Những chuyện nghiêm túc

đằng sau một tác phẩm bông đùa

 

Lê Thị Hường

ĐH Sư phạm Huế

 

 

“Điều mà chúng ta cần không phải là các tác phẩm lớn mà là những tác phẩm bông đùa (playful)… Một câu chuyện là một trò chơi mà mỗi người có thể chơi bằng cách tham dự nó” (Ronald Sukenich)[1]. Bông đùa, chơi, giễu trở thành phong cách thời đại. Không uyên bác, không đứng cao hơn, biết rộng hơn những vấn đề đưa ra để bông đùa thì tiếng cười của nhà văn sẽ lạc lõng, chẳng thức động một điều gì. Sau hơn mười tiểu thuyết, và bốn mươi năm ghim ý tưởng trong đầu, với Năm lá quốc thư, một lần nữa Hồ Anh Thái mang lại cho văn học tiếng cười, phần hài nổi bật, phần bi khuất chìm, mang sức nặng của một tác phẩm playful. Theo nhà văn, Năm lá quốc thư là “cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về nghề ngoại giao và người ngoại giao trong cuộc sống đương đại”. Chọn mảng vùng ngoại giao (mảnh đất thiêng) với những ngài đại sứ (đẳng cấp cao) làm đối tượng để trào tiếu, giễu nhại, Hồ Anh Thái gần như độc quyền.

Năm lá quốc thư thể hiện rõ sự đa dạng trong tính thống nhất của phong cách Hồ Anh Thái. Sau hàng loạt tiểu thuyết thuộc hệ hình hậu hiện đại mà mỗi tác phẩm là một cách chơi, càng về sau, Hồ Anh Thái càng giấu trò chơi kỹ thuật, với một lối viết “truyền thống trá hình”. Năm lá quốc thư thiên về lối tự sự chính luận với bố cục theo tuyến tính, được phân đoạn rõ ràng theo đánh số thứ tự (Lá quốc thư thứ nhất/hai/ba cộng một/tư và đoạn kết là Lá quốc thư thứ năm…); nhưng nội dung không đơn giản là chuyện các lá quốc thư, cũng không liền mạch thứ tự trước sau mà được ghép nối từ những mảnh nhỏ, mỗi mảnh dung hợp nhiều vấn đề: liên văn hóa, ngoại giao, lịch sử, điện ảnh, tộc người, căn tính dân tộc… Từ năm lá quốc thư (cùng một bản sao chỉ thay đổi ngày tháng và tên họ) gắn liền với năm vị đại sứ (cũng được đánh số thứ tự 1,2,3,4,5), người đọc có thể kiến tạo nên một cốt truyện hoàn chỉnh hướng theo tinh thần nhân quả, một chủ đề tư tưởng có tính xuyên văn bản trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái (Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm, Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Những đứa con rải rác trên đường...) Lối trần thuật ngôi thứ ba với sự xâm nhập linh hoạt của ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai thuận lợi cho việc liên tục chuyển đổi mạch truyện, vừa gợi vừa gây bất ngờ. Cách gọi tên nhân vật theo công việc, chức vụ khiến câu chuyện về giới ngoại giao được soi chiếu nhiều mặt, cá nhân trở thành đại diện, thành đám đông. Chọn những đại sứ, đẳng cấp cao của loài người để bông đùa, tác giả đã chạm thấu căn cốt của người Việt xấu xí, nó không chỉ xuất hiện ở một thời điểm mà vẫn tồn tại dai dẳng đâu đó, kể cả trong xã hội văn minh. Cuộc sống, tính cách của những nhà ngoại giao mà “đường công danh là một con đường cao tốc tiêu chuẩn quốc tế” hiển lộ đầy đặn với tất cả những gì thuộc về bản tính Việt ở cả hai mặt tốt và xấu. Nhà văn bóc bỏ mọi lớp giấy bóng mờ, phơi ra các ngóc ngách chỉ có người trong cuộc mới nhìn thấu suốt. Từ những khoảng sáng tối đó, cái đẹp sau những kỳ thị, vùi dập vẫn trồi lên, với một happy end kết cục có hậu dường như không mấy quen thuộc với lối viết của Hồ Anh Thái.

