gọi là CRISPR. Cơ sở của công nghệ
chỉnh sửa bộ gen này là một hệ thống phòng thủ của
vi khuẩn. Nó có thể nhắm mục tiêu chính xác và
chỉnh sửa các đoạn mã di truyền. Mục đích tốt nhất
của thao tác di truyền là việc sửa đổi gen sẽ cho
phép các nhà khoa học điều trị các nguyên nhân di
truyền gây bệnh bằng cách sửa chữa các đột biến
gen.
Tuy nhiên, có những khả năng ít cao quý hơn để
điều khiển DNA. Chúng ta có thể đi bao xa với kỹ
thuật di truyền sẽ trở thành một câu hỏi càng ngày
càng cấp thiết. Chúng tôi không thể thấy khả năng
chữa khỏi các bệnh thần kinh vận động giống như
ALS của tôi, mà không nhìn thấy sự nguy hiểm của
nó.
Trí thông minh được đặc trưng là khả năng thích
ứng với sự thay đổi. Trí thông minh của con người
là kết quả của nhiều thế hệ chọn lọc tự nhiên của
những người có khả năng thích ứng với hoàn cảnh
thay đổi. Chúng ta không được sợ thay đổi. Chúng
ta cần làm cho nó hoạt động có lợi cho con người.
177
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tất cả chúng ta đều có vai trò trong việc bảo đảm
chúng ta và thế hệ tiếp theo không chỉ có cơ hội mà
còn cả quyết tâm tham gia hoàn toàn vào việc
nghiên cứu khoa học ở cấp độ còn trẻ, để có thể tiếp
tục phát huy tiềm năng của mình và tạo ra một thế
giới tốt đẹp hơn cho cả nhân loại. Chúng ta cần phải
học hỏi vượt ra ngoài cuộc thảo luận lý thuyết về
cách AI nên ra làm sao và để đảm bảo lập kế hoạch
cho nó có thể như theo ý định. Tất cả chúng ta đều
có tiềm năng vượt qua ranh giới của những gì được
chấp nhận, hoặc được mong đợi và suy nghĩ lớn.
Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của một thế
giới mới đầy dũng cảm. Đó là một nơi thú vị, nếu có
bấp bênh, và chúng ta là những người tiên phong.
Khi chúng ta phát minh ra lửa, chúng ta đã lộn xộn,
lầm lẫn, lập đi lập lại, sau đó phát minh ra bình chữa
cháy. Với những công nghệ mạnh mẽ hơn như vũ
khí hạt nhân, sinh học tổng hợp và trí tuệ nhân tạo
cao cấp, thay vào đó, chúng ta nên lập kế hoạch
trước và hướng tới mục tiêu hoàn thành tốt mọi thứ
ngay từ đầu, vì đó có thể là cơ hội duy nhất mà
chúng ta có được. Tương lai của chúng ta là một
cuộc chạy đua giữa sức mạnh ngày càng tăng của
công nghệ và trí tuệ mà chúng ta sử dụng. Hãy đảm
bảo: sự khôn ngoan sẽ chiến thắng.
Tại sao chúng ta lại lo lắng về trí tuệ nhân tạo?
Chắc chắn con người luôn có thể kéo dây cắm điện?
Mọi người hỏi máy tính, "Có Chúa không?" Và máy
vi tính nói, "Bây giờ, đang có," và rút dây cắm.
178
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Làm Thế Nào
Để Định Hướng Tương Lai?
Một thế kỷ trước, Albert Einstein đã cách mạng hóa
sự hiểu biết của chúng ta về không gian, thời gian,
năng lượng và vật chất. Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm
những xác nhận tuyệt vời cho dự đoán của ông,
chẳng hạn như sóng hấp lực được quan sát vào
năm 2016 bởi cuộc thí nghiệm LIGO. Khi nghĩ về tài
trí con người, tôi nghĩ ngay đến Einstein.
Những ý tưởng tài tình của ông đến từ đâu? Một sự
pha trộn giữa các phẩm chất, có lẽ: trực giác, độc
đáo, sáng chói. Einstein có khả năng nhìn xa hơn bề
mặt để biểu lộ cấu trúc bên dưới. Ông không nản
lòng trước lẽ bình thường, ý tưởng rằng mọi thứ phải
diễn ra theo cách của chúng. Ông có can đảm để
theo đuổi những ý tưởng mà người khác cho là vô
lý. Việc này giúp ông phát huy sự tài tình mà không
bị ràng buộc, một thiên tài trong thời đại ấy và của
mọi thời đại khác.
Một yếu tố quan trọng đối với Einstein là trí tưởng
tượng. Nhiều khám phá của ông đến từ khả năng
mô phỏng lại vũ trụ thông qua các thí nghiệm hư
cấu. Năm mười sáu tuổi, khi hình dung cưỡi trên một
chùm ánh sáng, ông nhận ra, từ ánh sáng thuận lợi
này sẽ xuất hiện dưới dạng một làn sóng đóng băng.
179
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Hình ảnh đó cuối cùng đã dẫn đến thuyết tương đối
hẹp.
Một trăm năm sau, các nhà vật lý đã biết vũ trụ nhiều
hơn Einstein. Bây giờ chúng ta có những phương
tiện tốt hơn để khám phá, chẳng hạn như máy gia
tốc hạt, siêu máy tính, kính viễn vọng không gian và
các thí nghiệm như công việc của phòng thí nghiệm
LIGO trên sóng hấp lực. Tuy nhiên, trí tưởng tượng
vẫn là thuộc tính cần thiết mạnh mẽ nhất. Với nó,
chúng ta có thể dạo chơi khắp nơi trong không gian
và thời gian. Có thể chứng kiến những hiện tượng
kỳ lạ nhất của tự nhiên khi đang lái xe, đang chợp
mắt trên giường hoặc giả vờ lắng nghe ai đó nhàm
chán trong bữa tiệc.
Khi còn là cậu bé, tôi rất quan tâm đến cách thức
mọi thứ hoạt động. Vào thời đó, tháo rời một thứ gì
ra để tìm hiểu cơ chế bên trong là việc khá dễ dàng.
Không phải lúc nào tôi cũng thành công lúc lắp ráp
lại những món đồ chơi đã tháo rời từng mảnh,
nhưng tôi đã học được nhiều điều hơn bất kỳ cậu bé
hay cô bé nào ngày nay nếu chúng thử thi mẹo vặt
tương tựa trên điện thoại thông minh.
Công việc của tôi bây giờ vẫn là tìm hiểu xem mọi
thứ hoạt động như thế nào, chỉ có điều mô hình đã
thay đổi. Không còn phá hủy xe lửa đồ chơi. Thay
vào đó, tôi cố gắng tìm hiểu vũ trụ hoạt động như
thế nào qua cách sử dụng các định luật vật lý. Nếu
bạn biết được một cái gì đó hoạt động như thế nào,
bạn có thể kiểm soát nó. Nghe có vẻ đơn giản khi
nói như vậy! Đó là một nỗ lực hấp dẫn, phức tạp đã
mê hoặc, khiến tôi xúc động trong suốt cuộc đời
trưởng thành. Tôi đã làm việc với một số nhà khoa
học vĩ đại nhất trên thế giới. Đã may mắn sống qua
khoảng thời gian huy hoàng trong lĩnh vực đã chọn,
vũ trụ học, nghiên cứu về nguồn gốc của vũ trụ.
180
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Tâm trí con người là một điều đáng kinh ngạc. Có
thể quan niệm về sự tráng lệ của bầu trời và sự phức
tạp các thành phần cơ bản vật chất. Tuy nhiên, để
mỗi tâm trí đạt được tiềm năng đầy đủ của nó, cần
có một tia lửa. Tia lửa của sự tìm hiểu và thắc mắc.
