Đọc THẤY PHẬT của Cao Huy Thuần
NHẬT DIỆN PHẬT,
NGUYỆT DIỆN PHẬT
Bùi Văn Nam Sơn
Lời toà soạn : Chúng tôi vừa nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây bài viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
DIỄN ĐÀN
Mặt trời có khuôn mặt Phật ; mặt
trăng có khuôn mặt Phật / Ngày
ngày gặp Phật ; Tháng tháng gặp
Phật ! “Thông điệp tâm linh”
ấy về sự hoà hợp giữa trần
cảnh và đạo
tâm đến từ
cùng một tác giả của Thế
giới quanh ta mới đây (Nhà xuất bản Đà
Nẵng, 2006), một tập sách gồm những
bài viết về “thế sự” của
một vị giáo sư chính trị học
lão luyện và sắc sảo từ Paris.
Dưới ngòi bút tài hoa đặc
sắc của tác giả, “khoa học chính
trị” vốn cực kỳ phức tạp đã
trở nên mềm mại và đầy tính
nhân bản của một tác phẩm văn
chương chính trị là nhờ tầm
nhìn và tấm lòng của một người
trí thức mà định nghĩa về
nó đã trở nên nổi tiếng :
“ trí thức là người làm
những việc chẳng ăn nhập gì đến
họ ” (“ s’occupe de ce qui ne le regarde pas ”,
J.-P. Sartre). “ Tại
sao họ xớ rớ vào
những chuyện không liên quan gì đến
họ như vậy ? Ấy là tại vì
họ xớ rớ vào chính chuyện của
họ. Chuyện không phải của họ mà
họ thấy là của họ. Cái thấy
đó làm họ trở thành trí
thức ”.
Nhà văn Nguyên Ngọc, trong Lời giới thiệu cho tập sách, đã gọi người trí thức – theo định nghĩa ấy và như chính tác giả của nó – là “ người xớ rớ uyên thâm ”. Vâng, uyên thâm và còn sáng suốt, đáng yêu nữa ! Tôi chợt nhớ đến Kant – cũng là một nhà trí thức bàn về chính trị – khi ông nói : chính trị học, đạo đức học rút cục không nhằm tạo ra những nhà đạo đức đi làm chính trị (xã hội sẽ nghẹt thở trong khuôn thước và thiện chí chủ quan của họ !) mà lo vun bồi những nhà chính trị có đạo đức. Vì họ biết chỗ cần dừng lại (“tri kỳ sở chỉ” nói như cụ Khổng) và vì họ biết nhìn và biết thấu cảm những gì rộng hơn, bền hơn những lợi ích trước mắt.
Lần này, quả là có “túc
duyên văn tự” khi tôi được
may mắn có mặt khi quyển sách chuẩn
bị ra mắt. Vào một buổi sáng
Sài Gòn mát mẻ, chung quanh cốc cà
phê, Anh trao đổi với một số thân
hữu về ý định tập hợp thêm
một số bài viết rải rác trong
nhiều thời điểm liên quan đến
nhiều cảm thức của Anh về đạo
Phật và đời sống tâm linh của
người Phật tử thành một tập
sách để bổ sung thêm vào danh
mục một số quyển cùng loại đã
in : Thượng
Đế, Thiên Nhiên,
Người, Tôi và Ta (Triết lý
luật và tư tưởng Phật giáo), Nhà xuất bản TP. HCM, 2000
; Tôn
giáo và xã
hội hiện đại (Nhà xuất bản Thuận
Hoá & Phương Nam, 2006) ; Nắng và
Hoa (tái bản, Nhà xuất bản Văn Hóa Sài
Gòn 2006). Xin mở ngoặc để cho phép
tôi được gọi tác giả Cao Huy
Thuần bằng “Anh” với tất cả
tình thân thiết, không chỉ vì
tuổi tác (Anh từng là bạn học
của anh ruột tôi tại trường Khải
Định, Huế) mà nhất là về
độ chín, độ sâu trong suy tư
và trải nghiệm. Ngược lại, Anh
không xem tôi như một đứa em nhỏ
mà như một người bạn vong niên.
