Những người đàn bà trong chiến tranh (Kỳ 1)

Vương Trí Nhàn

5-3-2024

Kỳ 1: “Những nữ dân công Thanh Hóa”

Trích Nhật ký chiến tranh: Hà Nội – Quảng Trị – Hà Nội 1972 – 1975

Năm 1972

Ngày 14/7

Về T.70. Có lệnh quay ra. Từ vương quốc của hoang dại, bọn tôi sẽ trở lại vương quốc của sự nhân tạo, cấy trồng. Những chán ngán trong gia đình, những lúng túng trong công việc, và sự không phương hướng trong tình thế chung – sẽ lại đối mặt tất cả. Sau chuyến đi này liệu mình có khác được chút nào?

Lo đường ra. Nghe người ta nói đường ra mà sợ. Địch đánh liên miên. Ngoài kia, cách chỗ tôi đang ngồi viết không xa, những người dân Thanh Hoá, dân công đang ngồi bệt xuống đất nói chuyện. Thanh Hoá, cái tỉnh bè bè ra đó, người đông quá xá, người nào tiếng cũng bè bè, dáng dấp cũng bè bè. Đàn ông, có người 47- 48, thuộc loại đã đi dân công từ cuộc kháng chiến lần trước, đi từ Điện Biên Phủ, và bây giờ họ lại đi. Bốc hàng, cáng thương, cấp dưỡng. Những cái quần bạc phếch, những cái áo vá.

Trông đàn ông xứ Thanh không hiểu sao người nào cũng như từ cổ sơ trở về, đặc vẻ đàn bà, vơ véo đâu được một cái thắt lưng bộ đội, một cái mũ, tự lấy làm bằng lòng lắm rồi. Và họ đã sống như thế, ăn tết như thế.

Vì cái vẻ ốm o của họ, những cô con gái cứ gợi cảm giác sờ sợ, khiến tôi không dám nhìn lâu.

– Chỉ đàn bà có chồng mới không phải đi.

– Cho nên khối cô rình rập lấy chồng.

– Không đi ở nhà cũng khổ. Nó đánh chỗ đê phía bắc sông Mã rồi.

– Nghe bảo Hoằng Hoá vừa rồi vẫn hoàn thành nhiệm vụ.

– Nhưng mà mưa này mới gay.

– Thôi sống chết cũng phải làm. Nơi nào khó thì lại kêu gọi đảng viên,  đoàn viên. Hết loạt nọ đến loạt kia. Không chừng sinh viên cũng phải về làm ấy chứ.

– Nhà tôi cạnh chỗ bom nổ có độ sào ruộng.

– Quê ta ở cứ liền liền, nhà nọ cạnh nhà kia, không bằng từ đây đến chỗ cái ghế bom bỏ tránh sao nổi.

– Thôi, Bác đã bảo, càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan.

Tiếng bom vẫn ầm ì như đã là một thuộc tính của bầu trời này, một thứ đỉa dai dẳng bám vào bầu trời, người ta cố dứt nó ra, không dứt nổi.

Ở cái trạm của tôi, ngày bao nhiêu khách, quây quanh các máy điện thoại. Thông báo về tình hình trên đường. Gặp cấp trên, xin phương tiện, xin ý kiến. Việc nào cũng cập rập. Và mọi người đều có cái vẻ bồn chồn, y như có bao nhiêu sống chết phụ thuộc vào những cuộc đàm thoại đó.

Nhưng rồi ai nấy bình tĩnh trở lại. Không, không phải là bình tĩnh, mà là lì lợm, mặc mẹ mọi thứ.

Đi đâu cũng thấy lính tráng, cũng như cán bộ ăn và mời nhau ăn. Vì một bữa ăn, một gói chè, một suất tiêu chuẩn đường sữa, người ta có thể đi vật nài quản lý hàng ngày trời. Bao nhiêu con người, bao nhiêu ngày tháng bỏ phí. Với những người vừa ở mặt trận ra, lúc này đây, không có gì chuyện quan trọng hơn ăn uống. Ấn tượng chung là một cái gì ườn ra, nhếch nhác, ngán ngẩm, vô cảm.

Trì trệ đã thành một thứ khí hậu, ngay ở cái nơi gần mặt trận này. Nhưng rồi tôi nghĩ – kéo dài mãi ra ngoài kia, cả Hà Nội của tôi, cả cái tạp chí Văn nghệ Quân đội của tôi, đâu đâu cũng cảm giác trì trệ ấy đè nặng, như những buổi chiều miền núi oi bức.

Cái sức mạnh của dân tộc bây giờ là ở sự chịu đựng. Một dân tộc như thế, rồi sẽ ra sao? Sự chịu đựng vô giới hạn, đến độ người nước ngoài chắc không sao hiểu nổi.

Chỉ còn một thứ rành rọt kỳ lạ, mà, bất cứ lúc nào ở trạm này lắng nghe cũng thấy, đêm hôm nghe càng thấy: Tiếng đài phát thanh. Tiếng đài vốn từ đâu vọng về, tức là một cái gì không thật – cái đó đã đành. Có điều cái thứ không thật ấy lại nhắc đi nhắc lại, đều đều thành nhịp điệu đáng sợ, trở thành thật hơn mọi cái có thật khác.

