Về một cuốn sách của Lê Nin

Không phải bỗng dưng chủ nghĩa Marx trở thành học thuyết chính thống của cách mạng vô sản, nó cần được một ai đó sử dụng để hành động. Con người hành động ấy, cũng không chỉ đơn giản là đi phát động một cuộc cách mạng. Ông ấy còn phải biết lý luận. Lý luận ấy phải đúc kết thành một cuốn sách. Tên nhà cách mạng ấy là Lenin, còn tên cuốn sách trong tiếng Việt là “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán – Bút ký phê phán một triết học phản động”. Bản tiếng Anh có tên “Materialism and Empirio-criticism. Critical Comments on a Reactionary Philosophy“. Ai quan tâm có thể đọc bản tiếng Việt ở đây, và bản tiếng Anh ở đây.

Chủ nghĩa duy vật, tiếng Anh là “materialism”, có nguồn gốc từ tiếng Pháp matérialisme xuất hiện năm 1748. Đây là một triết thuyết cho rằng chẳng có gì tồn tại ngoại trừ vật chất (matter). Chữ “matter” và “material” có nguồn gốc từ chữ latin “materia”. Theo Wolfgang Pauli, chữ “materia” theo nghĩa này, lại có gốc gác từ chữ “hyle ” (ὕλη) trong tiếng Hy Lạp cổ. Theo giải thích của Pauli thì: Theo quan điểm của Plato, thì “vật chất” có cái “bên trong” mà Plato gọi là bản chất (physis) và cái “bên ngoài”, là cái “hình dáng không gian” mà vật chất chiếm chỗ. Nôm na kiểu Việt Nam, thì vật chất của Plato có phần hồn (bên trong, vô hình) và phần xác (bên ngoài, hữu hình). Đến Aristotle, ông này hình dung cái “hình dáng không gian” này cụ thể hơn, ông gọi nó là “hyle”, nghĩa là tảng gỗ được đẽo gọt. Cũng vẫn theo Pauli, khi Ciero dịch triết học Hy Lạp cổ sang chữ Latin, ông đã dịch nó là “materia”.

Lucretius, nhà thơ và cũng là triết gia La Mã sống cùng thời với Cicero. Ông là người cổ súy cho thuyết duy vật và nguyên tử luận của Leucippus và Democritus. Có lẽ các quan điểm về vật chất, về nguyên tử, về bản chất thế giới vật lý của Lenin chịu ảnh hưởng từ tác phẩm “De rerum natura” của Lucretius. Các nhà vật lý  Loop Quantum Gravity (xem PS số 7 cuối bài này) cũng đang sử dụng quan niệm của Lucretius để làm chỗ dựa cho thuyết lượng tử hóa không-thời-gian của họ.

Cuốn sách của Lenin được coi là tác phẩm lý luận quan trọng nhất với cách mạng vô sản toàn thế giới. Chưa kể nó là hạt giống đầu tiên để đưa “tính đảng” vào trong nghiên cứu khoa học. Không chỉ khoa học xã hội, mà cả khoa học tự nhiên. Nghiên cứu vật lý lý thuyết, hay làm bom nguyên tử cũng phải có tính đảng, cũng là nhờ siêu phẩm này của Lê Nin.

Nếu chịu khó đọc tiểu luận (rất ngắn) này, hoặc nhìn vào tên tiếng Anh của nó, ta cũng có thể đoán thêm được các khái niệm quen thuộc ở Việt Nam như “phản động”, “suy thoái tư tưởng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nguồn gốc từ trước tác này của Lê Nin.

Trước khi khoác lên ngoài cái vỏ ngôn ngữ đầy tính lý luận “diễn biến”, “chuyển hóa”, “suy thoái” như hiện nay, các khái niệm ẩn dưới các vỏ bọc hoa mỹ này đã từng xuất hiện ở Việt Nam thời kỳ bắt đầu Đổi Mới với các từ “thoái hóa”, “biến chất”. Điều hài hước là, “thoái hóa”, “biến chất” rõ ràng là gần với triết lý của chủ nghĩa duy vật hơn “suy thoái tư tưởng”, “tự diễn biến”. Ngược lại, “suy thoái tư tưởng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lại xa rời chủ nghĩa duy vật, tiến gần hơn đến chủ nghĩa “duy tâm”, “duy ý thức”, các chủ nghĩa mà Lenin rất ghét.

*

Lenin (sinh năm 1870), lớn hơn Einstein (sinh năm 1879) chín tuổi, và hơn vua Hàm Nghi của chúng ta một tuổi. Lúc sinh ra ông chưa phải là Lenin đâu, thế mới tài, bởi khi lớn rồi ông mới tự chọn nick Lenin cho mình để làm cách mạng.