Thường thì tia lửa đó đến từ một thầy giáo. Cho
phép tôi giải thích. Tôi không phải là người dễ dạy,
tôi học đọc chậm và chữ viết tay của tôi không được
sạch sẽ. Nhưng khi tôi mười bốn tuổi, thầy của tôi
tại trường ở St Albans, ông Dikran Tahta, đã chỉ cho
tôi cách khai thác năng lượng của mình và khuyến
khích tôi suy nghĩ sáng tạo về toán học. Ông ấy đã
mở rộng tầm mắt của tôi về toán học như bản thiết
kế của chính vũ trụ. Nếu bạn nhìn đằng sau mỗi
người đặc biệt, sẽ có một thầy giáo đặc biệt. Khi mỗi
chúng ta nghĩ về những gì chúng ta có thể làm trong
cuộc sống, rất có thể chúng ta có thể làm điều đó vì
một thầy giáo.
Tuy nhiên, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công
nghệ đang bị đe dọa hơn bao giờ hết. Do cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây và các biện
pháp thắt lưng buộc bụng, tài trợ đang bị cắt giảm
đáng kể cho tất cả các lĩnh vực khoa học, nhưng đặc
biệt là các ngành khoa học cơ bản bị ảnh hưởng
nặng nề. Chúng ta cũng có nguy cơ trở nên bị cô lập
và cô lập về mặt văn hóa, ngày càng xa rời những
nơi đang đạt được tiến bộ. Ở cấp độ nghiên cứu,
việc trao đổi con người xuyên biên giới cho phép các
kỹ năng được chuyển giao nhanh hơn và mang đến
những người mới với những ý tưởng khác nhau,
xuất phát từ nền tảng khác nhau. Chuyện này có thể
dễ dàng tạo ra tiến bộ trong khi bây giờ tiến trình này
đang gặp nhiều khó khăn. Thật không may, chúng
ta không thể quay ngược thời gian. Với Brexit và
Trump hiện đang sử dụng các quyền lực mới liên
quan đến nhập cư và phát triển giáo dục, chúng ta
181
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
đang chứng kiến một cuộc nổi dậy toàn cầu chống
lại các chuyên gia, bao gồm cả các nhà khoa học.
Vậy chúng ta có thể làm gì để đảm bảo tương lai của
giáo dục khoa học và công nghệ?
Trở lại với thầy giáo của tôi, ông Tahta.
Cơ sở cho tương lai của giáo dục phải nằm ở trường
học và những người thầy gây hứng khởi. Nhưng các
trường học chỉ có thể cung cấp một khuôn khổ cơ
bản, nơi đôi khi việc học thuộc lòng, các phương
trình và các kỳ thi có thể khiến trẻ em xa lánh khoa
học. Hầu hết mọi người phản ứng với sự hiểu biết
định tính, thay vì định lượng, mà không cần đến các
phương trình phức tạp. Những cuốn sách và bài báo
khoa học nổi tiếng cũng có thể đưa ra những ý
tưởng về cách chúng ta sống. Tuy nhiên, chỉ một tỷ
lệ nhỏ dân số chịu đọc, ngay cả những cuốn sách
thành công nhất. Phim tài liệu và phim khoa học tiếp
cận được đông đảo khán giả nhưng chỉ là truyền
thông một chiều, mang tníh tiêu cực.
Khi tôi bắt đầu tham gia lĩnh vực này vào những năm
1960, vũ trụ học còn là ngành nghiên cứu khoa học
khó hiểu và kỳ quặc. Ngày nay, thông qua công trình
lý thuyết và những thành tựu thực nghiệm như Máy
Va chạm Hadron Lớn và khám phá ra boson Higgs,
vũ trụ học đã mở ra vũ trụ cho chúng ta. Vẫn còn
nhiều câu hỏi lớn cần trả lời và còn nhiều việc phải
làm ở phía trước. Nhưng bây giờ chúng ta biết nhiều
hơn, đã đạt được nhiều hơn trong khoảng thời gian
tương đối ngắn so với bất kỳ ai có thể tưởng tượng.
Nhưng chuyện gì chờ đợi phía trước cho những
người trẻ hôm nay? Tôi có thể tự tin nói rằng tương
lai của họ sẽ phụ thuộc vào khoa học và công nghệ
nhiều hơn bất kỳ thế hệ nào trước đây. Họ cần biết
về khoa học nhiều hơn bất kỳ ai trước họ vì nó là
182
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
một phần trong cuộc sống hàng ngày của họ theo
một lề lối chưa từng xảy ra.
Không cần suy đoán quá lung tung, chúng ta có thể
nhìn thấy những xu hướng và những vấn đề đang
nổi lên mà chúng ta biết là phải giải quyết ngay bây
giờ và trong tương lai. Một số những vấn đề là sự
nóng lên toàn cầu, tìm kiếm không gian và tài
nguyên cho sự gia tăng ồ ạt dân số loài người trên
trái đất, sự tuyệt chủng nhanh chóng của các loài
sinh vật khác, nhu cầu phát triển các nguồn năng
lượng tái tạo, sự suy thoái của các đại dương, nạn
phá rừng và dịch bệnh— đây chỉ là một số ví dụ.
Ngoài ra còn có những phát minh vĩ đại của tương
lai, sẽ cách mạng hóa cách phẩm chất sống, làm
việc, ăn uống, giao tiếp và du lịch. Có một phạm vi
rộng lớn cho sự đổi mới trong mọi lĩnh vực của đời
người. Thật thú vị. Chúng ta có thể khai thác kim loại
hiếm quí trên Mặt trăng, thiết lập tiền đồn của con
người trên Sao Hỏa và tìm ra phương pháp chữa trị
cho những tình trạng hiện giờ không có hy vọng.
Những câu hỏi lớn về sự tồn tại vẫn chưa được trả
lời—sự sống bắt đầu trên Trái đất như thế nào? Ý
thức là gì? Có ai ngoài đó hay chúng ta đơn độc
trong vũ trụ? Đây là những câu hỏi dành cho các thế
hệ tiếp theo giải quyết.
Một số người nghĩ rằng nhân loại ngày nay là đỉnh
cao của sự tiến hóa, và điều này đang là việc tốt nhất
có thể làm được. Tôi không đồng ý. Phải có điều gì
đó rất đặc biệt về các điều kiện biên của vũ trụ chúng
ta, và điều có thể đặc biệt hơn là không có biên. Và
không nên có ranh giới cho nỗ lực của con người.
Theo tôi thấy, chúng ta có hai lựa chọn cho tương
lai cho nhân loại: thứ nhất, khám phá không gian tìm
các hành tinh thay thế để sinh sống và thứ hai, sử
183
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
dụng tích cực trí tuệ nhân tạo để cải thiện thế giới
của chúng ta.
Trái đất đang trở nên quá nhỏ đối với loài. Tài
nguyên vật chất đang bị cạn kiệt với tốc độ đáng báo
động. Nhân loại đã mang đến cho trái đất những hậu
quả tai hại là biến đổi khí hậu, ô nhiễm, nhiệt độ tăng,
giảm băng ở hai cực, phá rừng và tàn sát các loài
động vật. Dân số cũng vậy, đang gia tăng với tốc độ
đáng quan tâm. Đối mặt với những con số này, rõ
ràng là sự gia tăng dân số gần như theo cấp số nhân
không thể tiếp tục trong thiên niên kỷ tới.