Một vinh hạnh, nhưng lại buộc mình
phải cố đi tới, phải cố ngước
lên !
Trước hết về nhan đề tập
sách. Anh đã dự tính cho nó
một cái tên : Nhìn Trăng.
Nhan đề hay, thơ mộng, gợi tưởng,
nhưng các nhà làm sách e… khó
bán, vì người đọc thường
thích “mua” một cái gì “cụ
thể” ! Thì chọn Thấy Phật
vậy, vì đó cũng là nhan đề
của một bài trong tập. Anh hoan hỉ
chấp nhận đề nghị, dù ai nấy
đều thừa biết anh trân trọng chữ
nghĩa đến mức nào : “ học
một
chữ trong sách thì thấu rõ một
chữ, nhìn chữ ấy trong sự vật
trước mắt để thấu rõ thêm,
và áp dụng chữ ấy vào đời,
sống với nó ”. (Tặng
người
quét chùa trên núi Tuý Vân).
Chữ còn để ta “sống với”
chứ đâu phải chỉ để “đọc” !
Như thế, Nhìn Trăng
hay Thấy
Phật đâu có gì khác
nhau ? Một hình ảnh quen thuộc nhưng
tuyệt đẹp trong Kinh chợt hiện trong đầu
tôi lúc ấy : “ Hoa khai
kiến Phật
ngộ vô sinh ”. Thật lạ lùng, hoa
nở, hoa tàn là vô thường, sao
lại “ngộ” được trong ấy
lẽ vô sinh và còn tận mắt thấy
được Phật nữa ?
Sau khi yên tâm trao đứa con tinh thần
vào tay một người có thừa lòng
yêu sách và quý chữ là nhà
văn Phan Thị Vàng Anh, Anh quay lại tôi,
bảo : “ Nhờ Sơn viết mấy Lời
giới thiệu cho tập sách ! ”. Trời
ơi, sao tôi dám nhận ? Sao tôi có
thể viết ? Tôi biết gì về Phật
học đâu ? Anh cười : “ Thì
không phải là Phật tử mới nhờ
viết ! ”. Anh dành cho tôi sự ưu ái
vì lòng Anh quảng đại, nhưng vô
tình (hay hữu ý !) đang bày ra cho tôi
một “công án” : chú em đắm
chìm trong triết học Tây phương đã
lâu, thử một lần “đảo nhãn”
xem sao ?
Hai tuần trôi qua, tôi mang “công án” trong đầu. Nặng nề, bế tắc. Nhận được bản thảo từ Huế gửi vào, tôi vội vàng cắm cúi đọc. Con người độc giả quán tính trong tôi trỗi dậy : thử xem lần này tác giả định “xớ rớ” vào chuyện gì ? đặt ra những những vấn đề nào ? Và v.v…Tới khi đọc mấy câu Anh viết về niềm vui hồn nhiên của hai mẹ con “nô nức” trẩy hội chùa Hương, bày nhau niệm “Quan Thế âm bồ tát” để “tha hồ đi mau” trong thơ Nguyễn Nhược Pháp mới thấy là mình dại : “ Tôi, tạm gọi là trí thức, quen làm việc với cái đầu, tôi phải dùng cái đầu để nghĩ đến Ngài, tôi không gọi Ngài trực chỉ từ tâm mà kinh qua cái đầu, nếu Ngài đến với tôi chậm, chính là tại tôi.
Có thể tôi giảng vanh vách về
Ngài, vì tôi là trí thức. Có
thể tôi có cái giật mình triết
lý khi đọc hai chữ “Quán Âm”.
Quán là nhìn ; âm là tiếng : có
ai nhìn cái tiếng bao giờ đâu ? ”
(Chùa Hương).
Tôi thở phào nhẹ nhõm ! Té ra
một người uyên thâm về Phật
pháp như Anh cũng chia sẻ đồng đẳng
với mình về “thân phận”
trí thức phải “ dùng cái đầu
để suy nghĩ ”, dù đôi lúc
cũng trải qua những “ cái giật
mình triết lý ”, nhưng rồi “ cái
đầu cứ loay hoay bận bịu nghĩ về
thiêng liêng, thiêng liêng với tôi
là hai, làm sao gặp nhau được ? ”.
