KỶ YẾU HUMBOLDT 200
Giới thiệu
KỶ
YẾU HUMBOLDT 200
Nguyễn Xuân Xanh
“Trong các quần thể sinh vật, và các cộng đồng đại học, đã xảy ra nhiều giai đoạn canh tân hay lai giống khi có những hình thái mới xuất hiện. Đối với đại học, một trong những giai đoạn này đã diễn ra ở thế kỷ thứ mười chín. Nó phần lớn do công lao của Wilhelm von Humboldt…Không phải chỉ nước Đức, mà toàn thế giới học thuật mang ơn ông.”
ERIC ASHBY
Nhà khoa học và giáo dục Anh
Wilhelm von Humboldt (1767-1835)
Giữa năm 2010 một số người Việt Nam quan tâm đến giáo dục đại học đã bàn bạc nhau và kêu gọi các nhà khoa học, nghiên cứu Việt Nam trong và ngoài nước cùng làm số Kỷ yếu Humboldt 200.
Vì sao việc này?
Vì Đại học Humboldt (Berlin, Đức) năm nay đúng 200 năm, 1810 – 2010. Đó là Bà Mẹ của đại học hiện đại thế giới. Nền đại học hiện đại thế giới, kể cả nền đại học Hoa Kỳ đều mang giòng máu này trong người. Nói đến đại học, cộng đồng học giả thế giới không thể không nghĩ đến cái tên Wilhelm von Humboldt (1767-1835) là nhà cải cách đại học và giáo dục Phổ, và những nguyên lý của ông đặt ra cho đại học Berlin được thành lập năm 1810 trong tinh thần khai phóng và khoa học. Đại học Berlin đã làm thay đổi toàn bộ khuôn mặt đại học Đức, góp phần quyết định đưa nước Đức lên vị trí cường quốc về kinh tế, quân sự và khoa học vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, mà còn ảnh hưởng lớn lao lên toàn bộ đại học thế giới. Đại học Berlin ra đời trong tình cảnh Phổ bị làm nhục khi bị quân đội Napoléon đánh sụp trong một ngày vào năm 1806. Đại học Berlin ra đời nhằm “lấy những sức mạnh tinh thần bù đắp những tổn thất về vật chất” như vua Phổ Friedrich Wilhelm III khẳng định. Thực tế, qua mô hình đại học Berlin, Humboldt đã đem lại cho quốc gia Phổ những sức mạnh tinh thần thần kỳ, để Phổ sau hơn nửa thế kỷ lột xác, và hơn thế nữa.
Diễn Đàn: Như một truyền thống, mỗi năm vào đầu Xuân, Diễn Đàn có vinh hạnh được giới thiệu một tác phẩm phổ biến tri thức quan trọng; đó là các cuốn kỷ yếu Darwin, Thiên Văn, Max Plank, Hoàng Tuỵ, Đặng Đình Áng; năm nay Kỷ Yếu Humboldt 200, kỷ niệm 200 ngày thành lập đại học Humboldt, sắp được xuất bản. Để quảng bá tới bạn đọc Diễn Đàn và mong các bạn tìm mua đọc cuốn Kỷ Yếu này trong tương lai gần, chúng tôi xin đăng bài giới thiệu của anh Nguyễn Xuân Xanh, trong ban chủ biên của Kỷ Yếu Humboldt 200 cũng như của tất cả các cuốn kỷ yếu vinh danh các nhà khoa học giáo dục Việt Nam và thế giới, các bộ môn khoa học... đã ra đời từ năm năm nay.
Đồng thời cũng trong Giai Phẩm Xuân Tân Mão này, chúng tôi được phép đăng lại một vài bài đóng góp cho Kỷ Yếu Humboldt 200 từ những cộng tác viên quen thuộc của Diễn Đàn. Xin cảm ơn các anh Nguyễn Xuân Xanh, Trần Hữu Dũng, Trịnh Văn Thảo, Phạm Xuân Yêm và Nguyễn Quang Riệu về sự ưu ái này; xin bạn đọc coi đây như những lời mời gọi suy tư, không có tính cách đại diện cho tập thể đa dạng và nhiều uy tín của trên 40 tác giả tham gia vào Kỷ Yếu.