Năm Lenin 16 tuổi thì bố chết. Năm 17 tuổi thì anh ruột của Lenin bị Nga Hoàng tử hình vì hoạt động cách mạng. Ông nói: “Từ nay ta sẽ đi theo con đường khác.” Con đường khác đó là con đường mà chủ nghĩa Marx chỉ ra, còn cậu bé tuổi teen Lenin, lúc đó cũng vẫn chưa phải là Lenin,  là người nhiệt tình học hỏi rồi tham gia phổ biến vào nước Nga suốt một thời gian dài cho đến năm 27 tuổi mới thôi. Lý do là năm đó ông bị Nga Hoàng bắt bỏ tù. Tội của ông là dám làm một nhà hoạt động Marxist quá nổi bật.

Ra tù năm 1900, tuổi đời khoảng 30, Lenin ra nước ngoài sống lưu vong và tham gia đảng Lao Động Dân chủ Xã hội Nga. Ở đây, do đường lối cực tả (radical) của mình, chẳng may ông làm cho Đảng này bị chia rẽ. (Việc chia rẽ này, là do một cuốn sách mỏng của Lenin có tên Những việc cần phải làm. Trong cuốn sách này, Lenin cho rằng giai cấp cần lao chỉ đấu tranh về tiền lương và giờ làm với giới chủ là chưa đủ, họ cần làm nhiều hơn thế với các bước cụ thể: thành lập chính đảng, đảng phải có tính tiền phong, đi tuyên truyền chủ nghĩa Marx, làm cách mạng, nắm quyền lực, và tiêu diệt kẻ thù giai cấp. Một phiên bản thô sơ, cùng trích dẫn của cuốn sách này, chính là cuốn Đường Kách Mệnh). Phe của Lenin đông hơn. Với vài chiêu thức toán xác suất căn bản, ông đề xuất phương pháp “đa số cai trị thiểu số, thiểu số phục tùng đa số”. Phương pháp bỏ phiếu này ở Việt Nam có tên gọi “tập trung dân chủ”.  Đa số, tiếng Nga là bol’sheviki, là tiền thân của Đảng cộng sản Nga,  phiên âm tiếng Việt là Bôn Sê Vích. Nay còn gọi tắt là Bôn, với ý nghĩa khác.

Đến giai đoạn 1907-1908, trong phái Bolshevik ở hải ngoại thế quái nào lại nảy nòi ra một nhà lãnh đạo nổi bật, lấn át cả Lenin. Tên ông ta là Bogdanov. Ông này cũng theo chủ nghĩa Marx, tất nhiên rồi. Vậy nên Lenin ghét lắm, và chụp luôn cho ông này một cái mũ rằng đã là một tay Mác Xít mà lại dám suy thoái tư tưởng, tự diễn biến, và trở thành một tên phản động, duy tâm, tiểu tư sản. Lenin không phê phán bằng mồm. Ông viết hẳn một cuốn sách nhỏ để làm việc này. Đây chính là cuốn sách nói trên. Cuốn này về thể loại thì tiếng Anh gọi là “pamphlet”, còn bản tiếng Việt họ gọi là “Bút ký phê phán triết học” của Lenin, hoặc “Bút chiến của Lenin”.

*

Để viết cuốn sách này, vốn thông minh, thạo nhiều ngoại ngữ, Lenin bỏ ra khoảng 9 tháng sống ở Zurich và London, suốt ngày ở trong thư viện, vừa đọc vừa viết. Tài liệu tham khảo để viết cuốn này, như được liệt ra trong sách, lên tới 200 tác phẩm. Trong đó ngoài triết học và thần học, còn có nhiều công trình vật lý khá là cập nhật, như tác phẩm kinh điển về nguyên lý tương đối năm 1904 của Henri Poincaré, thậm chí Lenin còn tham khảo cả công bố khoa học năm 1908.

Lenin tuồn bản thảo vào Nga, đến tận tháng Tư năm 1909 ông vẫn còn sửa chữa bản thảo, một phần là để cho bớt gay gắt nhằm tránh kiểm duyệt của Nga Hoàng. Cuốn sách được in trong năm 1909 và nay đã thành kinh điển của cách mạng vô sản toàn thế giới.

*

Nếu đọc bản tiếng Việt của cuốn sách này ta sẽ thấy Lenin gay gắt tấn công chủ nghĩa Ma-khơ và những người theo chủ nghĩa Ma-khơ  Tư tưởng của chủ nghĩa Ma-khơ là phản động về mặt khoa học. Các đảng viên đảng Bôn-sê-vích đã theo chủ nghĩa Marx mà dám xét lại chủ nghĩa này do ảnh hưởng của tư tưởng Ma-khơ là bọn tự diễn biến, bọn tự chuyển hóa. Thứ triết học phản động, xuất hiện ngay từ tít phụ của tên cuốn sách, chính là triết học Ma-khơ.

Ma-khơ, là phiên âm từ tiếng Nga qua tiếng Việt của một nhà vật lý và cũng là triết gia tên là Ernst Mach. Lúc Lenin viết cuốn sách này thì Mach khoảng 70 tuổi. Khi ta nói vận tốc Mach 1, hay Mach 2, chính là tốc độ tương đối so với âm thanh, được đặt theo tên của nhà vật lý này.

Tư tưởng của Mach không hiểu vì sao ảnh hưởng rất mạnh đến các nhà Marxist người Nga, trong đó có Bogdanov, người mà Lenin cứ buộc tội là đảng viên Bolshevik mà lại tự diễn biến. Trong “bút chiến triết học” của mình, ông gọi những người tự chuyển hóa theo Mach là Russian Machian, còn cái tư tưởng thoái hóa kia là Machism.

Ernst Mach là người chế diễu Phân tâm học của Freud. Đại loại ông bảo bọn phân tâm học lấy cái bím của đàn bà làm ống nhòm để nhìn thế giới. Ernst Mach là cha đỡ đầu (trong lễ rửa tội) của Wolfgang Pauli.

Pauli là người postulate hạt neutrino, sáng chế ra Ma trận Pauli và là tác giả của Nguyên lý loại trừ Pauli. Pauli đưa ra Nguyên lý này năm 1925, nhưng đến năm 1945 ông mới được trao giải Nobel Vật lý cho công trình này. Ông nghĩ ra nguyên lý này khi mới 25 tuổi và trong lúc đang chơi gái. Nguyên lý loại trừ đặt cầu nối giữa Cơ lượng tử cổ điển của Bohr và Cơ lượng tử hiện đại của Heisenberg và Schrödinger. Pauli cũng là người chứng minh bằng toán học rằng “cơ học ma trận” của Heisenberg và “cơ học sóng” của Schrödinger là một.

Khác với Mach, Pauli tin vào phân tâm học. Ông cộng tác chặt chẽ với Carl Jung. Nhưng Pauli cũng ác khẩu như Mach, kiểu như nói các câu dùng “bím làm ống nhòm”. Câu nói “Còn tệ hơn cả sai” của ông, nay được dùng để chế nhạo String theory. Về Phân tâm học của Jung và Pauli, xem ở đây.

Pauli đề xuất trên lý thuyết về sự tồn tại của hạt neutrino năm 1930. Nhiều năm sau đó các nhà vật lý chịu chết không phát hiện được hạt này. Pauli nói: Tôi đã làm một việc rất tệ, tôi đã postulate một hạt không thể dò tìm ra được.” Đến năm 1953, khi nghe tin đã detect được hạt neutrino, Pauli trong cơn say rượu của tiệc ăn mừng đã nói: “Mọi điều tốt lành sẽ đến với người kiên nhẫn”. Ba năm sau, năm 1956, kết quả của việc phát hiện ra hạt neutrino mới chính thức được xác nhận. Một trong các nhà vật lý phát hiện ra neutrino gửi điện thư cho Pauli. Pauli gửi điện phúc đáp: “Cám ơn đã gửi tin. Mọi thứ sẽ đến với người đàn ông biết cách chờ đợi.” Đến tận năm 1995, các nhà vật lý có công dò tìm ra neutrino mới được trao giải Nobel.

Vậy Machism mà Lenin phê phán là gì. Ta có thể tìm hiểu chủ nghĩa (tư tưởng) này qua cách gọi của Einstein. Einstein gọi tư tưởng ấy là Nguyên lý của Mach (Mach’s Principle). Einstein cũng nói nguyên lý Mach là một trong ba nguyên lý nền tảng của Thuyết tương đối tổng quát. Tư tưởng ấy đi ngược lại thế giới quan vật lý tuyệt đối của Newton, và cho rằng (không gian và thời gian) là tương đối. Và tất nhiên Lenin, người thích lãnh đạo một đảng của những người Bolshevik cực tả, sẽ ưa thích sự chuyên chính (tuyệt đối) hơn tư tưởng “tương đối” của Bogdanov. Ông gọi chủ nghĩa Marx mà Bogdanov đi theo là “xét lại” và là “duy tâm vật lý” (hàm ý chủ nghĩa duy vật mới thực sự là vật lý, tức là khoa học tự nhiên đúng nghĩa).

Đế chống lại Mach’s principle, một nguyên lý sau này trở thành trụ cột của Thuyết tương đối, Lenin cho một lô một lốc các nhà khoa học lừng danh đương thời, bao gồm cả Henri Poincaré vào một ruộc rồi tha hồ chỉ trích là duy tâm, duy linh (tức là phản khoa học tự nhiên).

Ông không làm vậy một cách thô sơ, mà rất có “lý luận”. Trong Phần III của tập bút ký triết học, ông dành hẳn Chương 5 để viết về đề tài vật lý (và cũng là triết học) rất nổi trội lúc bấy giờ Không gian và Thời gian để phê phán rất nặng lời triết học ma quỷ của Mach.

Ông dành hẳn ra một phần (Phần V) để nói về cuộc Cách mạng của khoa học tự nhiên (và sau này nó được đồng nhất với Cách mạng vô sản). Chương đầu tiên của phần này nói về Cuộc khủng hoảng trong vật lý hiện đại. Đây là đề tài thời thượng kéo dài suốt những năm cuối thế kỷ 19 và vắt sang đầu thế kỷ 20. Ông bắt đầu bằng việc nhắc đến một tác phẩm rất mới và rất nóng sốt lúc bấy giờ, là cuốn Valeur de la science của Poincaré. Trong cuốn sách này, có in bài thuyết trình năm 1904 của Poincaré: Các nguyên lý của vật lý toán hay là Cuộc khủng hoảng của Vật lý toán. 

Cuộc khủng hoảng này, như ta biết, liên quan chủ yếu đến vấn đề nghiệm của phương trình Maxwell mâu thuẫn với Newton, và phân tử/nguyên tử có tồn tại hay không. Cuộc khủng hoảng vật lý này đã tạo sinh ra Thuyết tương đối hẹp của Einstein; và cũng nhờ khủng hoảng này mà Einstein có công trình về photon ánh sáng, qua đó đặt nền móng cho Thuyết lượng tử.

Cả hai công trình này Einstein công bố cùng trong năm 1905. Chưa hết, cuộc khủng hoảng này và tư tưởng của Mach còn giúp Einstein năm 1907 phát minh ra nguyên lý tương đương, một nguyên lý cực kỳ quan trọng của vật lý.  Vậy mà khi viết cuốn “bút chiến” này vào năm 1908 Lenin lại không nhắc một lời đến Einstein và Thuyết tương đối. Chắc chắn Lenin biết đến Einstein và Thuyết tương đối hẹp, bởi ông phê phán những tên tuổi có đóng góp rất nhiều vào thuyết này. Một người là Mach, còn người kia là Poincaré. (Chưa kể Lenin còn nhắc đến nhiều nhà vật lý khác có liên quan, ví dụ nhà vật lý Poynting, vector Poynting được sử dụng nhiều trong Thuyết tương đối tổng quát). Và quan trọng hơn cả, một trong các luận điểm của Lenin đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng chắc chắn là phải đúng hơn các chủ nghĩa duy tâm, duy linh, duy ý thức. Đó là vì vật chất khách quan (là cái mà theo ông phải thực sự hiện hữu, phải tận tay nắm bắt được) sẽ không thể chuyển hóa thành năng lượng (không có dạng hình thức vật lý để hiện hữu, để nắm bắt được, ví dụ như ánh sáng). “Quan điểm” mà Lenin phê phán này, chính là Thuyết tương đối hẹp.

Là tín đồ của Marx, Lenin tin vào vật chất quyết định ý thức, và không thể chấp nhận vật chất và ý thức có thể chuyển hóa xuôi ngược thoải mái thông qua phương trình ngắn tũn của Einstein: E=mc2.

Wolfgang Pauli viết về phương trình Einstein: “Bây giờ thì [công thức Einstein] có nghĩa là một bước quan trọng của sự trừu tượng hóa chính khái niệm của tự thân vật chất. Vật chất là gì? Tờ giấy mà tôi đang viết đây là vật chất. Không khí cũng là vật chất, nhưng ngay cả ánh sáng, nhờ vào phát hiện của Einstein, nay cũng trở thành vật chất.

Như vậy, xét theo một nghĩa nào đấy, cuốn bút chiến triết học, đỉnh cao về lý luận của Lê Nin, một tác phẩm đề cao tuyệt đối chủ nghĩa duy vật của Marx và coi mọi lý thuyết khác nó, bao gồm cả các lý thuyết vật lý quan trọng nhất, là sai lầm, hóa ra lại sai lầm ngay từ khi nó được viết ra. Bởi lý thuyết và tư tưởng mà tập bút ký phê phán, còn ra đời trước cuốn sách mấy năm, và chẳng bao lâu sau sẽ được chứng minh là tuyệt đối đúng. Những kẻ tự diễn biến, tự chuyển hóa, tự suy thoái cuối cùng thành ra lại tin vào chính chân lý, một chân lý ra đời còn trước những lý luận mà vì nó họ bị tiêu diệt.

Cái quan trọng hơn nữa, có thể chính Lenin cũng biết cái mình viết ra là sai từ gốc. Người ta không bao giờ tìm thấy bản thảo gốc của cuốn sách. Ngay cả khi nếu ông chưa biết mình sai vào vào quãng thời gian 1908-1909, thì ông cũng phải biết mình sai những năm sau này. Năm 1916 Einstein chính thức công bố Thuyết tương đối tổng quát, năm 1917 Lenin về Nga và Cách mạng Nga thành công, năm 1921 Einstein được giải Nobel, năm 1924 Lenin qua đời.

Không chỉ tấn công Mach, trong cuốn sách của mình Lenin còn ra sức công kích triết gia thế kỷ 17 là David Hume (thường là ông công kích Hume kèm với Kant; có lẽ vì Kant là người cổ súy các ý tưởng của Hume.) Trong nhiều thư từ Einstein viết gửi cho bạn bè, ông xác nhận việc mình tìm ra Thuyết tương đối hẹp là nhờ đọc các tác phẩm của Mach và Hume. Với Hume, ông đọc cuốn “A Treatise on Human Nature”.

Khi còn là nhân viên quèn ở phòng sáng chế ở Bern, Einstein đã thành lập một nhóm bạn bè thích vật lý và triết học, gặp nhau thường xuyên để trao đổi về vật lý. Ông đặt cho nhóm này cái tên rất hào nhoáng là “Olympia Academy”. Sinh hoạt của nhóm bao gồm cả việc thảo luận về Hume, Mach, Cervantes và Spinoza.

Nhờ vào “chỉ dẫn” của Hume về việc con người tri nhận (perception) thế giới hiện thực thông qua các giác quan, và các kỹ thuật chung dùng để tách biệt cái mà ta quan sát với cấu trúc lý thuyết mà ta xây dựng dựa trên các quan sát này, Einstein đã phát triển thành công “Thuyết tương đối hẹp”.

Thư Einstein gửi cho bạn, nằm trong lưu trữ thư tín của Einstein, bản dịch qua tiếng Anh (Einstein viết bằng tiếng Đức). Trong lưu trữ Einstein, quãng thời gian này có tên gọi Berlin Years: Correspondence, 1914-1918.

Einstein Hume Mach

*

Tác dụng của cuốn Bút ký triết học Lenin còn kéo dài nhiều năm sau khi Lenin qua đời.

Có người bạn copy một comment của anh Đàm Thanh Sơn về cuốn sách của Lenin:

Câu nổi tiếng nhất trong cuốn này là “Điện tử cũng vô cùng tận (inexhaustable) như nguyên tử”. Câu này không ai hiểu nhưng nhiều người cho rằng Lenin định nói điện tử cũng có thể chia được thành các hạt nhỏ hơn. Cuốn sách này có ảnh hưởng lớn đến Soichi Sakata, tác giả của “Sakata model” trong đó các hadron cấu tạo từ proton, neutron và hạt Lambda, tiền thân của mô hình quark. Sakata lại có ảnh hưởng rất lớn đến Mao, đã sang Trung Quốc nói chuyện nhiều với Mao. Mao cũng cho rằng các hạt hiện nay ta cho là cơ bản đều có thể chia thành các hạt nhỏ hơn. Sau này Sheldon Glashow suy đoán là các hạt quark và lepton đều được cấu tạo từ các hạt nhỏ hơn và ông ta đặt tên các hạt này là “maons”, “hạt Mao”. Rất tiếc (hay rất may) là “hạt Mao” bây giờ vẫn chưa ai tìm thấy.

*

Tư tưởng và lý thuyết cực kỳ cách mạng của Einstein được đón nhận khắp nơi. Thuyết tương đối hẹp được du nhập vào Nhật năm 1909. Quãng năm 1922 Einstein đến Nhật diễn thuyết, kéo theo làn sóng các nhà vật lý hàng đầu, bao gồm các nhân vật cha đẻ của thuyết lượng tử như Heisenberg, Dirac, Bohr cũng đến Nhật. Nước Nhật trở thành cường quốc khoa học.

Thông qua Nhật, tư tưởng của Einstein được giới thiệu vào Trung Hoa, và có tác động lớn đến trí thức nước này. Các trí thức đã dũng cảm đứng lên đả phá tư tưởng nho học nô dịch dân tộc họ hàng ngàn năm. Trong số các trí thức đó có Lỗ Tấn. Làn sóng đổi mới tư duy này đã dẫn đến cách mạng 1919 ở Trung Quốc, xóa bỏ phong kiến.

Còn ở Nga, sau khi Lenin qua đời, đến thời Stalin thì tư tưởng của Einstein được coi là “duy tâm”, là phản động. Thuyết tương đối và Cơ lượng tử thất thế hoàn toàn trong giới khoa học Xô Viết . Năm 1934, nhà vật lý Xô Viết Gamow phải đào thoát qua Mỹ (sau nhiều lần trốn chạy bất thành). Gamow là nhà vật lý nguyên tử và lượng tử, tác giả của hiệu ứng đường hầm lượng tử. Năm 1938, nhà vật lý Landau bị Stalin bỏ tù, sau đó được đồng nghiệp viết thư xin Stalin thả ra. Năm 1962 Landau được Nobel vật lý. Cũng năm 1938, Matvei Bronstein, lúc này mới 32 tuổi đã bị Stalin bắt và xử bắn lập tức vì tội phản động thoái hóa tư tưởng (xem chú thích số 7 dưới bài). Chết oan khi còn rất trẻ nhưng Bronstein đã kịp để lại công trình mà sau này thành nền tảng của Quantum Gravity. Tên của anh được các nhà vật lý thuộc lĩnh vực đang rất hot hiện nay là Loop Quantum Gravity đặt cho một giải thưởng khoa học của họ.

Ở Trung Quốc, trong Cách mạng văn hóa, do ảnh hưởng từ Liên Xô, Einstein cũng bị đem ra đấu tố. Mãi cho đến thời Bốn hiện đại hóa của Đặng, Einstein và Thuyết tương đối mới quay trở về Trung Quốc.