Đọc sách Phật học, gặp những
chỗ khó hiểu, ta thường được
cảnh báo và căn dặn : “ Học
cho lắm, đọc sách đắm say, có
khi thành ra tối. Phật sờ sờ trước
mắt cũng không thấy. Tâm bình dị,
dạ chân chất, nhìn đâu cũng
thấy Phật ” (Tặng người
quét
chùa trên núi Tuý Vân). Anh kể
chuyện ông vua rơi mất viên ngọc
quý xuống đáy hồ; người có
biệt danh “Thần nhãn” không tìm
được ; nhưng người “Thất
nhãn” lại tìm được ngay. Ấy
là bài thứ 9 của Tứ
thập nhị
chương kinh. “Thất nhãn” lại
hơn “Thần nhãn”, đó là
điều không dễ hiểu. Ý kinh muốn
nói gì ? Anh giảng cho ta : “ Tôi không
có ý nhắn người quét chùa
trên đỉnh Tuý Vân đừng đọc
sách… Chúng ta hàng ngày xin
nguyện thấu rõ kinh tạng. Kinh nằm
ngay trong sách chứ đâu, nhưng kinh cũng
nằm trong lòng và trong cuộc đời,
ngay trước mắt ”… “ Kinh nằm
trong sách ” vì, như Anh khẳng định,
“ không có ngôn ngữ thì không
có tư tưởng ” (Trên ghế
nhà
trường) ; muốn hiểu nó, phải tập
trung cao độ, có khi đến vỡ đầu,
phải bền bỉ, nếu không sẽ “ loạn
xà ngầu, tư tưởng không tìm
ra được manh mối, tối om như nhà
không đèn ” ; việc ấy được
gọi là Định.
Nhưng, Định
không có nghĩa là cố thủ trong
tư tưởng, nhất là trong ý định,
như Matisse vẽ cây : “ đầy
ắp
tình, đầy ắp cảnh, đầu ông
còn đầy ắp cái ý định
vẽ. Chưa vẽ mà đầu đã
bị đóng khung trong ý định, làm
sao bức tranh vọt ra ? Phải mở cửa cho
nó ! Phải làm trống cái đầu.
Cho nên Matisse chỉ vẽ được cây
khi không có ý định gì trước ”
(Vẽ cây, vẽ chim).
Nghĩa là, đến
một phút giây nào đó, phải
biết “ để cái thân
ngoài
cửa, như các người Hồi giáo
cất bỏ giày dép khi vào giáo
đường ”. Để “ trở
về
lại với cái đầu trống trơn,
cái đầu của đứa bé, cái
sơ tâm, cái đầu chưa hề bị
ảnh hưởng về bất cứ cái gì
khác. Viết một câu văn cũng vậy,
một câu thôi, không người cầm
bút nào nảy ra được một ý
hay, một từ mới, nếu không vứt bỏ
đi hết những gì đã đọc,
đã học ” (như trên).
Thật thế, “ hãy nhìn
quả táo
trong bức tranh của Cézanne : một chút
ánh sáng trên vỏ trái cây cũng
mang cả một linh hồn. Ngắm những quả
táo trong tranh, tưởng chừng như mình
mới thấy quả táo lần đầu !...
Cảnh đó vừa thực, vừa “ thực
hơn cả thực ”. Thực,
như quả
táo hàng ngày. Nhưng thực hơn cả
thực, vì quả táo bỗng có linh
hồn ”. “ Bởi
vậy, thơ hay thường
đặt “tuệ” vào
câu cuối,
dồn tất cả sức sống vào câu
cuối, tuồng như người đọc được
bài thơ dẫn tưởng tượng và
cảm giác phiêu du tận cùng non nước,
và khi đi đến chỗ không đi
được nữa thì cánh cửa bật
ra, cả một rừng hoa mai hiện ra trước
mắt ”… “ Tận
cùng của
“định” là
“tuệ”.