Đêm nằm, người ta dí cả đài vào bên tai tôi, mà tôi không dám kêu và không có quyền kêu. Tất cả mọi người chung quanh đều sống như vậy, tôi không có quyền sống khác. Đáng lý mình cũng phải tập ăn, tập ngủ tập chơi bài, tập lì lợm và chuẩn bị chen vào đội ngũ chiến thắng, tôi tự nhủ. Nhưng lại biết ngay từng ấy việc mình không làm được việc nào cả.

15/7

Gọi là đánh nhau, nhưng có lẽ ở nước nào cũng thế, người ta cầm súng bắn nhau không mấy, mà nhiều nhất, dai dẳng nhất và kinh khủng nhất là những ngày sống gần như chui rúc trong rừng, bên suối, những ngày ôm gối nhìn trời mưa, những ngày chờ đợi.

… Rồi rất lâu nữa, tôi phải xoay vào để hiểu. Cái giá trị của đời sống dân tộc lúc này là ở sự chịu đựng. Trong vật vã chấp nhận, không quên làm dáng, ra oai nhỏ nhen lặt vặt với nhau, để rồi lùi ra xa để nhìn, vẫn thấy vĩ đại. Chắc nhiều người cũng như tôi bắt đầu thấy chán sự vĩ đại kiểu đó, ước ao những sự vĩ đại khác – những sự vĩ đại về phát minh, về sáng tạo chẳng hạn.

Nhưng mà thích hay không thích, giờ đây, mỗi người cũng hoàn toàn chịu sự chi phối của đặc tính cộng đồng, cũng triền miên trong sự chịu đựng và chấp nhận.

… Đêm qua, gần sáng thì trời mưa. Những người dân công ốm đau nằm võng tận ngoài rừng, lại lục tục chạy vào trú tạm ở các lán, các cô gái vừa ấm nồng vừa ướt át đó, run rẩy và lạnh buốt đi trong gió, co ro ngồi nằm nhờ. Một cô, lúc sắp sửa lại đồ đạc ba lô, ngán ngẩm thốt lên:

– Thôi, đã gọi chiến tranh là phải thế.

Đúng quá còn gì! Nhưng chung quanh chỉ im lặng đồng tình chứ không ai nói tiếp, vì còn biết nói gì nữa. Không khí chung càng như chết lặng đi.

Có những câu nói kiểu ấy. Chúng vốn sâu sắc, nhưng vì nhắc lại nhiều lần, nên lại là một sự vô nghĩa. Ví dụ như hôm qua, nghe một cậu bảo “Nếu những thứ đồ đạc của cải chiến tranh này chế ra cho mình dùng, thì đời sống mình nâng cao biết mấy”. Ừ, người nói câu ấy, vừa là thông minh thật, mà cũng là lơ mơ lạc lõng thật.

… Từ chuyện dân công, muốn nói nhiều hơn đến những người đàn bà trong chiến tranh. Có lúc nghĩ, đáng ra đàn bà không nên có mặt ở nơi hòn tên mũi đạn như thế này. Nhưng bây giờ mọi xó rừng, đâu cũng có họ. Mà nghĩ cho cùng, không có đàn bà thì làm sao hiểu được cái tình cảnh mà chúng ta lâm vào, hiểu được cái phần nữ tính với nghĩa chấp nhận, thụ động – nó là số phận chung của mọi người chúng ta trong cuộc chiến hôm nay.

… Người ta nói rằng tất cả sẽ quen đi – trong chiến tranh. Nhưng tôi đã hỏi rất nhiều người rồi. Không ai quen được. Không ai thích được. Một bác sĩ bảo không thể nào thích y học quân sự hơn y học nhân dân… Và dân tộc nào mà thích được chiến tranh?!

Một cộng đồng đau khổ đến nỗi bất cứ sự thật nào nói ra cũng làm người khác đau lòng, người nọ sợ cho người kia, bởi trước hết sợ cho mình.

Một cộng đồng người nào cũng cô đơn, nhưng trước mặt nhau lại phải luôn luôn tỏ ra hồ hởi, lạc quan (cũng như miệng nói lo cho việc chung, nhưng người nào cũng phải lo cho việc của riêng mình).

Một dân tộc như vậy, là một sản phẩm của chiến tranh.

… Bị chiến tranh đẩy tới, xâm nhập làm biến dạng cả mày mặt lẫn hồn cốt, rồi người ta sẽ sống trong thời bình thế nào, ví dụ như liệu có thể làm lại cuộc sống bình thường, sống theo những lề luật của thời bình, xây nhà xây cửa, dạy con dạy cái, làm nên một nền văn nghệ của thời bình chẳng hạn? Nhiều lần tôi tự hỏi mà cũng nhiều lần không biết cách trả lời.

Bình Luận từ Facebook

1 BÌNH LUẬN

  1. “Bác đã bảo, càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan”

    Bác đúng . Nhà giáo Nhân Dân Phạm Toàn khẳng định, những gì Bác nói ra đều là chân lý, Giáo Sư Tương Lai thêm vô, chân lý cụ thỉa lun

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây