Vink
Vink
Đặng Tiến
Tại những nước tiên tiến trên thế giới, loại sách báo Tranh truyện, hoạt hình, hoạt họa đang phổ biến mạnh : các hình thức manga của Nhật, strip ở các nước Anh, Mỹ… Tại Âu Châu, Bỉ và Pháp là cái nôi của thể loại này, tên gọi tắt và thông dụng là BD, do chữ Bandes Dessinées.
Những
tiến bộ kỹ thuật về in ấn, trong
đời sống xã hội được
nâng cao, các quan niệm văn học nghệ
thuật được khai phóng, ngành
tranh truyện phát triển mạnh, không
còn bị miệt thị, xem như là một
nghệ thuật thứ cấp – art mineur –
mà là một mỹ thuật toàn diện,
được xếp vào hàng « nghệ
thuật thứ chín ». Trong các
hiệu sách, các thư viện, có
quầy riêng dành cho BD, lại có những
hiệu sách chuyên bán BD. Có người
sưu tầm BD như sưu tập sách quý.
Thường niên nhiều nơi tổ chức
Festival BD, ở Pháp thường tổ chức
tại Angoulême. Đây là cơ hội
cho các tác giả gặp gỡ người
ái mộ và ký sách lưu niệm ;
đồng thời cũng là một thị
trường BD quốc tế lớn. Các đạo
sư văn nghệ cũng ghé mắt và
đóng góp nhiều lý thuyết về
BD.
Giữa thời sự sôi nổi của ngành nghệ thuật mới, từ vài ba mươi ba năm nay tại Âu Châu bỗng nổi lên một tên tuổi lạ : Vink, là viết tắt tên một tác giả Việt Nam, Vĩnh Khoa, sống tại Bỉ từ 1969, thời sinh viên du học. Đến nay anh đã có đến non 20 đầu sách do nhà xuất bản thời danh Dargaud ấn hành.
Vĩnh Khoa sinh tại Đà Nẵng 1950 trong một gia đình khá giả, có truyền thống văn nghệ nhất là bên họ ngoại : cậu ruột của Khoa là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, nhà thơ Phạm Hổ, nhà văn Phạm văn Ký (Giải thưởng tiểu thuyết Hàn lâm viện Pháp quốc 1961).
Vẽ
hoạt hình không phải chỉ cần có
« hoa tay » mà còn phải vận
dụng vốn kiến thức, tư duy và
tưởng tượng sâu sắc. Thậm chí
chỉ « xem » truyện hoạt họa
thôi, cũng đòi hỏi một « văn
hóa » đặc biệt : thói
quen vừa nhìn thấy, đã nhận ra
và lãnh hội. Có nhiều đề
tài trẻ con hiểu nhanh hơn người
lớn.
Đến Liège 1969, Vink đã bắt đầu cử nghiệp bài bản : học thử y khoa, rồi tốt nghiệp sư phạm. Đến 1975 mới vào Viện Mỹ thuật học ngành minh họa, đồ họa sách giáo khoa. Anh bắt đầu quan tâm đến hoạt họa, vẽ cho các báo Tintin, Charlie ; « Cuộc Phiêu lưu của nàng He Pao » đã khởi sự trên nguyệt san Charlie này dưới đề tài Nhà Sư Điên, le Moine fou, do nhà xuất bản Dargaud in lần đầu 1984, và hiện nay còn đang diễn tiến dưới tên He Pao Du ký, Les Voyages de He Pao, 2010. Trước đó Vink đã kể chuyện cổ tích Việt Nam qua truyện tranh Sau lũy tre (Derrière la haie de Bambou) nhà xuất bản Lombard 1983.
Toàn
bộ tranh truyện của Vink hấp dẫn người
đọc không phải do cốt truyện ly kỳ
mà vì không khí đông phương
độc đáo, qua nét vẽ công
phu và tài hoa và màu sắc phong
phú, càng ngày càng già dặn.
Và những chủ đề địa phương :
các nhà sư, đi tìm dược
thảo, luyện võ công, tình nhân
loại, bằng hữu. Tình yêu nam nữ
nếu có cũng là thoáng qua.