 

Anh và năm lá quốc thư

Trong số những tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, đây là tác phẩm mà hình tượng tác giả rõ nhất. Dẫu nhà văn có rào đón: “Tác giả sử dụng quyền hư cấu để đưa người đọc bước vào một khung cảnh thuần túy tiểu thuyết” (Lời nói đầu); và dẫu người đọc thông diễn tác phẩm từ đặc trưng tiểu thuyết, vẫn nhìn thấy một cái tôi tự truyện, qua nhân vật, qua người kể chuyện. Có khi nhà văn “ở trên đường ranh giới của thế giới do anh ta sáng tạo” (Bakhtin). Có lúc, nhà văn kiêm luôn đạo diễn, đứng trên nhân vật, điều khiển họ theo cách của mình. Cũng có khi tác giả gửi thân vào nhân vật. Trong Năm lá quốc thư, Anh vừa là nhân vật, vừa là người kể chuyện. Anh nói tiếng, nói giọng của nhà văn. Anh là một nhà ngoại giao lịch lãm với bề dày văn hóa ứng xử, một nhà văn hóa am hiểu mọi lĩnh vực tôn giáo, ẩm thực, địa lý, lịch sử nhiều vùng đất; thông tuệ về văn học nghệ thuật đông tây kim cổ. Qua nhân vật Anh, cái tôi tác giả tỏa bóng toàn tác phẩm như một người kể chuyện uyên bác, có mặt ở mọi ngóc ngách, vừa quan sát vừa kể vừa luận bàn triết lý giễu cợt. Từ đó, mọi lĩnh vực trong đời sống hiện dần đậm nhạt qua nhiều góc nhìn. Qua Anh, nhà văn không giấu giọng của mình, một chất giọng rất riêng của Hồ Anh Thái, xuyên suốt nhiều tiểu thuyết, làm nên phong cách khó lẫn của nhà văn.