Nếu ai quan tâm sâu hơn, thì một người nữa suýt nữa thành nạn nhân do bị buộc tội “suy thoái tư tưởng” dưới thời Stalin chính là Nguyễn Ái Quốc, giai đoạn 1933 khi ông quay lại Nga sau khi thoát nạn tù ở Hongkong. Trước đó, đầu những năm 1930, ông cũng bị lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương là Trần Phú và Hà Huy Tập phê phán về đường lối tư tưởng “cải lương”, “duy tâm”, trái với Quốc tế cộng sản đệ tam (của Stalin). Cuốn Đường Kách Mệnh cũng bị phê phán nặng nề.

*

Nghiệm của phương trình Maxwell cho ta biết vận tốc sóng điện từ. Cuối thế kỷ 19, người ta quen với thế giới của Newton, đó là nói đến vận tốc thì phải là vận tốc so với cái gì. Nghiệm Maxwell cho thấy sóng điện từ (hồi đó các nhà vật lý còn chưa biết ánh sáng cũng là sóng điện từ) có vận tốc chẳng so với cái gì cả. So với người đứng yên, vận tốc ánh sáng là c (vận tốc ánh sáng ký hiệu là c). So với người chạy ngược chiều với tia sáng, dù người này chạy nhanh đến mấy, vận tốc ánh sáng mà người này đón nhận, cũng vẫn là c. Hoặc nếu một người đuổi theo tia sáng, dù chạy nhanh đến mấy, thì tia sáng cũng rời xa anh ta với vận tốc là c. (Einstein đã làm thí nghiệm như vậy ở trong đầu mình và nhờ đó giải quyết được “cơn khủng hoảng của vật lý hiện đại” ).

Năm 1895 thì Hendrik Lorentz công bố phép biến đổi mà ngày nay mang tên ông (biến đổi Lorentz). Phép biến đổi này dùng để khảo sát xem, ví dụ không gian và thời gian, sẽ biến đổi thế nào khi người quan sát chuyển động. Công trình này được Einstein lúc này còn rất trẻ tìm đọc và phát triển theo tư duy “vật lý” của mình. Công trình này cũng được Henri Poincaré phát triển theo lối “toán học” cùng với chính Lorentz. Đến năm 1904 thì Poincaré có đề xuất một thuật ngữ là “nguyên lý tương đối”. Đến năm 1905 thì Einstein công bố Thuyết tương đối hẹp. Đây là lý do gây ra nhiều tranh cãi về việc Poincaré có đóng góp thế nào vào Thuyết tương đối hẹp. Hay là Einstein có thực sự là cha đẻ của Thuyết tương đối hẹp hay không. Poincaré đến chết (1912) vẫn có ý phủ nhận thuyết của Einstein Einstein thì né tránh nhắc đến Poincaré, mãi khi Einstein gần chết (1955) mới nói vài lời đánh giá cao đóng góp của Poincaré.

Cách đây chừng hơn chục năm, Poincaré cực kỳ nổi ở Việt Nam. Năm đó Giả thuyết Poincaré, một trong 7 bài toán thiên niên kỷ, được Perelman giải xong. Perelman được giải Fields nhờ vụ này. Còn Giả thuyết Poincaré cho đến nay vẫn là bài toán duy nhất trong số 7 bài được giải quyết.

Đến những năm 198x thì các cuộc tranh cãi ngã ngũ rằng chỉ mình Einstein là chủ nhân của thuyết tương đối tổng hẹp. (Nếu chỉ đọc phần toán, tức là chỉ đọc các phương trình trong các nghiên cứu của Lorentz/Poincaré và nghiên cứu của Einstein, quả thực giống nhau đến 9/10).

Nhưng gần đây, các nhà vật lý một mặt công nhận Einstein là cha đẻ thực sự của Thuyết tương đối hẹp, nhưng công nhận thêm nhà toán học Minkowski (cũng đồng thời là thầy giáo toán hồi đại học của Einstein) là người hoàn thiện thuyết này, trong đó có sử dụng đóng góp quan trọng của Poincaré năm 1904 và 1905 (là bài “On the Dynamics of the Electron”). Minkowski cũng là người đặt ra thuật ngữ spacetime (không thời gian) chứ không phải Einstein. Bởi vậy Không thời gian này còn được gọi là Không gian Minkowski. Lúc đầu Einstein coi thường công trình của thầy mình, ông bảo đó chỉ là mẹo toán học, rồi thì “từ khi các nhà toán học bước chân vào vật lý thì tôi chả hiểu gì nữa”. Nhưng sau đó, khác với Lenin, Einstein nhận ra cái sai của mình, và từ việc hiểu Minkowski, ông đi được đến Thuyết tương đối tổng quát.

Minskowski công bố công trình spacetime của mình năm 1908, và qua đời ngay sau đó khi mới hơn 40 tuổi. Năm 1908, tình cờ, là năm Lenin đang lăn vào viết cuốn bút chiến độc đáo của mình.

Ai quan tâm đến phương trình Einstein và Schrodinger, có thể đọc thêm ở đây.