Đại học Berlin là đại học khai sáng theo tinh thần Immanuel Kant hòa lẫn tinh thần nhân văn của chủ nghĩa (tân) nhân văn Đức được đại diện bởi các đại văn hào như Goethe, Schiller, cùng với chủ nghĩa duy tâm của các nhà triết học Đức như Fichte, Schelling, Hegel. Đó là đại học của khoa học, của nghiên cứu, của sự kết hợp giảng dạy và nghiên cứu, của tự do giảng dạy (Lehrfreiheit) và tự do học (Lernfreiheit), mà mục đích tối thượng là đi tìm chân lý mà không có sự can thiệp của nhà nước. Nó nhằm phát triển con người một cách toàn diện, phát triển khoa học là “cái mà mãi mãi phải đi tìm” như Humboldt quan niệm về chân lý. Sự chuẩn bị phải được bắt đầu ngay từ nhà trường, để “bước chuyển từ trường học sang đại học là một chương trong cuộc đời của một người trẻ mà ở đó, …có thể tự đứng vững được trong tự do và tự-hành động,…và khi thoát khỏi sự kềm chế, người sinh viên không trở thành kẻ lãng du, hoặc chuyển sang cách sống thực dụng, mà sẽ mang trong mình một niềm mong ước vươn lên trong khoa học, cái mà cho đến lúc đó có thể nói hầu như chỉ mới được gợi ra cho anh ta từ xa thôi”.
Đại học trở thành thể chế cho khoa học và nghiên cứu. Tính khoa học được đưa lên thành tiêu chuẩn hàng đầu cho tất cả mọi ngành học, cũng như được lấy làm nòng cốt cho giáo dục. Đại học là trung tâm văn hóa quốc gia: “Ý tưởng về các thể chế khoa học cao như là đỉnh cao, mà ở đó tất cả những gì đã diễn ra trực tiếp cho nền văn hóa quốc gia được hội tụ lại, dựa lên sứ mệnh được trao cho các thể chế là vun bồi khoa học theo nghĩa sâu rộng nhất của nó.” Sự kết hợp giữa nghiên cứu và giảng dạy đã làm một cuộc tiếp xúc và chuyển lửa mạnh mẽ cho các thế hệ trong nghiên cứu, đó chính là một “cái máy” sản xuất nhân tài. “Ở Đức, các đại học chính xác là các hội đoàn của các học giả cống hiến cuộc đời họ cho việc vun xới khoa học, và cho hướng (phát triển) của giáo dục hàn lâm. Họ xây những thể chế cho văn hóa cao của con người trong đó khoa thần học không còn tầm quan trọng hay sự lỗi lạc gì hơn phần thế giới còn lại; và những cái đó mới thật là ‘đại học’, bởi vì chúng nỗ lực đại diện và hiện thân cho toàn thể tri thức con người, và nỗ lực đi tìm không gian cho tất cả các hình thái của hoạt động trí thức”, như Thomas Huxley đã nhận định năm 1868.
Đã hai trăm năm rồi mà vị chủ tịch Đại học Stanford của Hoa Kỳ, G. Casper, trong bài phát biểu trước Đại học Bắc Kinh năm 1998 để kỷ niệm 100 năm đại học này vẫn còn khen ngợi rằng văn kiện về triết lý của Đại học Humboldt “Về Tinh thần và Hình thức tổ chức của các Thể chế khoa học cao ở Berlin”, “có lẽ chứa đựng những ý nghĩ súc tích nhất chưa hề được viết về đại học như một thể chế. Các ý nghĩ này không hề mất đi tầm quan trọng của chúng, mặc cho các thay đổi trong khái niệm tính uyên bác và trong những vấn đề mà các đại học đã trải nghiệm hơn hai thế kỷ qua.”
Các nguyên lý đại học Berlin đã ảnh hưởng sâu rộng lên đại học toàn thế giới mà đại học Đức là một sự tự minh chứng thuyết phục, là một “Mecca” cho các quốc gia khác đến chiêm ngưỡng và tham khảo. Những nhà giáo dục khai phá của đại học Hoa Kỳ đều đã học tại Đức. Tappan của Đại học Michigan, Eliot của Harvard, White của Cornell, Gilman của Johns Hopkins, tất cả họ đều “uống cùng giòng suối hàn lâm” của Đức. Từ 1860 đến 1914 hàng ngàn sinh viên của Anh và cả Hoa Kỳ đi hành hương đến các đại học Đức (Robert Oppenheimer là một thí dụ nổi tiếng). Họ đã đưa chương trình giáo dục đại học với tinh thần giáo dục bằng khoa học và uyên bác. Đại học Johns Hopkins vào thời điểm thành lập năm 1876 có nhiều giáo sư được đào tạo tại Đức đến nỗi người ta gọi đó là “Göttingen tại Baltimore”.
Đại học Hoa Kỳ giống như người được trao ngọn đuốc của đại học Humboldt để thắp sáng bên kia bờ Đại Tây Dương. Khi Đại học Humboldt lên đến đỉnh cao của tên tuổi vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thì nó cũng bắt đầu suy thoái do sự phát triển nội tại, một số học giả Đức lúc đó như Max Weber đã nhìn thấy ở nền đại học Hoa Kỳ đang lên một người kế thừa của đại học Đức. Và sau giai đoạn thống trị của quốc xã những năm 30, 40 và thế chiến thứ hai thiêu hủy nền đại học châu Âu, đại học Humboldt tìm thấy một quê hương mới: Hoa Kỳ. Và thực tế người Mỹ đã làm được điều kỳ diệu mà thế giới phải ngưỡng mộ không kém như đã từng ngưỡng mộ đại học Đức 100 năm trước đó. Trong nhiều điểm, đại học Hoa Kỳ có tính chất Humboldt hơn cả đại học Đức.
Để phát triển lên thành một nền đại học vĩ đại của thế kỷ 20, đại học Hoa Kỳ đã trải qua hai sự biến đổi quan trọng trong lịch sử. Biến đổi thứ nhất diễn ra vào phần ba cuối của thế kỳ 19 bằng đạo luật giao đất “Morrill Act” năm 1862, và bằng tinh thần đại học Đức. Đại học Hoa Kỳ bắt đầu trở thành đại học nghiên cứu theo mô hình của Đức. Hai yếu tố, tinh thần trí thức Đức, được đại diện bởi nền đại học Đức, và chủ nghĩa dân túy (populism) Hoa Kỳ, đã kết hợp nhau để làm thành tinh thần đại học đặc trưng của nước này, và là bước chuẩn bị cơ sở quy mô nhất cho cuộc Biến đổi thứ hai sẽ diễn ra sau thế chiến thứ II để đưa nền đại học nước này lên vị trí cao nhất đến hôm nay.
Người Mỹ rất tự hào đã tạo một nền đại học tinh hoa rất bản sắc của họ theo công thức: “Đại học cử nhân phải là Đại học Oxford (nhân văn), Đại học cao học phải là Đại học Đức (nghiên cứu), Đại học của sự phục vụ phải là Đại học Hoa Kỳ!” (Jonathan R. Cole). Đại học Hoa Kỳ đã phát triển lên thành “Đa đại học”, Multiversity, lên thành phố của tri thức, với qui mô chưa từng có, vừa có tính chất tinh hoa của Humboldt vừa có tính chất đại chúng đặc trưng của Mỹ. “Đại học lớn phải là đại học tinh hoa – tinh hoa của giá trị – nhưng nó hoạt động trong một môi trường phục vụ cho một triết lý bình đẳng” (Clark Kerr). Thật là “kiểu Mỹ”.
Ý nghĩa nào chúng tôi làm việc này?
Giáo dục đại học Việt Nam cho đến nay là giáo dục chưa có nền tảng triết lý, ý thức lịch sử, và còn xa với sứ mạng và những giá trị nhân văn mà đại học đem lại cho xã hội trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mô hình đại học Humboldt và các nguyên lý đại học của ông mà thế giới đã áp dụng hai trăm năm qua hầu như ít được phổ biến ở đây. Các nguyên lý của đại học Humboldt đã du nhập vào Việt Nam trên nửa thế kỷ, nhưng đến nay vẫn chưa có vị trí xứng đáng, nếu không nói là còn rất lu mờ. Nghiên cứu, học thuật chưa phải là đầu tàu của đại học. Việt Nam cũng chưa có một tạp chí giáo dục đại học tương xứng để làm diễn đàn trung thực cho trí thức về những vấn đề giáo dục đại học. Tất cả cho thấy, Việt Nam chưa có văn hóa giáo dục đại học.
