Nguyễn Văn Liên (1914-2020)
Tin buồn
Nguyễn
Văn Liên
(1914-2020)
Chúng tôi được tin ông Nguyễn Văn Liên, cựu công binh, đã từ trần tại Vitry-sur-Seine (94) ngày 10 tháng 8 năm 2020, thọ 106 tuổi.
Lễ tang đã cử hành ngày 14.8.2020 tại nghĩa trang Kremlin-Bicêtre.
Xin thành thực chia buồn với con gái
Annie-Flore Nguyen Kazem-Bakhshi, con trai Jean-Michel Nguyen và toàn
thể tang quyến.
Ông
Nguyễn Văn Liên có lẽ là người cuối cùng còn sống trong nhóm những
người Việt Nam thuộc xu hướng trôt-kit tại Pháp, đồng chí của các ông
Đặng Văn Long, Hoàng Khoa Khôi, Nguyễn Khánh Hội.
Thời
giờ và phương tiện hạn chế, chúng tôi không tìm lại được cuốn hồi ký và
những bài viết của ông. Dưới đây, xin trích lại lời kể của ông trong
cuộc phỏng vấn năm 2003, đăng trên trang mạng onsvietnam
:
Lính thợ VN đi Pháp đều bị bắt. Về phần tôi, tôi không bị bắt, nhưng
bị cưỡng bách từ tháng tám 1939. Gia đình tôi có 4 anh em trai, Hội
đồng xã đến nhà cưỡng bách bố tôi phải cử một đứa con trai đi
lính thợ, tôi là con thứ hai, đã có vợ và có con trai, tôi bị bố tôi
cắt cử, tôi không có lý do từ chối ý định của bố tôi, bởi vì nếu bố tôi
không giàn xếp được thì họ sẽ dùng sức mạnh đến bắt buộc và cũng sẽ bắt
tôi chứ không ai khác. Còn 24 bạn đồng đội ở xã tôi thì bị bắt. Ban đêm
lúc họ đang ngủ say, tuần đinh ập vào nhà bắt trói đem tới đình trung
giam giữ rồi ngày mai bị áp giải lên huyện như giải tù. Trong số đó có
hai người là con một. Điều đó chứng tỏ ra rằng bọn lý hào không cần đến
pháp luật, chúng được chính quyền bản xứ che chở, và chính quyền thuộc
địa làm ngơ. Ngày 18 tháng tám 1939 tuyển lính ở huyện, tuyển
chọn xong lính mới tập hợp ở Thanh Hóa. Ở Thanh Hóa
hai tháng không có tàu thủy, lính thợ được phép trở về gia
đình đợi khi có tàu thủy sẽ bị gọi trở lại. Ngày 11 tháng 12 năm 1939
họ bị gọi trở lại Thanh Hóa rồi ngày 12 tháng 12 năm 1939 đi Đà Nẵng.
Ngày 16 tháng 12 xuống tàu thủy. Chiếc Yalou khổng lồ và già nua chở
2.000 lính thợ đi Pháp. Ngày 22 tháng 1 năm 1940 tới Marseille, ở lại
Marseille một tuần lễ rồi lính thợ được chia thành cơ, ngũ và di chuyển
đi các nơi làm việc. Tôi thuộc cơ 18 đi Bergerac làm thuốc súng. Mấy
ngày sau khi tới Bergerac, một hôm ông quản cơ 18 vào thăm trại
ngũ, khi đó anh Sếp groupe Nguyễn Sinh Sắc vắng mặt (....)
Tôi thuật lại môt quảng đời dĩ vãng của tôi, sau khi thôi học. Sau 15 phút vấn đáp ông (quản cơ) trở lại phòng giấy, hôm sau ông cho gọi tôi đến phòng giấy rồi bảo rằng: từ hôm nay, anh được bổ nhiệm giám thị thông ngôn, trách nhiệm một nhóm đi làm thuốc súng khởi đầu từ ngày mai.
(...)
Riêng ở Bergerac, lính thợ phải cưỡng bách làm thuốc súng cho Đức. Từ nửa cuối năm 1940 đến quí ba năm 1944 là thời kỳ đen tối của đoàn thể lính thợ, những viên chức của sở MOI và viên chức của lính thợ, thông ngôn, giám thị tự do bóc lột và đàn áp quần chúng. Chúng ăn cắp lương thực và quần áo của anh em lính thợ đem bán chợ đen, chúng xem như là hành động tự nhiên, không ai dám phản đối. Lính thợ vì đói rét và làm việc quá sức, đến năm 1946, số người chết trong anh em lính thợ lên đến một phần mười tổng số, vì tai nạn, đói rét, bom đạn và nhất là bệnh tật . Trong thời kỳ đen tối đó, sở MOI luợm lặt được một số lợi nhuận trên mồ hôi nước mắt của anh em lính thợ là 677 triệu frs, khi đó phần ăn giảm sút gần tới nạn đói. Sở MOI ra lệnh cho quỹ Đồng bạc Đông Dương giữ lại một phần tiền lương bỏ vào sổ tieết kiệp. Chúng tôi không được biết rõ sổ tiết kiệm đó vận hành ra sao chỉ biết khi đó số tiền tiết kiệm của lính thợ lến tới 21 triệu frs, để ở Địa ốc Ngân hàng Hà Nội mà sở MOI là chủ nhân độc nhất.
Mặc dầu lính thợ được xem là lao động
nặng nhọc, phần ăn được bồi dưỡng hơn nhân dân
thành thị nhưng chỉ là văn bản viết trên giấy.
Trong thực tế thì ngược lại. Người ta
thấy họ húp bát cháo loãng lênh đênh vài
miếng thịt dai như cao su, vài miếng cà rốt, cải
bắp. Người ta thấy họ ăn mặc rách rưới tả tơi, đi giầy há miệng,
gót giầy mòn tới gót chân, lại có cả trường hợp đi chân đất trong khi
đẵn củi trên núi cao, hay làm việc trên ruộng muối…
Nhà ở phần nhiều chật hẹp, thiếu
không khí và không đủ suởi ấm. Tệ hơn nữa là trong khi các tiểu đoàn
lính thợ đi làm việc cho chủ tư
ở thôn quê hoặc miền rừng núi, người ta dọn dẹp chuồng bò
làm phòng ngủ, rải rơm trên nền xi măng rồi nằm
sát vào nhau kiếm chút hơi ấm. Chính tôi
cùng với nhóm của tôi đã ngủ trong chuồng
bò trải rơm, trên miền núi cao Mont Bazillac trong mùa thu 1941.
Chuồng bò vừa là phòng ngủ
vừa là phòng ăn của chúng tôi, thảm cảnh này
chẳng phải là đặc biệt, có hàng mấy
chục trường hợp như vậy. Còn khủng khiép hơn nữa là tiểu đoàn
lính thợ làm việc trong nhà máy dệt ở Arđèche, họ ngủ trong
ngôi nhà siêu vẹo dưới chân núi, không có sưởi
ấm. Một hôm có cơn giông lớn, ngôi nhà đổ sập, có 7 lính thợ chết vùi
trong đống gạch đá! Nhưng còn hai cảnh thương tâm khác đập vào mắt mọi
người là chế độ lao tù và ngành y tế của sở MOI.
Các thao tác trên Tài liệu