PS:

  1. Bài viết này là để quảng bá cho cuốn sách này.
  2. Các quan chức ngoài bắc kém nói lái. Nên phát biểu của họ hay mắc lỗi. Họ hay nói: Một là, hai là, ba là. Lẽ ra đến Bốn Là, họ phải nói là Tư Là. Nhưng họ vẫn cứ nói “bốn là”. Tương tự như thế, câu nói ông ấy Bôn lắm (ý là Bôn sê vích lắm), hay bị diễu là ông ấy (thế nào) mà Bôn Lành cho lắm. Hoặc gần đây có luật là sinh viên sư phạm “bốn lần” bán dâm thì bị đuổi học.
  3. Thuyết tương đối hẹp rất là khó hiểu. Bạn có thể bỏ ra năm phút xem nó khó hiểu thế nào. Giả sử không gian chỉ có một chiều. Hệ tọa độ (descartes) sẽ chỉ có một trục, là một đường thẳng. Con kiến sống trong không gian này chỉ bò đi bò lại trên đường thẳng này mà thôi. Nếu không gian có thêm một chiều nữa, hệ tọa độ sẽ có thêm một trục nữa, là một đường thẳng vuông góc với trục kia. Lúc này ta có một mặt phẳng, như tờ giấy, con kiến tha hồ bò ngang dọc trên mặt phẳng ấy. Nếu không gian có thêm một chiều nữa, là ba chiều, thì trục tọa độ thứ ba sẽ vuông góc với cả hai trục con lại. Lúc này hệ tọa độ đại khái như cái góc tường nhà, ba trục vuông với nhau. Con kiến cần có thêm cánh như con ong, để bay khắp cái không gian ba chiều (là căn phòng ấy). Trong thuyết tương đối, chiều thứ 4 là thời gian được thêm vào, trục tọa độ  thời gian sẽ phải vuông góc (trực giao) với cả ba trục tọa độ kia. Bạn thử tưởng tượng bốn đường thẳng trực giao với nhau như vậy mà xem, rất khó đấy.
  4. Lỗ Đen (Black Hole). Thường thì “lỗ” gợi ra một cái lỗ trên mặt phẳng hai chiều, mà ta có thể chui từ chiều thứ ba (vuông góc với mặt giấy). qua lỗ ấy được, ví dụ như lỗ thủng trên một bức tường, hay lỗ thủng trên tờ giấy. Nhưng với lỗ đen, lỗ này có tới ba chiều, ta có thể chui vào từ chiều nào cũng được.
  5. Để dễ nhớ các mốc thời gian: năm 1895 Lorentz công bố phép biến đổi mà sau này là nền tảng của Thuyết tương đối hẹp thì nhạc sĩ Camille Saint-Saëns đến Sài Gòn và Côn Đảo sống. Ông là người nổi tiếng đầu tiên đến xứ thuộc địa này. Năm 1907, khi Einstein phát minh ra Nguyên lý tương đương, cũng là năm vua Thành Thái bị Pháp bắt. Năm 1916, khi Einstein công bố đầy đủ Thuyết tương đối rộng, thì vua Duy Tân bị Pháp bắt nốt.
  6. Không chỉ có trước tác của Lê Nin, mà trước tác của Mao cũng lan vào Việt Nam. Như sau:Có một trí thức tên là Đệ. Ngày ấy học giỏi, tốt nghiệp Luật ở Đại học Đông Dương, hơn kém Giáp vài khóa. Đệ còn là hướng đạo sinh, khi Trần Trọng Kim dựng chính quyền, Việt Minh gài Đệ vào làm tri huyện ở Hà Trung, một vùng giáp ranh Thanh Hóa – Ninh Bình.Sau Cách mạng tháng 8, Đệ lên chiến khu với Trường Chinh. Chính là Tạ Quang Đệ, em ruột Tạ Quang Bửu.Lên chiến khu, Đệ dịch các trước tác của Mao, để Trường Chinh đưa các lãnh tụ khác đọc, và học, và thấm nhuần ít nhất cũng phải gần được như Chinh. Ai cũng phải đọc, phải thấm nhuần, kể cả ông Cụ. Các trước tác ấy là “Thực tiễn luận (实践论)”, “Luận trì cửu chiến (论持久战)” – luận về trường kỳ kháng chiến. Hai cuốn sách của Mao xuất bản năm 1937 và 1938.Trước đó, Chinh dẹp sạch những người đã phát động và tổ chức thành công “Cách mạng tháng 8” là Nguyễn Khang (Hà Nội) và Trần Văn Giàu (Sài Gòn), giành trọn công lao và hào quang của “Cách mạng cướp chính quyền” về Xứ ủy bắc kỳ do Chinh cầm chịch. Sau khi tự mình viết “Kháng chiến nhất định thắng lợi” oách như Mao đăng trên Sự Thật (tháng 3 – tháng 8 năm 1947), trong hai năm tiếp theo 1948-1949 Chinh sử dụng Đệ (bút danh Quang Đạm) lên Sự Thật viết loạt bài chống Tư Pháp Độc Lập để đập lại quan điểm của luật sư Vũ Trọng Khánh. Luật sư Khánh là  Bộ trưởng Bộ tư pháp đầu tiên (trong chính phủ lâm thời), và là người soạn thảo Hiến pháp 1946. Lúc này Khánh là Giám đốc tư pháp chiến khu, luôn gây ra xung đột với bên Đảng do cố gắng giữ hoạt động của Tòa án độc lập với Đảng chuyên chính (một việc mà cho tới ngày nay vẫn còn như là mơ với tư pháp Việt).Đây là những tính toán bài bản và lọc lõi để dọn đường cho lý luận và hành động Mao-ít tràn vào Việt Nam. Giai đoạn này kết thúc năm 1951, khi ông Cụ lên báo nói như Mao phán trong “Thực tiễn luận”: “Thực hành sinh ra hiểu biết! Hiểu biết tiến tới lý luận! Lý luận lãnh đạo thực hành”. Kể từ đó, mọi sự xảy ra, cho đến tận ngày nay, đều có gốc rễ từ giai đoạn tư tưởng của Mao do Chinh kín đáo reo mầm và bón phân trong Đảng, từ chiến khu rồi loang như ốc bươu vàng ra toàn miền bắc. Và đổi mới của mấy chục năm sau nữa, đều phải nhìn vào những sự kiện này để mà phân tích. Để hiểu tại sao sau 30 năm đổi mới, tất cả thành ra một đống như ngày nay.