Một lý do khác để xem xét việc cần xâm chiếm hành
tinh khác là khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân.
Có giả thuyết cho rằng lý do không có người hành
tinh là vì khi một nền văn minh đạt đến giai đoạn phát
triển như chúng ta, nó trở nên bất ổn và tự hủy diệt.
Bây giờ chúng ta có sức mạnh công nghệ để tiêu
diệt mọi sinh vật sống trên Trái đất. Như chúng ta đã
thấy trong các sự kiện gần đây ở Bắc Triều Tiên,
một suy nghĩ nghiêm túc và đáng lo ngại.
Nhưng tôi tin rằng chúng ta có thể tránh được khả
năng ngày tận thế xảy ra (ngụ ý chiến tranh nguyên
tử chiến lược), một trong những cách tốt nhất để
làm là di chuyển phân phối loài người ra ngoài không
gian, nỗ lực khám phá khả năng con người có thể
sống trên các hành tinh khác.
Sự phát triển thứ hai sẽ tác động đến tương lai của
nhân loại là sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo.
Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo hiện đang tiến triển
nhanh chóng. Các dấu mốc gần đây như xe hơi tự
lái, máy tính giành chiến thắng trong trò chơi cờ vây,
sự xuất hiện của trợ lý cá nhân điện tử Siri, Google
Now và Cortana chỉ là những dấu hiệu của một cuộc
chạy đua vũ khí công nghệ điện tử trên cơ bản lý
thuyết, được thúc đẩy bởi các khoản đầu tư chưa
184
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
từng có và dựa trên nền tảng ngày càng phát triển
sâu sắc hơn. Những thành tựu như vậy có thể sẽ lu
mờ so với những gì mà những thập kỷ tới sẽ mang
lại.
Nhưng sự ra đời của AI siêu thông minh sẽ là điều
tốt nhất hoặc tồi tệ nhất từng xảy ra với nhân loại.
Chúng ta không thể biết liệu mình sẽ được AI giúp
đỡ hết sức hay không, hay bị nó phớt lờ và gạt sang
một bên, hoặc có thể bị nó tiêu diệt.
Là một người lạc quan, tôi tin rằng chúng ta có thể
tạo ra AI vì lợi ích của thế giới, AI có thể hoạt động
hài hòa với chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhận thức
được những mối nguy hiểm, xác định chúng, sử
dụng phương pháp quản lý và thực hành những
cách tốt nhất, đồng thời chuẩn bị trước cho những
hậu quả.
Công nghệ điện tử đã có một tác động rất lớn đến
cuộc sống của cá nhân tôi.
Tôi nói qua máy tính.
Tôi đã được hưởng lợi từ công nghệ hỗ trợ để mang
lại tiếng nói mà căn bệnh đã lấy đi. Đã may mắn mất
đi giọng nói khi bắt đầu thời đại phát triển máy tính
cá nhân. Intel đã hỗ trợ tôi trong hơn 25 năm qua,
cho phép tôi làm điều mình yêu thích mỗi ngày.
Trong những năm này, thế giới và tác động của công
nghệ đã thay đổi đáng kể. Công nghệ đã thay đổi
cách chúng ta sống, từ giao tiếp đến nghiên cứu di
truyền, tiếp cận thông tin, v.v. Khi công nghệ trở nên
thông minh hơn, nó đã mở ra những cánh cửa cho
những khả năng mà tôi chưa từng dự đoán. Công
nghệ hiện đang được phát triển để hỗ trợ người
khuyết tật đang dẫn đầu trong việc phá vỡ các rào
cản giao tiếp từng ngăn chận. Nó thường là một nền
tảng chứng minh cho công nghệ của tương lai.
Giọng nói thành văn bản, văn bản thành giọng nói,
185
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
tự động hóa gia đình, lái xe bằng dây, thậm chí cả
Segway, đã được phát triển cho người khuyết tật,
nhiều năm trước khi chúng được sử dụng hàng
ngày. Những thành tựu công nghệ này là do tia lửa
bên trong chúng ta, lực lượng sáng tạo.
Sự sáng tạo này có thể có nhiều hình thức, từ thành
tích vật lý đến lý thuyết vật lý.
Nhưng còn rất nhiều chuyện nữa sẽ xảy ra. Giao
diện não bộ có thể làm cho phương tiện giao tiếp
này—được ngày càng nhiều người sử dụng—nhanh
hơn và biểu cảm hơn. Bây giờ sử dụng Facebook—
nó cho phép tôi nói chuyện trực tiếp với bạn bè và
những người theo dõi mình trên toàn thế giới để họ
có thể cập nhật những lý thuyết mới nhất và xem
ảnh từ các chuyến du lịch của tôi. Điều đó cũng có
nghĩa là tôi có thể thấy con mình thực sự đang làm
gì, thay vì những gì chúng nói, chúng đang làm gì.
Cũng giống như cách internet, điện thoại di động,
hình ảnh y tế, định vị vệ tinh và mạng xã hội của
ngày nay, đối với vài thế hệ trước, họ không thể hiểu
được. Thế giới tương lai cũng sẽ biến đổi theo cách
chúng ta chỉ mới bắt đầu hình dung. Bản thân thông
tin sẽ không đưa chúng ta đến đó, nhưng việc sử
dụng nó một cách thông minh và sáng tạo thì có thể.
Còn rất nhiều điều nữa sẽ đến, tôi hy vọng, triển
vọng này sẽ mang lại nguồn cảm hứng tuyệt vời cho
các em học sinh ngày nay. Nhưng chúng ta có vai
trò trong việc bảo đảm thế hệ trẻ em này không chỉ
có cơ hội mà còn có lòng ham muốn tham gia đầy
đủ vào việc học tập khoa học ở cấp độ sớm để họ
có thể tiếp tục phát huy hết tiềm năng và tạo ra một
thế giới tốt đẹp hơn cho toàn thể loài người.
Tôi tin rằng tương lai của học tập và giáo dục là
internet. Mọi người có thể được trả lời những tìm
hiểu và tận dụng sự tương tác. Theo cách nào đó,
186
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Internet kết nối tất cả chúng ta với nhau giống như
các tế bào thần kinh trong một bộ não khổng lồ. Và
với chỉ số IQ lớn như vậy, chúng ta không thể không
làm ra việc gì?
Khi tôi lớn lên, vẫn có thể chấp nhận được - không
phải đối với tôi mà về mặt xã hội - nói rằng một người
không quan tâm đến khoa học và không thấy ích lợi
gì khi bận tâm đến nó. Bây giờ, không còn là trường
hợp này. Hãy để tôi giải thích rõ ràng. Tôi không ủng
hộ ý tưởng rằng tất cả những người trẻ nên trở
thành nhà khoa học. Tôi không coi đó là một tình
huống lý tưởng, vì thế giới cần những người có
nhiều kỹ năng khác nhau. Nhưng tôi ủng hộ, tất cả
những người trẻ nên làm quen và tự tin với các chủ
đề khoa học, bất kể họ chọn làm gì.
Họ cần phải hiểu biết về khoa học và được truyền
cảm hứng để tham gia vào sự phát triển của khoa
học và công nghệ để tìm hiểu thêm.
Theo tôi, một thế giới mà chỉ một nhóm siêu ưu tú
nhỏ bé mới có khả năng hiểu được khoa học và
công nghệ tiên tiến và các ứng dụng của nó sẽ là
một thế giới nguy hiểm và hạn chế. Tôi thực sự nghi
ngờ liệu các dự án mang lại lợi ích lâu dài như làm
sạch đại dương hay chữa bệnh ở các nước đang
phát triển có được ưu tiên hay không. Tồi tệ hơn,
chúng ta có thể thấy rằng công nghệ được sử dụng
để chống lại chúng ta và chúng ta có thể không có
quyền ngăn chặn nó.