Anh là tâm điểm, là sợi dây kết nối toàn nhân vật trong câu chuyện về giới ngoại giao. Anh gắn liền mật thiết với năm lá quốc thư của năm đời đại sứ. Năm lá quốc thư là ẩn dụ về năm ngài đại sứ thuộc các thế hệ khác nhau, những sứ giả vốn được xem là đại diện cho văn hóa Việt, với kỹ năng giao tiếp đa văn hóa. Anh là thư ký đại sứ, người tháp tùng đại sứ để trình quốc thư mà “đằng sau nó là cả một đất nước. Nó là quốc thể”. Vì vậy, Anh xuất hiện cùng với chiếc cặp ngoại giao khư khư giữ ở tay. Cái cặp xuất hiện với tần suất cao trong câu chuyện: “Cặp nhẹ mà thành nặng vì là thư của chủ tịch nước gửi cho tổng thống”. Từ câu chuyện ngoại giao (thuộc bí mật quốc gia), từ những cá nhân riêng biệt (đại sứ), câu chuyện trở thành chung của toàn xã hội với sự xuống cấp trầm trọng của các chuẩn mực giá trị. Cuốn tiểu thuyết phản ánh xã hội Việt Nam trong giai đoạn vừa thoát ra khỏi chiến tranh, vừa xây dựng một cuộc sống hòa bình còn nhiều bất trắc và thiếu thốn. Trong hoàn cảnh đặc thù đó, một mặt, tâm lý hưởng thụ của con người trỗi dậy; mặt khác, mặc-cảm-thiếu-hụt khơi dậy bản-năng-lấp-đầy (ông tham tán nghiện giấy vệ sinh, những ông bà ngoại giao biến hành lang chung cư thành xó bếp, cơi nới, lấn chiếm, trồng trọt chăn nuôi trên đất chung…) Tất cả đều phát sinh từ sự thiếu thốn, thói xấu hình thành như một quán tính, một thứ vô thức tập thể. Những con người đại diện cho quốc thể đó, đang sống ở những vùng đất từng được xem là cái nôi văn hóa, đa phần lại làm nhục quốc thể bằng tư duy tiểu nông vặt vãnh. “Sự vật hóa là thực tiễn của sự tha hóa” (Hegel). Nhà văn hoán đổi, dùng đồ vật/sự vật để nói một kiểu người, hơn cả thế, một kiểu đại diện cho sự biến đổi căn tính Việt. Không gian đồ vật trương phình, được nhà văn phóng đại như một dụng ý nghệ thuật nhằm tăng thêm ý nghĩa của sự tha hóa của con người. Đồ vật nhân bội, lòng tham vặt cũng nhân bội: “… xe chất đầy bình xịt muỗi, bình xịt nước thơm, xà phòng, nước rửa tay, nước rửa nhà, đến cả chục cái chổi và đầy một xe giấy vệ sinh”; “Số giấy vệ sinh ấy có vừa ị vừa lau tay lau chân cũng thừa cho cả vài chục người”. Kèm theo đó là “mỗi tháng một tập giấy tờ nặng hai cân, là “các tập hóa đơn giả về việc chiêu đãi”, đống hợp đồng thuê nhà, lượng visa khổng lồ… Đồ vật phì đại, thói gian dối phình ra, sự thiếu hụt văn hóa cũng tỉ lệ thuận. Đại sứ “người đại diện tốt cho đất nước mình” thu nhặt mọi loại giấy “những tập sách giới thiệu khách sạn sách hướng dẫn du lịch thực đơn quảng cáo của quán ăn, tập giấy góp ý cho khách sạn, ông vơ tất, đem vào toilet đốt dần”. Chỉ để nướng mực. Trong bốn bức tường khép kín của khách sạn xứ người, chỉ còn ta với ta, trút bỏ lớp mặt nạ ngoại giao, con người tiểu nông “khó chẳng bằng khôn” lộ diện, lấp liếm, tráo trở. Nhà văn chua chát “thì người Việt vẫn bảo. Được miếng nào xào miếng ấy”, “Cả một đời công chức đã rèn cho họ một quán tính là moi tiền nhà nước, moi tiền nhà nước, đục khoét nhà nước”… Trong một thế giới quyền lực, đầy mưu mô, tranh chấp, lẫn lộn giả thật, Anh đại diện cho cái đẹp, cái tốt. Nhà văn sắc sảo đến từng chi tiết khi phơi bày mọi mặt của giới ngoại giao, đồng thời cũng thật lãng mạn khi viết về cái Đẹp, của các nền văn hóa, của thiên nhiên, tâm hồn con người, đặc biệt khi viết về phụ nữ.

 

Anh – Rosa và cây vĩ cầm đứt dây

Hồ Anh Thái ít “ưu tiên” cho phái nữ. Năm lá quốc thư không phải là cuốn tiểu thuyết chủ yếu viết về bi kịch phụ nữ hay ngợi ca thiên tính nữ. Tuy vậy, trong câu chuyện về ngoại giao, vẫn thấy những trang văn lấp lóe cái nhìn thấu cảm với thân phận nữ, dẫu sự thấu cảm đó có lúc giấu đi qua tiếng cười giễu nhại. Giữa những khoảng tối, thiên tính nữ cứ ánh ngời làm mềm mại giọng điệu cứng cỏi, bỗ bã, thậm chí có lúc tàn nhẫn của nhà văn (khi viết về sự tha hóa). Trừ Bà Đại Sứ (3), nữ giới trong tác phẩm thật đáng yêu. Là Tạp Vụ Vợ hồn nhiên chết mà không hề hay biết chính anh chồng bủn xỉn và anh bạn Hành Chính tham vặt đã gây ra cái chết vì điện giật của mình. Cái chết của cô ám ảnh hai người đàn ông - một “gói ghém ba đứa con và một cái bình tro về nước”, một (là cái bóng lén lút hàng đêm mở bốn tủ lạnh của nhà người khác) xanh xám hồi sinh. Một phải gửi vào trại cai nghiện và một được cử đi châu Phi làm thủ trưởng một cơ quan đại diện. Như luật nhân quả, dẫu đôi lúc nhân quả thật tàn độc và cay đắng. Đặc biệt, hai người phụ nữ trong mối quan hệ giữa Anh – Rosa – Nàng đã làm nên cốt lõi nhân văn của câu chuyện bi hài giới ngoại giao.