    *

    Vũ Đình Hòe, bộ trưởng tư pháp cho biết sau này chính Quang Đạm (tức Tạ Quang Đệ) đã phải thú nhận sai lầm của mình: “Quyền lực của tư pháp và lập pháp là hữu danh vô thực; bên trên ba quyền lực, bao gồm cả quyền hành pháp, là một thứ siêu quyền lực có thể quyết định tất cả, đó là cấp ủy”.

    Những sai lầm ấy, chính dân tộc này, trong đó có cả người trí thức Quang Đạm phải trả giá.

  7. Từ rất sớm, quãng năm 1916, trước khi Cơ học lượng tử của Heisenberg và Schrodinger xuất hiện, Eisntein có viết rằng spacetime và physical field chỉ là một physical entity, và ở scale (nhỏ tới mức) nào đó, chúng sẽ phải có các tính chất của lượng tử (quantum properties). Lev Landau, năm 1931, áp dụng Nguyên lý bất định của Heisenberg vào trường điện từ. Ý tưởng là: không thể đo được trường điện từ ở kích thước tùy ý nhỏ đến mấy cũng được. Năm 1937, Bohr và Rosenfeld chứng minh được là Landau sai. Tuy nhiên năm 1936, một người bạn của Landau là Matvei Bronstein, áp dụng ý tưởng này vào trường hấp dẫn. Ta không thể xác định chính xác đường cùng lúc cả vị trí và vận tốc của một hạt điểm. Nếu ta xác định chính xác cực kỳ vị trí của  một hạt điểm, tức là trong một sát na ấy, ta phải “nhốt” hạt ấy  vào một điểm cực nhỏ. Thì đồng thời phải chấp nhận vận tốc lúc ấy của hạt cực lớn. Vận tốc cực lớn, tức là động lượng cực lớn. Động lượng cực lớn tức là năng lượng cực lớn. (Đây là lý do máy gia tốc hạt LHC ở CERN cần rất nhiều năng lượng để đi tìm, tức là định vị các hạt). Năng lượng cực lớn, theo công thức của Einstein, thì khối lượng cực lớn. Khối lượng cực lớn trong không gian cực nhỏ, cái hạt điểm ấy lập tức biến thành lỗ đen (black hole). Bài báo này của Matvei đã đặt nền tảng cho quantum gravity. Rất tiếc, không lâu sau đó, năm 1937 Matvei bị Stalin bắt và tử hình trong đợt Đại Thanh Trừng. Lúc này anh mới 32 tuổi. Một hệ quả của quantum gravity, đó là không gian không còn là một thực thể vật lý có tính liên tục nữa, nó bị gián đoạn. Không gian không còn “vô cùng trơn tru” có thể chia diện tích và thể tích nhỏ xuống bao nhiêu cũng được (chia nhỏ vô cùng tận). Thay vào đó, chỉ chia được đến kích cỡ Planck. Diện tích và thể tích cũng được lượng tử hóa. Không gian hình thành bởi các hạt không gian vô cùng nhỏ kết hợp lại. Các “hạt không gian” này là các thể tích nhỏ nhất, không còn thể chia cắt nhỏ thêm được nữa. Ở kích cỡ hạt không gian, thời gian cũng không còn tồn tại. Đây là lý do các nhà vật lý LQG hiện đại cho rằng không gian là “ảo”, và có vẻ như họ đang đi đúng đường. Đề tài này để lúc nào rảnh sẽ viết tiếp.

About Blog của 5xu

Ti hí nhìn đời
Bài này đã được đăng trong sách và được gắn thẻ , , , , , , , , , , , , , , , , , . Đánh dấu đường dẫn tĩnh.