Tôi không tin vào ranh giới, cho những gì chúng ta
có thể làm trong cuộc sống cá nhân của mình hoặc
cho những gì cuộc sống và trí thông minh có thể đạt
được trong vũ trụ. Chúng ta đang đứng trước
ngưỡng cửa của những khám phá quan trọng trong
mọi lĩnh vực khoa học. Không còn nghi ngờ gì nữa,
thế giới của chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều trong năm
187
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
mươi năm tới. Chúng ta sẽ tìm hiểu điều gì đã xảy
ra tại Big Bang. Chúng ta sẽ hiểu được sự sống bắt
đầu trên Trái đất như thế nào. Chúng ta thậm chí có
thể khám phá liệu sự sống có tồn tại ở những nơi
khác trong vũ trụ hay không. Mặc dù cơ hội giao tiếp
với một loài thông minh ngoài trái đất có thể rất mong
manh, nhưng tầm quan trọng của một khám phá như
vậy có nghĩa là chúng ta không được từ bỏ nỗ lực.
Chúng tôi sẽ tiếp tục khám phá môi trường sống
trong vũ trụ, đưa người máy và con người vào không
gian. Chúng ta không thể tiếp tục hướng nội vào
chính mình trên một hành tinh nhỏ bé ngày càng ô
nhiễm và quá đông đúc.
Thông qua nỗ lực khoa học và đổi mới công nghệ,
chúng ta phải hướng ra ngoài vũ trụ rộng lớn hơn,
đồng thời cố gắng khắc phục các vấn đề trên Trái
đất.
Tôi lạc quan rằng cuối cùng chúng ta sẽ tạo ra môi
trường sống khả thi cho loài người trên các hành
tinh khác. Chúng ta sẽ vượt thoát Trái đất và học
cách tồn tại trong không gian.
Đây không phải là kết thúc của câu chuyện, mà chỉ
là khởi đầu của những gì tôi hy vọng sẽ là hàng tỷ
năm sự sống phát triển trong vũ trụ.
Một điểm cuối cùng—chúng ta sẽ không bao giờ
thực sự biết những khám phá khoa học vĩ đại tiếp
theo sẽ đến từ đâu, cũng như ai sẽ tạo ra nó. Mở ra
sự hồi hộp và kỳ diệu của khám phá khoa học, tạo
ra những cách sáng tạo dễ tiếp cận để gần gũi giới
trẻ, là khán giả rộng lớn nhất, làm gia tăng đáng kể
những cơ hội tìm thấy và truyền cảm hứng cho
những Einstein mới. Bất cứ nơi nào ông ta sẽ hiên
diện.
Vì vậy, hãy nhớ nhìn lên những vì sao chứ không
nhìn xuống dưới chân. Cố gắng hiểu những gì bạn
188
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
nhìn thấy và tự hỏi điều gì khiến vũ trụ tồn tại. Tò
mò. Và dù cuộc sống có vẻ khó khăn đến đâu, luôn
có điều gì đó bạn có thể làm và thành công. Điều
quan trọng là không bỏ cuộc. Giải phóng trí tưởng
tượng. Định hướng tương lai.
Bạn muốn ý tưởng thay đổi thế giới nào, dù nhỏ hay
lớn, được nhân loại thực hiện?
Điều này thật dễ dàng. Tôi muốn thấy sự phát triển
của năng lượng nhiệt hạch để cung cấp nguồn năng
lượng sạch không giới hạn và chuyển sang sử dụng
ô tô điện. Phản ứng tổng hợp hạt nhân sẽ trở thành
một nguồn năng lượng thiết thực và sẽ cung cấp cho
chúng ta nguồn năng lượng vô tận, không gây ô
nhiễm hay sự nóng lên toàn cầu.
189
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Lời bạt
Lucy Hawking
Vào một ngày mùa xuân ở Cambridge xám xịt ảm
đạm, chúng tôi khởi hành trên đoàn xe màu đen
hướng tới Nhà thờ Great St Mary, nhà thờ của
trường đại học, nơi có truyền thống tổ chức tang lễ
cho các học giả nổi tiếng. Hết hơi, đường phố như
tắt tiếng. Cambridge trông trống rỗng, thậm chí
không có bóng dáng một du khách nào lang thang.
Những tia sáng màu duy nhất phát ra từ ánh đèn
nhấp nháy xanh lam của những cảnh sát đi mô tô
bảo vệ chiếc xe tang chở quan tài cha tôi, họ chặn
dòng xe cộ thưa thớt khi chúng tôi đi qua.
Sau đó chúng tôi rẽ trái. Nhìn thấy đám đông, tập
trung dọc theo một trong những con đường dễ nhận
biết nhất trên thế giới, King's Parade, trung tâm
chính của Cambridge. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều
người im lặng như vậy. Với các biểu ngữ, cờ, máy
ảnh và điện thoại di động giơ cao, một số lượng lớn
người xếp hàng dọc các con phố đứng trong sự tôn
trọng lặng lẽ khi người tang lễ trưởng của Gonville
và Caius, trường đại học Cambridge của cha tôi,
mặc trang phục lịch sự trong chiếc mũ quả dưa và
mang theo một cây gậy gỗ mun, long trọng đi dọc
con phố để đón xe tang và dẫn đến nhà thờ.
190
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Cô tôi siết chặt tay tôi, cả hai cùng bật khóc. “Ba của
con sẽ thích như thế này,” Cô thì thầm.
Kể từ khi cha tôi qua đời, có rất nhiều điều mà ông
yêu quý, rất nhiều điều tôi ước gì ông có thể biết
được. Ước gì ông có thể nhìn thấy sự tuôn trào tình
cảm lạ thường đối với ông, đến từ khắp nơi trên thế
giới. Ước gì ông có thể biết, hàng triệu người không
thân quen đã yêu mến và kính trọng ông như thế
nào. Ước gì ông biết ông sẽ được chôn cất tại Tu
viện Westminster, giữa hai thần tuợng khoa học,
Isaac Newton và Charles Darwin. Rồi khi ông được
yên nghỉ trên trái đất, giọng nói của ông sẽ được
kính viễn vọng vô tuyến phát tới hướng một lỗ đen.
Nhưng ông cũng sẽ tự hỏi tất cả những ồn ào đó là
về chuyện gì. Ông là người khiêm tốn đáng ngạc
nhiên, trong khi yêu thích ánh đèn sân khấu, dường
như bối rối bởi sự nổi tiếng của chính mình. Một cụm
từ trong cuốn sách này khiến tôi giật mình khi tóm
tắt thái độ của ông: “nếu tôi đã có đóng góp.” Ông là
người duy nhất thêm chữ “nếu” vào câu đó. Tôi nghĩ
những người khác cảm thấy khá chắc chắn rằng ông
đã đóng góp.