Giữa hỗn loạn chính trị của lãnh thổ Malastan, Rosa xuất hiện như một chìa khóa mở ra mạch ngầm của câu chuyện tưởng như chỉ viết về các ngài đại sứ nhiều thế hệ. Rosa xuất hiện không nhiều nhưng cái bóng của cô gái vùng Trung Á ôm trùm tác phẩm. Nhà văn chỉ phác họa một vài nét, thêm vào đó là đánh vắng nhân vật, nhưng Rosa trở thành tâm điểm thẩm mỹ. Là mã văn hóa và liên văn hóa. Là đối kháng và dung hòa văn hóa. Chính từ mối quan hệ giữa Anh và Rosa, nhà văn đã khắc họa diện mạo đặc thù của một vùng đất với những cuộc đảo chính liên tục, trong đó người phụ nữ bị coi rẻ. Roza là nạn nhân của những biến loạn do “những lực lượng khủng bố mang tên Nhà nước Thánh chiến lợi dụng thời cơ để nổi dậy. Cha mẹ làm ăn ở Thụy Điển, Rosa nhiều lần muốn ra đi nhưng dưới chính quyền mới cô mắc kẹt ở Malastan. Cô gái xuất hiện cùng với tiếng kêu cứu và “tiếng quẫy đạp thình thình trong cốp xe” trong lần di tản. Gắn liền với Rosa là chiếc vĩ cầm và chiếc khăn choàng sắc tộc. Đằng sau Rosa là bóng dáng của những người đàn bà dưới áo choàng đen của một vùng văn hóa. Là người đàn bà bị anh lính lịch sự, điển trai giáng vào mặt một báng súng, vì những người lính cửa khẩu vừa “phát hiện ra bà ta là người Malastan”, “người đàn bà ôm bộ mặt đầy máu lăn lộn như hóa điên” vì không được ra khỏi đất nước mình; là Rosa bị “lôi xềnh xệch” khi chiếc khăn đội đầu hóa trang tụt xuống, lộ mặt, với ánh mắt “thất thần tuyệt vọng”; là “đôi ba bóng phụ nữ lặng lẽ lướt trên vỉa hè. Áo choàng đen lùng nhùng. Vuông khăn đen kéo che ngang mặt. Chỉ còn hở đôi mắt”. Từ Rosa, xoay quanh cô gái với chiếc đàn số phận đứt hết dây “kêu lên lần cuối trước khi lặn xuống vĩnh viễn trong cõi âm thanh mơ hồ”, vấn đề về phụ nữ của một số tộc người ở Tây Á, Trung Á và Nam Á đầy đặn dần qua từng mảnh ghép. Chính quyền Malastan sau khi đánh đổ chính quyền quân chủ đã trở nên cực đoan, kỳ thị phụ nữ - “đóng cửa các trường học của nữ sinh, cấm đàn bà con gái đi học”; “… mạng che mặt và áo choàng đen che kín từ đầu đến mắt cá chân”; “khăn đen là màu tôn giáo coi đức hạnh”. Do quan niệm sắc đẹp của người phụ nữ chính là nguồn gốc của mọi tội lỗi: “Tôn giáo ở đây không cho phép người lạ chụp ảnh phụ nữ, không được phép công khai ca tụng nhan sắc phụ nữ của họ”. Bất bình đẳng diễn ra ở ngay một đất nước cách mạng với những tấm biển nhắc nhở phụ nữ đặt nơi công cộng, lối vào các công viên và các bảo tàng: “Hở tóc và lộ eo sẽ kích động tính dâm dục của đàn ông”. Nhưng vượt qua bóng ma kỳ thị, vượt lên những khác biệt về sắc tộc, tôn giáo, câu chuyện về Anh – Rosa là câu chuyện đậm chất nhân văn. Cái đẹp chìm sau những lực lượng khủng bố của nhà nước Thánh chiến, những sinh hoạt nhốn nháo của một thiểu số người Việt ở xứ người, cứ từng chút một lại trồi lên.