Nền đại học Việt Nam hiện nay đang xuống cấp so với khu vực một cách “bất bình thường” và khó hiểu. Bao nhiêu nỗ lực anh dũng của các nhà khoa học Việt Nam của thế hệ trước chỉ đủ để góp phần xây dựng một nền móng giáo dục trung bình làm bệ phóng, nay đang bị xói mòn, chứ chưa đủ để làm cho nền đại học và khoa học VN thăng hoa. Một Ngô Bảo Châu chỉ hưởng được sự đào tạo chăm sóc tận tình của những người thầy được đào tạo từ nền đại học được khai phá nói trên, nhưng không thăng hoa được trên đất nước mình, mà phải thăng hoa được ở một quốc gia khác. Việt Nam chưa sản xuất được những tài năng thăng hoa “home-made”. Các nhà khoa học Việt Nam trong và ngoài nước đã rất bức xúc từ vài thập niên qua về tình trạng suy thoái của đại học VN. Có cái gì không ổn giữa tiềm năng trí tuệ và hiện thực đại học Việt Nam. Thiếu định hướng, thiếu mạnh dạn, quyết tâm, thiếu ý thức về sứ mạng và sức mạnh của đại học như chìa khóa trong việc canh tân đất nước, thiếu hiểu biết tổ chức một đại học nghiên cứu hiện đại, thiếu những đòn bẩy như một chế độ trọng đãi nhân tài, một bộ máy hành chánh quá nặng nề, nhiều tiêu cực ngõ ngách, quyền lợi cục bộ lấn át quyền lợi quốc gia, sự bỏ mặc từ phía những người trách nhiệm cao nhất, quản lý đại học thiếu tinh thần khai sáng, và óc khoa học, đó có lẽ là những cái đã ngăn chặn sự phát triển đại học Việt Nam mấy thập niên qua. “Chỉ có ai mang trong mình ý tưởng đại học, người đó mới có thể tư duy và hành động đúng theo sự việc cho đại học” (Karl Jaspers). Ai là những người như thế?
Qua số kỷ yếu này, chúng tôi muốn nói về Đại học hiện đại Humboldt, các nguyên lý của nó, sự ra đời và khung cảnh lịch sử hết sức ý nghĩa của nó, để hiểu nhiều hơn sức mạnh và nguồn cảm hứng của nó có thể truyền đi xa, về ảnh hưởng lớn lao của nó lên đại học thế giới, đặc biệt lên đại học Hoa Kỳ, và về hệ thống đại học hàng đầu này, tìm hiểu sứ mệnh và đóng góp xã hội của đại học, cũng như sẽ đề cập những khó khăn của nền đại học thế giới hiện nay, và những vấn đề đại học VN, những gì trong khả năng chúng tôi trong số kỷ yếu, trong một thời gian rất hạn chế có thể làm được.
Kỷ yếu có một Ban chủ biên giàu nhiệt tình muốn thể hiện đề tài rất có ý nghĩa này cho Việt Nam: Ngô Bảo Châu (Chicago), Pierre Darriulat (Hà nội), Cao Huy Thuần (Paris), Hoàng Tụy (Hà nội), Nguyễn Xuân Xanh (HCM), Phạm Xuân Yêm (Paris), và một Ban tư vấn gồm Bùi Trân Phượng, Chu Hảo, Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Minh Thọ, Trương Văn Tân, Trịnh Xuân Thuận, Vũ Quang Việt, chỉ kể ra vài trong số 13 nhà khoa học, học giả VN.