Và những đóng góp đó là sự việc lớn lao bao trùm
từ công việc nghiên cứu vũ trụ học, khám phá cấu
trúc và nguồn gốc của chính vũ trụ cũng như sự
dũng cảm và hài hước hoàn toàn của con người khi
đối mặt với những thách thức của mình. Ông đã tìm
ra cách vượt qua giới hạn của kiến thức đồng thời
vượt qua giới hạn của sức chịu đựng. Tôi tin rằng
chính sự kết hợp này đã khiến ông trở nên mẫu mực
nhưng đồng thời rất dễ gần gũi. Ông đau khổ nhưng
rất kiên trì. Ông rất nỗ lực để giao tiếp, đã liên tục
điều chỉnh thiết bị điện tử phát âm kể từ khi mất tiếng
nói và khả năng vận động. Ông chọn từ ngữ một
cách chính xác để chúng có tác động tối đa khi được
191
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
sử dụng bằng giọng điện tử đều đều nhưng trở nên
biểu cảm một cách kỳ lạ. Khi ông nói, mọi người lắng
nghe, cho dù đó là quan điểm về NHS hay về sự mở
rộng của vũ trụ. Ông không bao giờ bỏ lỡ cơ hội kể
một câu chuyện cười theo phong cách khó hiểu nhất
nhưng với ánh mắt lấp lánh đầy hiểu biết. (Ngụ ý khó
khăn biết bao khi kể chuyện cười mà chỉ nhướng lông mày, nhăn
bắp thịt trên mặt để điều khiển máy nói.)
Ba tôi cũng người yêu thương gia đình, hầu hết mọi
người đều không biết sự thật này cho đến khi bộ
phim The Theory of Everything ra mắt vào năm
2014. Vào những năm 1970, sự tình một người
khuyết tật có vợ con là điều không bình thường,
đồng thời, người ấy không có ý thức tự chủ và độc
lập mạnh mẽ. Khi còn nhỏ, tôi cực kỳ không thích
cách những người lạ vô tư nhìn chúng tôi đăm đăm.
Đôi khi há hốc miệng, khi ông điều khiển chiếc xe
lăn với tốc độ nhanh đến chóng mặt qua Cambridge,
cùng với hai đứa trẻ tóc vàng hoe, thường chạy theo
hai bên, trong khi cố gắng ăn cây cà-rem. Tôi nghĩ
họ vô cùng thô lỗ. Tôi đã từng cố gắng nhìn lại
nhưng biết sự phẫn nộ của mình bắn trả không trúng
mục tiêu, đặc biệt là không phải từ khuôn mặt trẻ con
lấm lem kẹo bánh.
Đây không phải là một tuổi thơ bình thường cho dù
tưởng tượng ra sao. Tôi biết, nhưng đồng thời cũng
không biết. Nghĩ đến việc hỏi người lớn nhiều câu
hỏi hóc búa là điều hoàn toàn bình thường bởi đây
là việc chúng tôi thường hỏi ở nhà. Chỉ đến một hôm
khi tôi làm cha xứ nhà thờ rơi nước mắt vì tra xét kỹ
lưỡng bằng chứng từ ông về sự hiện hữu của Chúa,
chuyện này thật bất ngờ.
Khi còn nhỏ, không nghĩ mình là kiểu người hay đặt
câu hỏi — tôi nhớ lại anh trai lớn, người luôn thông
minh hơn tôi trong mọi phương diện (và thực tế đến
giờ vẫn vậy). Nhớ lại một kỳ nghỉ mát của gia đình 192
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
giống như rất nhiều kỳ nghỉ khác, kỳ nghỉ này lại
trùng hợp một cách bí ẩn với một hội nghị vật lý ở
nước ngoài. Anh trai tôi và tôi đã tham dự một số bài
giảng— có lẽ, để giúp mẹ tôi thoát khỏi nhiệm vụ
chăm sóc lo lắng cho chúng tôi. Vào thời đó, các bài
giảng vật lý không phổ biến và chắc chắn không
dành cho trẻ em. Tôi ngồi đó, vẽ nguệch ngoạc vào
cuốn sổ ghi chú của mình, nhưng anh trai tôi giơ
cánh tay gầy gò của cậu bé lên trời và đặt một câu
hỏi với người dẫn chương trình học thuật nổi tiếng
trong khi cha tôi rạng rỡ với niềm tự hào.
Người ta thường hỏi tôi: "Làm con gái của Stephen
Hawking thì ra làm sao?" và chắc chắn, không có
câu trả lời ngắn gọn nào phù hợp. Tôi có thể nói rằng
“mức cao thì rất cao, mức thấp thì sâu sắc và ở giữa
một nơi được gọi là “bình thường—đối với chúng tôi,”
một sự chấp nhận khi trưởng thành, những gì chúng
tôi thấy bình thường sẽ không được coi là như vậy
đối với mọi người. Khi thời gian làm lu mờ nỗi phiền
muộn, tôi nghĩ lại, để trải qua những kinh nghiệm
này, tôi đã mất biết bao nhiêu ngày tháng, mà thật
ra, tôi không chắc mình đã muốn. Đôi khi, chỉ muốn
giữ lấy những lời cuối cùng ba tôi đã nói, tôi đã từng
là một đứa con gái đáng yêu và tôi không nên sợ
hãi. Tôi sẽ không bao giờ dũng cảm như anh tôi bản chất tôi không phải là người đặc biệt can đảm nhưng anh đã cho tôi thấy tôi có thể làm thử. Sự cố
gắng đó có thể trở thành một phần quan trọng nhất
của lòng dũng cảm.
Ba tôi không bao giờ bỏ cuộc, không bao giờ trốn
tránh cuộc chiến. Ở tuổi bảy mươi lăm, bị liệt hoàn
toàn, chỉ cử động được một số cơ mặt, vẫn hàng
ngày thức dậy, mặc đồ tề chỉnh và đi làm. Ông có
nhiều việc phải làm và sẽ không để một vài chuyện
vặt vãnh cản trở. Nhưng tôi phải nói rằng, nếu ông
biết những cảnh sát lái mô tô có mặt trong đám tang,
193
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
ông sẽ yêu cầu họ mỗi ngày điều hướng giúp ông đi
qua giao thông buổi sáng từ nhà ở Cambridge đến
văn phòng.
May mắn thay, ông đã biết đến cuốn sách này. Một
trong những dự án ông đã thực hiện trong năm cuối
cùng trên Trái đất. Ý tưởng của ông là tập hợp các
tác phẩm đương đại của mình thành một tập. Giống
như rất nhiều điều đã xảy ra kể từ khi ông qua đời,
tôi ước ông có thể xem phiên bản cuối cùng. Tôi nghĩ
ông sẽ rất tự hào về cuốn sách và thậm chí có thể
phải thừa nhận, cuối cùng, ông đã có những đóng
góp.
Lucy Hawking
tháng 7 năm 2018
194
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Stephen William Hawking
CH CBE FRS FRSA
(8 tháng 1 năm 1942 – 14 tháng 3
năm 2018)
Khoa Học Gia Người Anh
Nhà vật lý lý thuyết, nhà vũ trụ học, tác giả và Giám
đốc Nghiên cứu tại Trung tâm Vũ trụ học Lý thuyết
thuộc Đại học Cambridge. Các công trình khoa học
của ông bao gồm sự hợp tác với Roger Penrose về
các định lý hấp lực kỳ dị trong khuôn khổ thuyết
tương đối rộng. Dự đoán lý thuyết rằng các lỗ đen
phát ra bức xạ, thường được gọi là bức xạ Hawking.
Hawking là người đầu tiên đặt ra lý thuyết về vũ trụ
195
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
học được giải thích bằng sự kết hợp giữa thuyết
tương đối rộng và cơ học lượng tử.
Mặc dù bác sĩ cho biết ông mắc bệnh thần kinh vận
động tiến triển chậm đang khởi sự phát sớm (còn
được gọi là bệnh xơ cứng teo cơ một bên "ALS" hay
bệnh Lou Gehrig) khiến ông dần dần bị tê liệt toàn
bộ cơ thể, Hawking vẫn theo đuổi nghiên cứu của
mình một cách mạnh mẽ và không ngừng trong hơn
nửa thế kỷ. Ông đã thay đổi cách mọi người nhìn thế
giới.