Trực cảm về cái chân-thiện-mỹ khiến con người gần nhau, hiểu nhau. Những giai điệu xuyên không gian, thời gian, tộc người đã kết nối những con người không cùng màu da, tiếng nói. Gặp nhau lần đầu, dẫu Rosa không hề chạm vào dây đàn, nhưng âm thanh của Khúc hát nàng Solveig, rồi khúc Bi thương “trên cả âm thanh. Xuyên qua bóng tối. Nhỏ từng giọt từng giọt da diết vào hai tâm hồn hòa đồng cách cảm”; “Anh tìm vai cô trong bóng tối, siết chặt” giữa màn đêm dày đặc ở sân bay và tiếng rít đanh nhọn của những quả tên lửa bay ngang đầu. Cái siết vai vội vàng đó là nguyên nhân thôi thúc Anh luôn tìm kiếm Rosa. Sự mất tích của Rosa là một tình huống hợp lý giữa lãnh thổ Malastan biến loạn, nhưng là dụng ý đánh vắng nhân vật của nhà văn. Để thôi thúc kiếm tìm. Để thêm khao khát vẻ đẹp thánh thiện giữa nhiều cạm bẫy. Để câu chuyện dài ra bằng các mảng sáng lấp lánh giữa những khoảng tối. Anh đi tìm Rosa, trên những đường phố đầy phụ nữ “che kín mặt”, qua những “ngõ hẻm hun hút”, những “cái sân lát gạch ẩm ướt và u tối” với hy vọng Rosa sẽ tình cờ nhìn thấy Anh “qua một ô cửa tối tăm nào đó”. Tình huống kiếm tìm và một loạt biểu tượng gắn liền với Rosa lại xuất hiện khiến câu chuyện tình yêu đầy ảo giác, như có như không: lá thư Rosa luồn qua khe cửa phòng khách sạn; Rosa trên ô cửa sổ đối diện với gương mặt không che mạng, sáng lên trên ô cửa tăm tối; chiếc vĩ cầm đỏ và âm thanh khúc Bi thương “đắng. Chát. Trôi nổi phù du”. Khúc nhạc của Beethoven chưa từng vang lên từ cây đàn số phận đứt hết dây, nhưng bám riết trong Anh, mãi vang lên từ vô thức nhớ, sau hai năm, mười năm, và sau nhiều năm nữa.