Giống như hoa mai nở
bừng. Giống như
câu cuối của một bài thơ hay ”
(Trên ghế nhà trường).
Câu văn
tuyệt diệu, nhưng có lẽ ta không
nên để mình cuốn theo nhịp điệu
mê hồn của… vô vàn những
câu như thế trong quyển sách, mà
không lưu ý đầy đủ đến
một dòng trong câu trích dẫn trên
kia : “ trở về lại với
cái đầu
trống trơn, cái đầu của đứa
bé, cái sơ tâm ”… “ Trở
về lại ” chứ đâu phải bắt
đầu và kết thúc bằng “ cái
đầu trống trơn ” ! Tôi không
thể ngăn mình nhớ đến một
câu hầu như tương tự trong Kinh
Thánh với lời bình của cụ
Hegel, một “ cái đầu ” thuộc
loại thượng thặng trong lịch sử
triết học : “ Sự hồn
nhiên vô
tội trẻ thơ đúng là cái gì
hấp dẫn và xúc động, nhưng
chỉ trong chừng mực nó gợi lại
cho ta nhớ đến những gì đã
phải được tạo ra bởi Tinh thần.
Sự hợp nhất ấy, mà ta có thể
nhìn thấy trong trẻ thơ như là sự
hợp nhất tự nhiên, phải là kết
quả của lao động và của sự
đào luyện của Tinh thần. Đức
Kitô bảo : … “ trừ khi các ngươi
hãy trở thành
như trẻ nhỏ”
… v.v… [Kinh
Thánh, Mathiơ 18:3] ; chứ
Ngài không hề bảo rằng
ta hãy
cứ phải mãi mãi là trẻ nhỏ ”
(Bách
khoa thư I, Nhà xuất bản Tri thức, 2008, tr. 123).
Vâng, “vấn đề” là ở
chỗ đó ! Tôi thường nghe câu
chuyện Thiền giữa một thiền sư và
một triết gia. Thiền sư rót trà
mời triết gia, cứ rót mãi khiến
trà tràn cả ra ngoài. Khi triết gia
giật mình thì thiền sư bảo : ông
cũng giống như tách trà ấy, đầy
quá không rót vào được
nữa ! Lời giáo huấn thật thâm
thuý, và, nếu tôi là vị triết
gia kia, ắt sẽ đứng dậy đãnh
lễ và thú nhận : quả là tôi
“bị kết án” phải mang theo mình
toàn bộ gánh nặng của “lao động
khái niệm và sự đào luyện
Tinh thần”. “Vứt bỏ hết những
gì đã đọc, đã học”
là một cách nói, bởi “tuyệt
thánh khí trí” là điều
bất khả thi, có chăng, chỉ xin được
chỉ giáo để chuyển hoá
chúng !
Trong vô vàn tình ý lắng đọng
trong quyển sách, tôi chỉ xin phép
nhặt ra một ý, vừa sức và vừa
ý với riêng mình : sự
chuyển
hoá. Chuyển hoá để gánh nặng
của bao gạo trên vai trở thành máu
thịt êm đềm nuôi dưỡng xác
thân. Chuyển hoá để “sống
trong xã hội, nhưng không dính tục
lụy của xã hội. Từ bỏ hệ
lụy, nhưng không từ bỏ xã hội.
Như hoa sen sống trong bùn, nhờ bùn,
nhưng không vướng bùn, chỉ thơm”
(A La Hán).
Chuyển hoá không hẳn là
thăng hoa, “vì thăng hoa cũng vẫn
còn là mình, vẫn là mình đó
thôi”. Khó hơn là quên mình.
“Nhưng bước đầu của việc
quên mình không khó, ai mới yêu
nhau đều biết, đều làm: vui với,
buồn với, khổ với. Biết sống với
chữ với,
tức là đi bước đầu
trong việc quên mình. Thói thường,
vui với
không khó, vì tiếng cười
vốn dễ chia sẻ ; khổ
với mới khó,
vì mấy ai chung được với nhau một
giọt nước mắt, nhất là một
giọt nước mắt thầm… Ai biết
khổ với
người khác, thì biết
yêu nhau là thế nào, khỏi cần
chữ nghĩa, triết lý ” (Đám
cưới).