Hawking là thành viên của Hiệp hội Hoàng gia
(FRS), thành viên trọn đời của Viện Hàn lâm Khoa
học Giáo hoàng và là người nhận Huân chương Tự
do của Tổng thống, giải thưởng dân sự cao nhất ở
Hoa Kỳ. Ông là Giáo sư Toán học Lucasian tại Đại
học Cambridge từ năm 1979 đến 2009 và đạt được
thành công thương mại với các công trình khoa học
phổ thông. Cuốn sách Lược Sử Thời Gian của ông
đã xuất hiện trong danh sách bán chạy nhất của
Thời báo Chủ nhật ở Anh trong 237 tuần. Được dịch
ra nhiều thứ tiếng, tiêu thụ mười triệu bản.
Thiếu Thời và Học Vấn
Hawking sinh tại Oxford, con của Frank (1905–
1986) và Isobel Eileen Hawking (1915–2013). Isobel
làm thư ký cho viện nghiên cứu y tế, còn Frank là
nhà nghiên cứu y học.
196
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Khi còn nhỏ, họ sống ở Highgate, Bắc London.
Stephen có hai em gái: Mary được sinh ra khi
Stephen mới 18 tháng và Philippa khi ông gần năm
tuổi. Ông cũng có một người anh nuôi, Edward
Frank David (1955–2003).
Năm 1950, khi cha của Hawking trở thành trưởng
khoa ký sinh trùng tại Viện Nghiên cứu Y học Quốc
gia, gia đình chuyển đến St Albans, Hertfordshire.[3]
Người ta xem họ là những người rất thông minh và
hơi lập dị; trong các bữa ăn họ im lặng và đọc sách.
Họ sống một cuộc sống thanh đạm trong một ngôi
nhà lớn, bừa bộn và được bảo trì kém, di chuyển
trên một chiếc taxi đã được cải tạo ở London và kỳ
nghỉ hè trong đoàn lữ hành gypsy sơn trên Bờ biển
Dorset.
Tiểu Học và Trung Học
Hawking bắt đầu đi học tại Trường Byron House ở
Highgate, London. Ở St Albans, Hawking tám tuổi
lần đầu tiên theo học trường trung học dành cho nữ
sinh St Albans.
Hawking theo học hai trường độc lập, Trường
Radlett, và Trường St Albans. Gia đình rất coi trọng
giáo dục và cha của Hawking muốn con trai mình
theo học tại Trường Westminster được đánh giá
cao. Tuy nhiên, cậu bé Stephen 13 tuổi bị ốm vào
ngày thi học bổng. Gia đình không đủ khả năng chi
trả học phí nếu không có học bổng hỗ trợ tài chính,
vì vậy ông vẫn ở lại St Albans. Một hệ quả tích cực
197
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
là Hawking ở lại với một nhóm bạn thân mà ông
cùng chơi các trò chơi trên bàn cờ, chế tạo pháo
hoa, mô hình máy bay và thuyền, cũng như thảo
luận dài về Cơ đốc giáo và khả năng ngoại cảm.
Mặc dù ở trường được gọi là "Einstein", Hawking
ban đầu không thành công trong học tập. Theo thời
gian, ông bắt đầu bộc lộ năng khiếu đáng kể đối với
các môn khoa học và được giáo viên dạy toán
Dikran Tahta gây cảm hứng, anh ấy đã quyết định
học toán ở trường đại học. Cha của Hawking khuyên
ông theo học ngành y. Muốn con trai mình theo học
University College, Oxford, trường cũ mà ông đã tốt
nghiệp. Vì không thể học toán ở đó vào thời điểm
này, Hawking quyết định học vật lý và hóa học. Bất
chấp lời khuyên của hiệu trưởng là đợi đến năm sau,
Hawking đã được trao học bổng sau khi tham gia kỳ
thi vào tháng 3 năm 1959.
Đại Học
Hawking bắt đầu từ đại học tại University College,
Oxford, vào tháng 10 năm 1959 ở tuổi 17. Trong 18
tháng đầu tiên, ông cảm thấy buồn chán và cô đơn,
nhận thấy công việc học tập "dễ dàng đến nực
cười". Một thay đổi đã xảy ra trong lần thứ hai của
ông và năm thứ ba khi ông phát triển thành một sinh
viên đại học nổi tiếng, sôi nổi và hóm hỉnh, quan tâm
đến âm nhạc cổ điển và khoa học viễn tưởng. Một
phần của sự thay đổi là do anh quyết định tham gia
câu lạc bộ chèo thuyền của trường đại học, Câu lạc
198
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
bộ Thuyền Đại học, nơi anh thành lập một đội chèo
thuyền. Lúc đó, huấn luyện viên chèo thuyền ghi
nhận, Hawking đã nuôi dưỡng hình ảnh liều lĩnh,
điều khiển thủy thủ đoàn đi theo những hướng mạo
hiểm khiến thuyền bị hư hỏng.
Hawking ước tính, ông đã học khoảng 1.000 giờ
trong ba năm ở Oxford. Những thói quen học tập
không mấy ấn tượng này khiến việc dự thi cuối năm
trở thành một thách thức, và ông quyết định chỉ trả
lời các câu hỏi vật lý lý thuyết thay vì những câu hỏi
đòi hỏi kiến thức thực tế. Bằng danh dự hạng nhất
là điều kiện để được chấp nhận cho nghiên cứu sau
đại học theo kế hoạch của ông về vũ trụ học tại Đại
học Cambridge. Lo lắng, ông ngủ không ngon vào
đêm trước kỳ thi, và kết quả cuối cùng nằm ở giữa
hạng nhất và hạng hai, khiến phải đòi hỏi cuộc kiểm
tra vấn đáp dưới hình thức phỏng vấn cá nhân với
giám khảo. Hawking lo ngại rằng ông bị coi là một
sinh viên lười biếng và khó bảo, vì vậy, khi được yêu
cầu mô tả kế hoạch của mình, ông nói: "Nếu quí vị
trao cho tôi giải Nhất, tôi sẽ đến Cambridge. Nếu tôi
nhận được giải Nhì, tôi sẽ ở lại trường". (Oxford,) vì
vậy tôi mong quí vị sẽ cho tôi điểm Nhất." Sau khi
nhận bằng cử nhân (Hons.) hạng nhất về khoa học
tự nhiên, ông hoàn thành chuyến đi chơi đến Iran
cùng một người bạn. Rồi bắt đầu công việc sau đại
học của mình tại Trinity Hall , Cambridge, vào tháng
10 năm 1962.
Tốt Nghiệp
199
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Năm đầu tiên làm nghiên cứu sinh thật khó khăn.
Ban đầu ông thất vọng khi biết đã được nhà trường
đã sắp xếp cho ông theo học với Dennis William
Sciama, một trong những người sáng lập ra vũ trụ
học hiện đại, làm người giám sát chứ không phải
nhà thiên văn học nổi tiếng như Yorkshire Fred
Hoyle. Ông cũng nhận thấy việc đào tạo toán học
của mình không đầy đủ
Sau khi được chẩn đoán mắc bệnh thần kinh vận
động (hay còn gọi là bệnh Lou Gehrig) vào năm
1963 khi mới 21 tuổi, Hawking rơi vào tình trạng trầm
cảm. Mặc dù các bác sĩ khuyên nên tiếp tục việc học
của mình, nhưng ông cảm thấy có rất ít hứng thú.
Tuy nhiên, căn bệnh tiến triển chậm hơn dự đoán.