Lần gặp lại Rosa thực sự bằng xương bằng thịt (cô đã được đoàn tụ gia đình, qua bao nhiêu lần binh biến máu lửa, cô trở lại Malastan để đầu tư vào một xí nghiệp may mặc xuất khẩu) “họ ôm nhau ngay mà không tự ghìm mình”. Dẫu Rosa vẫn choàng tấm khăn đội đầu, chỉ hở mỗi gương mặt. Dẫu Anh vẫn biết cái ôm đó “không thể xảy ra ở một xứ tôn giáo nghiêm khắc”. Sự liên cảm kỳ diệu giữa hai tâm hồn đã gắn kết Anh và Rosa vượt qua mọi tôn giáo, sắc tộc, kể cả những bức hại. Rosa là biểu tượng liên văn hóa. Rosa gợi trong Anh những suy tư, ám ảnh về thân phận con người, về lẽ vô thường, sinh diệt: “Từ khi gặp Rosa trong thoáng chốc ở sân bay Malastan, Anh hay nghĩ về cái bấp bênh của kiếp người, cái bản chất bất ổn của thế giới này”. Sự thay đổi số phận của Rosa là sự dung hòa văn hóa, kể cả cách ăn mặc của cô. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn chú ý miêu tả chi tiết và bằng biểu tượng: “Thời chưa cải cách, phụ nữ tất thảy đều phải mặc áo choàng đen lùng thùng che hết eo ót và trùm xuống tận mắt cá chân”. Còn Rosa của hôm nay, “bên trong chiếc áo măng tô hơi rộng kia chắc chắn là một thân hình thanh thoát. Áo lửng đến đầu gối và may hơi rộng để không quá lộ eo”; khuôn mặt không che mạng “đẹp mê hồn. Lông mày và lông mi đều rậm và đen thẫm”. Cái bắt tay của Rosa cũng là một sự thay đổi. Trước, phụ nữ Malastan không được bắt tay đàn ông, “giờ thì ở nơi công cộng, phụ nữ đã chìa tay ra chủ động bắt tay đàn ông”. Kể cả khúc vĩ cầm cũng không còn vô thanh bởi “sự cấm đoán nghiệt ngã của một thời”…

 

Anh – Nàng và chiếc cặp ngoại giao

Nàng là một trong tám cô gái “xinh tươi làm nức lòng gần bốn chục chàng trai” trong năm học đầu tiên ở trường Ngoại giao. Với Anh, Nàng là mối tình trong trẻo thuở sinh viên. Như một coup de foudre, Nàng thu hút Anh ban đầu bởi Adidas và soóc trắng. “Anh cảm ngay”. Cũng chính Nàng là người đầu tiên gọi Anh là nhà văn và không đồng ý việc đổi tên truyện ngắn Nói bằng lời của mình -“là thông điệp của người trẻ gửi cho người trẻ, đừng có nói bằng tiếng nói của người khác, đừng có theo con vẹt hay con sáo…” thành Bạn cùng lớp - “cái tên như thế ai mà chẳng đặt được. Cái tên như thế, có cũng như không…” Cũng chính Nàng phản biện, khi mới chớm yêu nhau đã bị gọi lên phòng tổ chức “uống nước chè”: “Chúng cháu không biết rằng yêu nhau cũng bị coi là sai”; “Chúng cháu không yêu đương lằng nhằng”. Những trường đoạn viết về Nàng gần như là những trang tự thuật của nhà văn về tuổi trẻ của một thế hệ đầy ước mơ hoài bão, thẳng thắn và chân thật; về tình yêu, đúng hơn là “hình như là tình yêu” trong trẻo, tinh khôi. 

Hai lần Anh - Nàng nằm bên nhau, thời sinh viên, do những tình huống ngẫu nhiên, bị động, khao khát nhường kia mà trong trẻo nhường nào. Dẫu thoáng bóng dáng “ngôn tình” trong nghệ thuật tạo tình huống truyện, nhưng giọng hài hước, bông đùa lấn át khi câu chuyện được kể lại từ điểm nhìn hiện tại (khi lần thứ ba họ nằm bên nhau): “Nằm. Hai lần. Và chắc chắc là chỉ có nằm thôi, không có gì khác. Chính xác là kiểu nằm platonic love, nằm chay tịnh”. Cái nhìn thiên vị khiến nhà văn khắc họa chân dung một người nữ thật vẹn toàn. Nàng thật khác đối với thế giới nhốn nháo, bẩn tưởi trong mọi chuyện của Hồ Anh Thái. Nàng hấp dẫn, hoàn hảo. Nàng như thiên thần trong trẻo, ánh sáng còn lại của cái thế giới bé nhỏ mà xám xịt của những nhà ngoại giao ở xứ người.