Kỷ yếu được đông đảo nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia như Ngô Bảo Châu, Cao Huy Thuần, Pierre Darriulat, Hoàng Tụy, Phạm Xuân Yêm, Bùi Văn Nam Sơn, Lâm Quang Thiệp, Nguyễn Văn Hiệu, Lê Xuân Khoa, Nguyễn Quang Riệu, Trịnh Văn Thảo, Nguyễn Văn Tuấn, Trần Hữu Dũng, Nguyễn Minh Thọ, Trần Nam Bình, Nguyễn Đức Hiệp, Huỳnh Như Phương… trong hơn 40 tên tuổi tham gia kỷ yếu. Ngoài ra chúng tôi được một số học giả nước ngoài như Richard C. Levin (Yale), Gerhard Casper (Stanford), Philip G. Altbach (Boston), Qiang Zha (York, Toronto), Shing-Tung Yau (“Hoàng đế toán học” của Harvard) … tham gia với một sự quan tâm lớn bằng cách cho phép chúng tôi đăng lại bằng tiếng Việt những các bài viết còn rất mới và rất có giá trị nhận thức của họ liên quan đến những đề tài đại học thế kỷ 21, đại học châu Á, tình hình giáo dục tại các quốc gia đang phát triển, hay vấn đế tự do hàn lâm tại Trung Quốc.
Nhiều tư liệu lịch sử quan trọng khác được dịch ra lần đầu tiên về lịch sử Đại học Humboldt, đặc biệt tư liệu “Về Tinh thần và Hình thức tổ chức của các Thể chế khoa học cao ở Berlin” của Humboldt vừa nói trên.
Chúng tôi hy vọng số kỷ yếu này sẽ vẽ lại được phần nào bức tranh đại học thế giới, bắt đầu từ thời Trung cổ là khởi điểm cho đến nay, với những sứ mệnh đặc biệt và triết lý của nó. Đại học là một trong ít các định chế tồn tại lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại, không những không tàn lụi đi mà ngày càng phát triển. “Các vua chúa trị vì, các lãnh chúa phong kiến với chư hầu, và các phường hội ngành nghề độc quyền, tất cả đều biến mất. Nhưng bảy mươi đại học này (của châu Âu đầu thế kỷ 16) vẫn còn hiện hữu tại vị trí cũ của chúng, với một số tòa nhà như trước đây, với giáo sư và sinh viên làm những việc cũng như vậy, và với sự quản trị được tiếp tục với những cách thức rất giống như thế” như Clark Kerr, học giả nổi tiếng Hoa Kỳ về giáo dục đại học, nhận xét. Có đất nước phát triển nào mà không có các đại học phát triển để cung cấp tri thức và đào tạo trí thức cho chính quyền, nền công nghiệp và xã hội? Có thể quan niệm được cuộc Cách mạng Khoa học thế kỷ 17 ở châu Âu mà không có các đại học trung cổ dấn thân cho khoa học, học thuật, tự do tư duy, truyền bá tri thức, và đào tạo nhân sự đã hình thành từ thế kỷ 11, 12 chăng? Bộ mặt văn minh của nhân loại và sự phồn vinh hôm nay có thể quan niệm được chăng nếu không có các đại học hiện đại được xây dựng trên khắp thế giới, xuất phát từ cái nôi châu Âu, lan tỏa sang Hoa Kỳ, Nhật Bản, đặc biệt vào thế kỷ 19 và 20 trong lãnh vực khoa học và công nghệ? Ngoài ra kỷ yếu cũng dành một phần sự quan tâm cho sự phát triển đại học, công nghệ của Trung Quốc, một quốc gia đang muốn trở thành “sao” trên bầu trời khoa học và học thuật, và đang có những nỗ lực vô cùng to lớn để vươn xa. Sự hiểu biết là một liều thuốc bổ. Ngược lại, mọi sự thờ ơ đều phải trả giá.
Chắc chắn chúng tôi chưa nói được hết các mặt liên quan đến đại học, một lãnh vực vô cùng rộng và bổ ích, nhưng chúng tôi hy vọng với sự đóng góp phong phú và tâm huyết, chúng ta có một số kỷ yếu rất đặc biệt có hàm lượng tri thức căn bản về đại học thế giới xưa và nay để làm một điểm xuất phát cho tương lai. Còn rất nhiều vấn đề cần phải nói để vươn tới một nền văn hóa đại học Việt Nam trong tinh thần khai sáng.
Chúng tôi rất mong được các bạn đọc gần xa, trong và ngoài nước đón nhận và ủng hộ. Sách sẽ được xuất bản sau dịp Tết Tân Mão bởi nhà xuất bản Tri Thức.
Nguyễn Xuân Xanh
Các thao tác trên Tài liệu