Ông gặp khó khăn khi đi lại, hoặc khi phát biểu gần
như không thể hiểu, nếu không có các thiết bị điện
tử giúp đỡ. Nhưng chẩn đoán ban đầu cho rằng
Hawking chỉ còn sống được hai năm đã không đúng.
Với sự khuyến khích của Sciama, ông trở lại với
công việc nghiên cứu. Hawking bắt đầu nổi tiếng về
sự thông minh và liều lĩnh khi ông công khai thách
thức công việc của Fred Hoyle và học trò Jayant
Narlikar tại một bài giảng vào tháng 6 năm 1964.
Vào thời điểm Hawking bắt đầu nghiên cứu sau đại
học, đã có nhiều cuộc tranh luận trong cộng đồng
vật lý về các lý thuyết phổ biến về sự hình thành vũ
trụ: thuyết Big Bang và thuyết Trạng thái Ổn định.
Lấy cảm hứng từ định lý của Roger Penrose về một
điểm kỳ dị trong không gian- thời gian ở trung tâm
200
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
của các lỗ đen, Hawking đã áp dụng suy nghĩ tương
tự cho toàn bộ vũ trụ, và trong năm 1965, ông đã
viết luận án về chủ đề này.
Hawking lấy bằng tiến sĩ về toán học ứng dụng và
vật lý lý thuyết, chuyên về thuyết tương đối rộng và
vũ trụ học, vào tháng 3 năm 1966. Bài tiểu luận
"Singularities and the Geometry of Space-Time" của
ông đã chia sẻ những vinh dự hàng đầu với một bài
của Penrose để giành giải thưởng Adams danh tiếng
của năm đó. Sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ,
Hawking nhận được học bổng nghiên cứu tại
Gonville và Caius College ở Cambridge.
Sự Nghiệp
Hawking tổ chức một buổi diễn thuyết trước công
chúng tại Trung tâm Hội nghị Stockholm Waterfront,
ngày 24 tháng 8 năm 2015.
Các công trình khoa học của Hawking bao gồm sự
hợp tác với Roger Penrose về các định lý kỳ dị hấp
lực trong khuôn khổ thuyết tương đối rộng và dự
đoán lý thuyết rằng các lỗ đen phát ra bức xạ,
thường được gọi là bức xạ Hawking. Ông là người
đầu tiên đặt ra một lý thuyết về vũ trụ học được giải
thích bằng sự kết hợp giữa thuyết tương đối rộng và
cơ học lượng tử.
Hawking cũng đã viết một số tác phẩm về khoa học
phổ biến, trong đó ông thảo luận về các lý thuyết của
201
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
riêng mình và vũ trụ học nói chung. Chúng bao gồm
cuốn sách bán chạy nhất, Lược sử thời gian.
1966–1975
Cộng tác với Roger Penrose, Hawking đã mở rộng
các khái niệm định lý về điểm kỳ dị lần đầu tiên được
khám phá trong luận án tiến sĩ của ông. Chúng
không chỉ bao gồm sự tồn tại của các điểm kỳ dị mà
còn cả lý thuyết cho rằng vũ trụ có thể đã bắt đầu
như một điểm kỳ dị. Bài luận chung của họ đã đạt
giải nhì trong cuộc thi của Tổ chức Nghiên cứu Lực
hấp dẫn năm 1968. Năm 1970, họ công bố một bằng
chứng rằng nếu vũ trụ tuân theo thuyết tương đối
rộng và phù hợp với bất kỳ mô hình vũ trụ vật lý nào
do Alexander Friedmann phát triển, thì nó phải bắt
đầu như một điểm kỳ dị.
1975–1990
Hawking trở lại Cambridge vào năm 1975 với một vị
trí cao hơn về mặt học thuật và vật lý hấp lực. Từ
giữa đến cuối thập niên 1970 là thời kỳ công chúng
ngày càng quan tâm đến lỗ đen và các nhà vật lý
đang nghiên cứu chúng. Hawking thường xuyên
được phỏng vấn cho báo in và truyền hình.
Năm 1979, Hawking được bầu làm Giáo sư Toán
học Lucasian tại Đại học Cambridge, một vị trí lừng
lẫy từng được đảm nhiệm bởi Ngài Isaac
Newton.[13] Bài giảng đầu tiên của ông trong vai trò
này có tựa đề: "Is the end in Sight for Theretical
202
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Physics?" và đề xuất Siêu hấp lực N=8 như là lý
thuyết hàng đầu để giải quyết nhiều vấn đề nổi bật
trong vật lý.
Đồng thời, ông đang thực hiện một bước chuyển đổi
trong cách tiếp cận vật lý của mình, trở nên trực
quan và suy đoán hơn là nhấn mạnh vào các bằng
chứng toán học. "Tôi thà đúng còn hơn khắt khe,"
ông nói với Kip Thorne.
Năm 1981, ông đề xuất rằng thông tin trong lỗ đen
bị mất không thể lấy lại được khi lỗ đen bốc hơi.
Nghịch lý thông tin này vi phạm nguyên lý cơ bản
của cơ học lượng tử, và dẫn đến nhiều năm tranh
luận, bao gồm cả "Cuộc chiến hố đen" với Leonard
Susskind và Gerard 't Hooft.
Hawking cũng bắt đầu một hướng nghiên cứu lý
thuyết lượng tử mới về nguồn gốc của vũ trụ. Năm
1981 tại một hội nghị ở Vatican, ông đã trình bày
công trình đề xuất rằng có thể không có ranh giới,
điểm bắt đầu hay kết thúc đối với vũ trụ. Sau đó, ông
đã phát triển nghiên cứu này với sự cộng tác của
Jim Hartle, và vào năm 1983, họ đã công bố một mô
hình, được gọi là trạng thái Hartle–Hawking. Nó đề
xuất rằng trước kỷ nguyên Planck, vũ trụ không có
ranh giới trong không-thời gian; Trước vụ nổ Big
Bang, thời gian không tồn tại và khái niệm về sự khởi
đầu của vũ trụ là vô nghĩa. Điểm kỳ dị ban đầu của
các mô hình Big Bang cổ điển được thay thế bằng
một vùng giống với Bắc Cực. Người ta không thể đi
về phía bắc của Bắc Cực, nhưng không có ranh giới
203
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
ở đó – nó chỉ đơn giản là điểm mà tất cả các đường
chạy về phía bắc gặp nhau và kết thúc.
Các danh hiệu tiếp tục được trao, nhưng những giải
thưởng này không làm thay đổi đáng kể tình trạng
tài chính của Hawking và, được thúc đẩy bởi nhu
cầu trang trải chi phí học hành và nhà cửa cho con
cái, ông quyết định viết một cuốn sách phổ biến về
vũ trụ vào năm 1982 mà đại chúng có thể tiếp cận
được. công cộng. Thay vì xuất bản với một tờ báo
hàn lâm, anh ấy đã ký hợp đồng với Bantam Books,
một nhà xuất bản thị trường đại chúng. Bản thảo đầu
tiên của cuốn sách, có tên là Lược sử thời gian,
được hoàn thành vào năm 1984. Peter Guzzardi,
biên tập viên của ông tại Bantam, đã thúc đẩy ông
giải thích ý tưởng của mình một cách rõ ràng bằng
ngôn ngữ phi kỹ thuật. Cuốn sách được xuất bản
vào tháng 4 năm 1988 tại Hoa Kỳ và vào tháng 6 tại
Vương quốc Anh, và nó đã chứng tỏ là một thành
công phi thường, nhanh chóng vươn lên dẫn đầu
danh sách bán chạy nhất ở cả hai quốc gia và giữ
nguyên vị trí đó trong nhiều tháng.