“Sống với”, “khổ với”…
cũng là niềm thao thức khôn nguôi
của… bao thế hệ triết gia hiện
sinh bên trời Tây xa lắc ! Và cả
trên bình diện nhận thức nữa với
đầy rẫy những “chữ nghĩa,
triết lý”, chẳng hạn nơi
Heidegger, Gadamer với tư duy thông diễn học
hiện đại. Các tôn giáo đều
khuyên ta dẹp bỏ và ngăn ngừa “tà
kiến”. Hơn ở đâu hết, thế
kỷ Ánh sáng (còn gọi là phong
trào Khai minh) Tây phương phê phán
“định kiến”, vì nó là
trở lực cho tư duy khoa học khách quan,
lên án “quyền uy” vì nó
là kẻ thù của lý tính tự
do. Nhưng, Gadamer kêu gọi ta hãy thận
trọng, vì không khéo, bản thân
quan niệm ấy cũng trở thành một
“định kiến không kém quyền
uy” ! Ông đề nghị cần phân
biệt giữa “định kiến đúng
nhờ đó chúng ta hiểu,
với định
kiến sai,
khiến ta hiểu nhầm, ngộ kiến,
ngộ giải. Việc phân biệt ấy vẫn
phải dựa vào “nhận thức lý
tính”, cho dù “nhiệm vụ này
không bao giờ có thể hoàn thành
trọn vẹn”. Nhưng lý tính nói
ở đây không phải là một
“quan toà” đứng bồng bềnh
đâu đấy bên trên “thế
giới cuộc sống” mà là một
lý tính có chân đứng vững
chắc trong những bối cảnh lịch sử
và xã hội nhất định. Và
một lý tính như thế bao giờ cũng
là một lý tính hữu hạn. Phong
trào Khai minh có lý khi chống lại
“định kiến và quyền uy”, vì
“bao lâu quyền uy thế chỗ cho phán
đoán của chính ta, nó là nguồn
gốc của những định kiến”.
Nhưng, không nên vơ đũa cả nắm,
vì quyền uy vẫn có thể là một
“nguồn suối của sự thật”.
Bởi, theo ông, “một quyền uy đúng
nghĩa không có gì chung với việc
đòi phải vâng lời mù quáng ;
nó không sống bằng sự vâng lời
mà bằng nhận thức”
(Chân lý và
Phương pháp, tr. 284). Một quyền uy dựa
trên sự nhận thức thay vì sự
vâng lời là quyền uy hướng
đến
những căn cứ bằng những căn cứ
(“mit Gründen an Gründen”), nên ở
đây không có bạo lực trần
trụi, mà chỉ có “sự cưỡng
chế mềm của luận cứ tốt hơn”.
Việc thừa nhận một quyền uy như
thế là “biểu hiện của một
sự thức nhận”.
Nếu quả vậy
thì cần phải từ bỏ sự đối
lập cứng nhắc giữa “gánh nặng
truyền thống” và sự tự quyết
của lý tính tự do. Vâng, bản
thân các truyền thống cũng cần
được hiểu như là một mômen
của Tự do và Lịch sử. Chúng
không tự tồn mà do con người tiếp
thu, chuyển hoá và đổi mới. Vì
thế, Gadamer cho rằng ta vốn bao giờ cũng
đứng bên trong một truyền thống,
và “việc đứng ở trong đó
không phải là một lối hành xử
đối tượng hoá khiến cho những
gì truyền thống nhắn bảo với ta
cứ bị hiểu như là một cái
gì xa lạ”. Ông đề nghị :
thay vì lập trường “duy phương
pháp luận nhận thức” kiểu Cận
đại, ta hãy chọn cách “thay đổi
viễn tượng”, để nơi đó
có sự “hoà trộn giữa các
chân trời”. Khái niệm “chân
trời” ‒
được yêu thích từ
Nietzsche, Husserl cho đến Gadamer ‒ là
ẩn dụ
về tính hữu hạn, về sự ràng
buộc của tư duy trong một thế đứng
nhất định, nhưng đồng thời
chân trời cũng không cột chặt suy
tư của ta như một định mệnh.