Chuyện xảy ra thời Trung cổ tại Trung Quốc, Triều Tiên, Tây tạng, cuối cùng sang đến Trung Đông. Vì thế nhân dạng nói chung là người Châu Á, trừ nhân vật chính là cô nàng He Pao (Hà Bảo ?). Cô là người gốc Ý, theo thuyền buôn của cha mẹ ; thuyền đắm, cha mẹ chết trên một dòng sông Trung Quốc. Cô được một gia đình nghèo cứu vớt và nuôi như một đứa con trai. Sau đó, cha mẹ nuôi qua đời trong hỏa hoạn, He Pao trôi dạt đó đây từ nước này sang nước khác, từ Viễn Đông trở về phương Tây, ngược con đường Tơ Lụa mà bố mẹ cô đã lần theo. Thiếu thời He Pao được các sư cô cưu mang, dạy dỗ theo tinh thần nhà chùa, và trưởng thành trong tư tưởng cứu nhân độ thế. Cốt chuyện kết nối có phần rời rạc, dường như dần dần qua 25 năm mới rõ nét trong trí tưởng tác giả.
Về
hình họa cũng vậy : Cô He Pao lúc
đầu, 1984, ít nét Tây phương,
dần dần khuôn mặt, cơ thể, cử
chỉ mới thêm nét phụ nữ Âu
tây, cho dù cung cách vẫn còn phảng
phất vẻ Á Đông.
Báo phương Tây có lần hỏi Vink : sao trong chuyện Á Đông, nhân vật chính trở đi trở lại là một phụ nữ Tây phương ; họa sĩ đã trả lời ngược lại : tại sao không ?
Cũng còn cách giải đáp khác : sách nhằm vào độc giả phương Tây, họ cần nhận ra mình qua một nhân dạng quen thuộc, để tiếp tục mua sách. Ngoài ra người vợ tao khang của Vink là người Bỉ, cũng là họa sĩ tài hoa (bút danh Cine), giúp chồng tích cực trong nhiều công đoạn sáng tác. Và lúc đầu Claudine đã làm người mẫu cho chồng ghi lại nhân diện, cử chỉ, lâu ngày hóa thân, phần nào đó, qua nhân vật He Pao.
Nhưng động cơ chính vẫn là lập trường nghệ thuật của họa sĩ : tại sao không ? Trong tâm thức sâu thẳm của Vink, văn hóa là giao thoa, sáng tạo là giao lưu. Cô He Pao người Ý, ngao du trong phong cảnh Á Đông, thì khác gì họa sĩ Vĩnh Khoa người Việt lang thang giữa đường phố Bỉ ? rồi tại sao độc giả Tây lại phải bỏ tiền mua sách của một người Việt kể chuyện châu Á qua nét vẽ Đông phương ? Trong bản thân nó, nghệ thuật là tổng hòa nghịch cảnh và nghịch lý. Vẽ là hòa giải dị biệt.
Độc
giả Việt xem truyện bằng tranh của Vink
lại được hưởng một niềm
vui riêng, là gặp lại quê hương
qua nhiều phong cảnh : những bóng cây
xanh ngát, con thuyền với dòng sông
không nhầm lẫn được. Và
những nét mặt buồn vui, lo âu, khắc
khổ, hoảng hốt của những bà
mẹ, người chị, cô em. Cảnh
khói lửa nơi nào, thời nào cũng
có, nhưng trong tầm nhìn và tâm
thức Việt Nam thì những nét vẽ
kia còn bới xới lại bao nhiêu tro than
chưa kịp nguội lạnh – mà tác
giả không hờ hững. Hình bóng He Pao trước cảnh mênh mông trời
biển chiều hôm, trông vời cố
quận, là chân dung của chính tác
giả, hay là của một Thúy Kiều,
xưa kia, đâu đó, đâu đây,
trước lầu Ngưng Bích.
Nói
lên được điều này, một
mặt tôi dựa vào hiểu biết của
mình về Vink, mặt khác viết theo
trang cuối truyện hình mới nhất « Du
Ký He Pao ». Các nhân vật
của Vink gặp nhau tại Đất Thánh,
Terre Sainte, miền Trung Đông. Một người
nâng cốc :
– Mừng anh em về lại quê xưa.
Bạn khác đáp lời :
– Đất Thánh của tôi là nơi tôi chôn nhau cắt rốn.
Người khác dứt lời :
– Mỗi người một Thánh địa riêng.
Đó là những lời cuối, tâm sự giữa những người xa xứ.
Vào một chiều chờ Tết tha hương.
Đặng Tiến
Orleans, Tết dưong lịch.
Xuân Tân Mão 2011
Các thao tác trên Tài liệu