Lần thứ ba nằm bên nhau (khi nàng đã là một nhà ngoại giao trẻ, năng nổ trung thực và đã trải qua quá nhiều sóng gió), không “chay tịnh” nữa, giữa “tiếng loa cầu kinh vang vang bên ngoài”, khi Nàng “không còn là em của ngày xưa nữa”, Anh mới lờ mờ hiểu thêm về Nàng. Cũng giống Rosa, dẫu địa văn hóa có khác nhau, cả hai đều là nạn nhân của các thể chế - từ khi nàng làm thư ký, tháp tùng Đại Sứ Bà sang một đất nước ở vùng Nam Á, và một chớp mắt như mơ là đến quần đảo ở phía nam Ấn Độ Dương. Quên hết ngoại giao, chính trị, danh vị, cõi lòng Nàng mở ra trước rừng lá phong vàng lá phong đỏ bừng lên ở khắp đảo. “Nàng say sưa như chân không chạm đất…”; “Nàng chạy tung tăng giữa rừng phong đang chuyển sắc đỏ và vàng”; “Nàng nằm lăn ra giữa thảm lá. Nằm im. Im hoàn toàn”… “Cháu muốn ở lại vĩnh viễn trên đảo này cô ơi”. Câu nói tha thiết trước cái đẹp toàn bích, trong khoảnh khắc giao cảm kỳ diệu giữa con người và thiên nhiên, giữa cõi lòng và cõi trời, không ngờ lại là cái bẫy đẩy Nàng hoàn hảo đến thế thành “một tên phản động”, mang “tư tưởng vọng ngoại, gọi chủ nghĩa tư bản là thiên đường”, “có biểu hiện thần kinh nặng”; thành tội “đào ngũ lưu vong” phải “còng tay về nước”... dẫu không một văn bản nào kết luận rằng Nàng có tội hay vô tội. Tất cả tội trạng mà cô gái đó mang vác chỉ vì “quá hồn nhiên quá tin vào bà đại sứ” và những phản ứng về các hóa đơn giả chồng chất của Đại Sứ Bà. Hồ Anh Thái khái quát thành căn tính - “Gốc gác căn tính của con người là lòng tham. Gốc gác của lòng tham là kinh tế”. Lòng tham đã đẩy Đại Sứ Bà đến chỗ tận cùng tội ác. Mưu mô, thâm độc, quyền uy, Đại Sứ Bà đã biến Nàng hoàn hảo đến thế, lãng mạn, hồn nhiên và chân thật đến vậy thành cô gái trầm cảm, “ngẩn ngẩn ngơ ngơ”, như hóa thành người khác. Sự thay đổi của Nàng, từ cô sinh viên trường Đại học Ngoại giao trong sáng, cô thư ký đại sứ năng động, thẳng thắn đến chỗ mất niềm tin, chống cự và thỏa hiệp với cái xấu, rồi bị coi là tâm thần khi Nàng ám ảnh day dứt về sự thỏa hiệp của mình. Cũng chính Anh nhận ra “cú ngã ấy quá đau, nó như một vết thương ở bên trong, âm ỉ và dai dẳng ở trong ấy. Và phải sau mấy năm trời triền miên chịu đựng thì chất chồng dồn góp, nỗi đau mới lên đến cực đỉnh”.  Chính những sang chấn tâm hồn đó, ghim sâu, dồn nén, bùng phát, khơi dậy ở Nàng bản-năng-trả-thù. Một mặt, hành vi trả thù Bà Đại Sứ chính là kết quả của “cái ấm ức tâm lý” (Freud) mà Nàng chịu đựng từ ngày bị còng tay về nước. Mặt khác, với Nàng việc trả thù đó cũng thật “nhi nữ thường tình”: sắp xếp, lên kế hoạch “yêu” để cướp lá quốc thư. Nhà văn vừa tạo tình huống như truyện trinh thám để kể lại những âm mưu, dàn cảnh rất phụ nữ của Nàng, vừa lý giải căn nguyên. Lần thứ ba Nàng nằm bên Anh, vì Anh thì ít mà chính là vì chiếc cặp ngoại giao - “trong cặp chỉ đựng đúng một lá quốc thư”, mà quốc thư là quốc thể, không thể thuộc về Đại Sứ Bà. Nhưng “yêu” thì thỏa mãn, còn hành vi trả thù thì bất thành. Cái còn lại là cảm giác bẽ bàng khó nói của hai người. Anh nhìn thấy “vẻ tuyệt vọng cùng cực trên mặt nàng. Tuyệt vọng và thất vọng”. Với nàng, thêm một sang chấn nặng nề vì mất niềm tin - “Không âm thanh và không lời lẽ nào. Vô thanh và vô ngôn. Có cả vẻ tuyệt tình làm cho Nàng chết sững”. Cảm xúc đóng băng cho thấy tổn thất lẫn mặc cảm nặng nề ở một thiếu phụ muốn lấy lại niềm tin chứ không phải muốn trả thù. Còn anh - “anh cũng chết sững” và sau đó là cảm giác hụt hẫng vì đã đánh mất nàng chỉ để giữ lại lá quốc thư thứ ba “có một góc nhàu và một vết ố”.