Có một chân
trời cũng có nghĩa
là có thể mở rộng
chân trời
ấy. Hình ảnh đẹp về một
“chân trời di động” nói lên
tính cởi mở của đối thoại,
lòng hân hoan đón nhận những
cách nhìn khác, những không gian ý
nghĩa mới, để hôn phối quá
khứ với hiện tại, ta với người
khác, hữu hạn với vô cùng.
Khá quen với những cuộc tranh biện ác
liệt trong triết học, tôi bỗng thấy
thèm được trở về tắm gội
trong dòng nước trong trẻo, thanh tân,
có thể giúp mình mở rộng được
chân trời suy tưởng. Xin bạn đừng
mắc sai lầm của tôi khi đến với
Thấy
Phật bằng tư thế chuẩn bị
đương đầu với một cái gì
hóc búa (“Hard Fact” nói theo kiểu
Mỹ !). Tôi đọc được đâu
đó rằng nếu ta nhìn con đường
suy tưởng (hay con đường tu hành)
như một bãi chiến trường thì
chúng ta quả thực quá yếu đuối,
bạc nhược, thấp hèn, bởi sự
tiến bộ (hay tinh tấn) phải lệ thuộc
vào mức độ đất đai chinh phục
của mình và của người khác,
đâu còn gì là sự giải
phóng, sự tự do (hay sự giải thoát,
Niết bàn). Cũng xin đề nghị bạn
đừng “dại” như tôi khi đọc
quyển sách một cách vội vàng,
ham hố như nuốt trộng một món ăn
ngon, “ngưu ẩm” một cốc cam lồ.
Uổng lắm ! Hãy xem nó như một
chuỗi hạt, bắt đầu từ đâu
cũng được, với tất cả sự
an tĩnh và ung dung. Thêm cả sự vui vẻ
nữa, vì tác giả cũng là một
bậc thầy của sự hài hước,
một U mặc đại nhân theo nghĩa thâm
thuý của Ngài Chogyam Trungpa : “ cảm
thức về hài hước là sự
nhìn thấy hai đối cực của một
hoàn cảnh đúng y như thế, từ
một cái nhìn bay lượn ở trên
cao ” (Sense of humour
means seeing both poles of a situation as
they are, from an aerial point of view). Nhìn từ đôi
cánh chim ưng, nhưng không phải để
vồ chụp, ắt sẽ thấy mọi việc
nơi trần gian này đều đáng
cười, đáng thương và đáng
yêu biết mấy.
Sau cùng, một hình ảnh chắc chắn
sẽ còn đọng lại lâu dài
trong tâm cảnh của tôi khi đọc
xong quyển sách này là hình ảnh
của nước Bhutan : nhỏ, nghèo, nhưng
dám đề nghị cả thế giới hãy
lấy hạnh phúc làm thước đo
phát triển. Thay vì đo bằng GDP (Gross
Domestic Product / Tổng sản lượng quốc
nội), hãy đo bằng GNH (Gross National
Happiness / Tổng sản lượng hạnh phúc
quốc gia), dựa trên bốn tiêu chuẩn :
phát triển đồng đều trong xã
hội, bảo vệ môi trường, bảo
vệ và phát huy văn hoá truyền
thống, xây dựng một chính thể có
trách nhiệm. Hãy nghe anh Thuần bình
luận : “ Nếu muốn, Bhutan có thể
trở thành như bất cứ nước
nào trên thế giới, nhưng nếu
muốn, không nước nào có thể
trở thành Bhutan… Không vội vã,
nên họ tự do. Và tự do là hạnh
phúc. Hạnh phúc chỉ đến từ
bên trong. Cảm ơn Bhutan đã dám
sống độc đáo với sự thật
ấy ” (Thênh thang trên
xứ non cao). Cảm
ơn Anh Thuần đã cho ta biết về
Bhutan, và trên hết, về ước mơ
hạnh phúc, mục đích của mọi
mục đích.
Bùi Văn Nam Sơn
Phật Đản, 2009
Các thao tác trên Tài liệu