1990–2000
Hawking với các nhà lý thuyết dây David Gross và
Edward Witten tại Hội nghị Dây năm 2001, TIFR, Ấn
Độ
Hawking theo đuổi công việc của mình trong lĩnh vực
vật lý: năm 1993, ông đồng biên tập một cuốn sách
về lực hấp dẫn lượng tử Euclide với Gary Gibbons
204
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
và xuất bản một ấn bản tuyển tập các bài báo của
chính ông về lỗ đen và Vụ nổ lớn. Năm 1994, tại
Viện Newton của Cambridge, Hawking và Penrose
đã trình bày một loạt sáu bài giảng được xuất bản
năm 1996 với tựa đề Bản chất của Không gian và
Thời gian.
Năm 1997, ông đã trao giải thưởng cho cuộc đánh
cá khoa học công khai năm 1991, thực hiện với Kip
Thorne và John Preskill của Caltech. Hawking đã
đánh cá rằng đề xuất của Penrose về một "phỏng
đoán kiểm duyệt vũ trụ" - không thể có "điểm kỳ dị
trần trụi" không che đậy trong một chân trời - là
đúng. Sau khi phát hiện ra rằng sự nhượng bộ của
ông có thể là quá sớm, một cuộc đánh cá mới và
tinh tế hơn đã được thực hiện. Điều này xác định
rằng những điểm kỳ dị như vậy sẽ xảy ra mà không
cần thêm điều kiện.
Cùng năm đó, Thorne, Hawking và Preskill thực hiện
một vụ đánh cá khác, lần này liên quan đến nghịch
lý thông tin lỗ đen. Thorne và Hawking lập luận rằng
vì thuyết tương đối rộng khiến lỗ đen không thể bức
xạ và mất thông tin, năng lượng khối lượng và thông
tin do bức xạ Hawking mang theo phải là "mới" chứ
không phải từ bên trong chân trời sự kiện của lỗ
đen.[17] Vì điều này mâu thuẫn với cơ học lượng tử
của tính nhân quả vi mô, nên lý thuyết cơ học lượng
tử sẽ cần phải được viết lại. Preskill lập luận ngược
lại, rằng vì cơ học lượng tử gợi ý rằng thông tin do
lỗ đen phát ra liên quan đến thông tin rơi vào thời
205
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
điểm trước đó, nên khái niệm về lỗ đen do thuyết
tương đối rộng đưa ra phải được sửa đổi theo một
cách nào đó.
Hawking cũng duy trì hồ sơ công khai của mình, bao
gồm cả việc đưa khoa học đến với nhiều đối tượng
hơn. Một phiên bản điện ảnh của Lược sử thời gian,
do Errol Morris đạo diễn và Steven Spielberg sản
xuất, được công chiếu lần đầu vào năm 1992. Một
bộ sưu tập các bài tiểu luận, phỏng vấn và nói
chuyện ở mức độ phổ biến có tiêu đề Hố đen và Các
vũ trụ sơ sinh và các bài tiểu luận khác được xuất
bản năm 1993, và một bộ phim truyền hình gồm sáu
phần Vũ trụ của Stephen Hawking và một cuốn sách
đồng hành xuất hiện vào năm 1997.
2000–2018
Hawking tại Bibliothèque nationale de France để
khánh thành Phòng thí nghiệm Thiên văn học và Hạt
ở Paris, và việc phát hành tác phẩm của ông ở Pháp,
God Created the Integers, ngày 5 tháng 5 năm 2006
Hawking tiếp tục các bài viết của mình cho độc giả
đại chúng, xuất bản cuốn The Universe in a Nutshell
vào năm 2001, và A Briefer History of Time, mà ông
đã viết vào năm 2005 cùng với Leonard Mlodinow
để cập nhật các tác phẩm trước đó của ông với mục
đích làm cho chúng có thể tiếp cận được với nhiều
độc giả hơn. Chúa đã tạo ra các số nguyên xuất hiện
vào năm 2006. Năm 2007, Hawking và con gái Lucy
đã xuất bản Chìa khóa bí mật của vũ trụ của George,
206
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
một cuốn sách dành cho trẻ em được thiết kế để giải
thích vật lý lý thuyết theo cách dễ tiếp cận và có các
nhân vật tương tự như những người trong gia đình
Hawking. Cuốn sách được theo sau bởi các phần
tiếp theo vào năm 2009, 2011, 2014 và 2016.
Đến năm 2003, các nhà vật lý ngày càng đồng thuận
rằng Hawking đã sai về việc mất thông tin trong lỗ
đen. Trong một bài giảng năm 2004 tại Dublin, ông
đã thừa nhận vụ đánh cá năm 1997 của mình với
Preskill, nhưng đã mô tả giải pháp gây tranh cãi của
riêng mình cho vấn đề nghịch lý thông tin, liên quan
đến khả năng các lỗ đen có nhiều hơn một cấu trúc
liên kết. Vào tháng 1 năm 2014, ông gọi cáo buộc
mất thông tin trong lỗ đen là "sai lầm lớn nhất" của
mình. Hawking nói rằng không phải tất cả thông tin
đều bị mất khi một thứ gì đó đi vào lỗ đen và có thể
có khả năng lấy lại thông tin từ lỗ đen theo lý thuyết
của ông.
Cùng với Thomas Hertog tại CERN và Jim Hartle, từ
năm 2006 trở đi, Hawking đã phát triển lý thuyết "vũ
trụ học từ trên xuống", lý thuyết này nói rằng vũ trụ
không có một trạng thái ban đầu duy nhất mà có
nhiều trạng thái khác nhau, và do đó không phù hợp
để xây dựng một lý thuyết dự đoán cấu hình hiện tại
của vũ trụ từ một trạng thái ban đầu cụ thể. Vũ trụ
học từ trên xuống cho rằng hiện tại "chọn" quá khứ
từ sự chồng chất của nhiều lịch sử có thể. Khi làm
như vậy, lý thuyết đề xuất một giải pháp khả thi cho
câu hỏi tinh chỉnh.
207
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
Một phần tranh cãi khoa học lâu đời khác, Hawking
đã lập luận dứt khoát và đánh cá rằng boson Higgs
sẽ không bao giờ được tìm thấy. Hạt này được đề
xuất tồn tại như một phần của lý thuyết trường Higgs
bởi Peter Higgs vào năm 1964. Hawking và Higgs
đã tham gia vào một cuộc tranh luận sôi nổi và công
khai về vấn đề này vào năm 2002 và một lần nữa
vào năm 2008, với việc Higgs chỉ trích công trình của
Hawking và phàn nàn rằng "sự nổi tiếng" của
Hawking " trạng thái mang lại cho anh ta sự tín
nhiệm ngay lập tức mà những người khác không
có." [1] Hạt được phát hiện vào tháng 7 năm 2012
tại CERN, sau khi xây dựng Máy Va chạm Hadron
Lớn. Hawking nhanh chóng thừa nhận rằng ông đã
thua cá và nói rằng Higgs nên giành giải Nobel Vật
lý, điều mà ông đã làm được vào năm 2013.
Hawking đã nghỉ hưu với tư cách là Giáo sư Toán
học Lucasian vào năm 2009. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp
tục công việc của mình như thường lệ tại Đại học
Cambridge với tư cách là Giáo sư Danh dự Lucasian
tại trường đại học. Ông nói, dự định tiếp tục làm việc
cho đến chừng nào không thể làm được nữa.
(Trích: New World Encyclopedia.)
208
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
209
Những câu trả lời ngắn cho những câu hỏi lớn
210