Hoài bão thời trẻ tuổi, bản chất tốt đẹp, đầy bản lĩnh khiến Nàng mãi là một biểu tượng cho cái đẹp của người phụ nữ Việt. Nàng và Rosa, thuộc về hai đất nước, hai nền văn hóa khác nhau đã gặp nhau ở bản chất nhân văn của loài người. Lần mất hút Nàng, lẫn Rosa (chỉ vì lá quốc thư thứ ba) Anh ngẫm ngợi về kiếp nhân sinh: “Ôi những người đàn bà. Mà không chỉ những người đàn bà. Ôi những con người trên thế gian này… Họ đã gây nhân rồi gặt quả, triền miên tiếp nối”. Lần gặp lại cả hai người phụ nữ (đã có nhiều thay đổi) ngay chính mảnh đất còn đầy biến loạn, Anh lại bật thốt: “Trời ơi những người phụ nữ này…” Những người phụ nữ bất kể màu da, cứng cỏi là thế mà nhân hậu, dịu dàng đến thế. Nơi súng đạn hoảng loạn ở xứ người, Anh nhận ra Nàng nhờ một mái tóc dài tung bay, “chỉ mái tóc dài Việt Nam mới không trùm khăn và tung bay kiểu như thế”. Còn lại trong Anh là “gương mặt Nàng đỏ hồng và sáng bừng lên cho đến khi xa dần”. Với Rosa, điều còn lại nơi Anh là những khúc nhạc vĩ cầm. Những âm thanh đã từng vang lên trong im lặng, trong “tăm tối chiến tranh và sự bức hại ngăn cản con người”. Những âm thanh hoàn chỉnh, thiết tha, vang vọng: “Thanh thoát tiếng đàn. Và rì rầm rì rầm tiếng dòng sông”.

Thật bất ngờ, Đại Sứ Năm (ở Hamania, một nước Đông Âu) chính là Anh. Và cũng thật bất ngờ, quốc thư thứ năm không còn những dòng chữ bóng bẩy, rập khuôn, lặp đi lặp lại đến giả dối, bởi Đại Sứ Năm không cần những lời giới thiệu hoa mỹ. Chỉ còn lại trong Anh khi nghĩ về Nàng và Rosa, “thân gái dặm trường. Một người phụ nữ, bằng ấy biến động đã quá đủ cho cả đời người”.

 

 

 

 



[1] Trích dẫn từ Patricia Waugh, Siêu hư cấu - Lý thuyết và thực hành về lối viết truyện tự ý thức, Phạm Tấn Xuân Cao dịch từ Metafiction: The Theory anh Practice of Self-Conscious Fiction, London & New York: Routledge (1984, 2001), tr 61.