Đọc Thơ Nguyễn Trãi
Đọc Thơ Nguyễn Trãi
Đề Yên Tử Sơn, Hoa Yên Tự
Phạm Thảo Nguyên
Ngày xuân chúng ta hãy theo Nguyễn Trãi lên núi thiêng Yên Tử lễ chùa Hoa Yên:
Chùa Hoa Yên
題安子山花煙寺
安山山上最高峰,
纔五更初日正紅。
宇宙眼窮滄海外,
笑談人在碧雲中。
擁門玉槊森千畝,
掛石珠流落半空。
仁廟當年遺跡在,
白毫光裏睹重瞳。
Yên sơn sơn thượng tối
cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính
hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương
hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích
vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm
thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán
không
Nhân miếu đương niên di
tích tại
Bạch hào quang lý đổ
trùng đồng
Chùa Hoa Yên, Núi Yên Tử
Trên đỉnh núi Yên cao tót
vời
Canh năm vừa tới, trời hồng
tươi
Mắt nhìn vũ trụ ngoài tầm
biển
Người đứng giữa mây
nói nói cười
Bọc cửa măng nhô nghìn mẫu
trúc
Đá treo châu chảy nửa lưng
trời
Nhân Tôn di miếu còn ngay đó
Trong ánh hào quang mắt Bụt
ngời
Bình chú:
Khi được đọc bài thơ này của Nguyễn Trãi, câu thơ thứ tư đã thu hút tôi lạ lùng:
Tiếu
đàm nhân tại bích vân trung.
(Nói
cười người ở trong đám mây
xanh)
Một câu thơ ung dung tự tại, thanh thoát, chữ dùng rất giản dị nhẹ nhàng, mà sao ta thấy chan hoà một tư cách cao vòi vọi của người thơ. Và bài thơ dịch chỉ viết xong khi tôi tạm bằng lòng câu:
Người đứng giữa mây nói nói cười.
Nhưng thật ra để nói lên tâm tình Nguyễn Trãi, thì phải có đủ cả hai câu 3, 4:
Mắt nhìn vũ trụ ngoài tầm
biển
Người đứng giữa mây nói
nói cười.
Không phải là vẻ kiêu hãnh tự hào, lời thơ nhẹ như không, nhưng đầy nức sự thoả lòng vì công cuộc giải phóng đất nước do Lê Lợi cầm đầu, vừa đánh đuổi xong giặc Minh, kẻ xâm lược hỗn sược phương bắc, Nguyễn Trãi, người có công đầu, xác nhận rằng:
“Giữa vũ trụ này, đây là đất của tổ tiên ta, dân ta đã oai hùng dành lại được, là nơi ta đặt chân đứng lên làm chủ, cười cười nói nói hiên ngang giữa mây trời”.
Trong khoảng trời mây núi mênh mông, rừng trúc bạt ngàn, suối, thác, uốn lượn của Yên Tử Sơn, Nguyễn Trãi tới lễ trình miếu thờ vua Trần Nhân Tôn. Ngài là chủ nhân đất nước này, người chỉ huy tối cao của quốc dân trong hai lần cuối cùng phá giặc Nguyên Mông xâm lấn vừa mới hơn một thế kỷ trước, mà cũng là tổ tiên dòng họ ngoại, của mẹ ông. Khi ngửng lên chiêm bái, ông thấy tượng một vị sa môn đầu đà tu khổ hạnh, nét mặt thanh thản không vướng chút bụi trần. Ông thấy cốt cách nhà vua đắc đạo của Đại Việt, người được con dân thời đó gọi rất thân thương là “vua Bụt”, hiện lên trong ánh hào quang, với đôi mắt có hai con ngươi nhìn ông như chan hoà hồn thiêng sông núi.
Hình như đối với phần lớn người Việt chúng ta, danh xưng “Vua Bụt” như còn xa lạ. Đó chính là do âm mưu thâm độc của giặc Minh, trong hơn một chục năm chiếm đóng đất nước ta: Chúng muốn xoá tận hết văn hoá dân ta, chúng đã phân chia nước ta thành quận huyện của Tàu, tất cả tài liệu về văn minh Đại Việt xưa, nhất là chữ Nôm, quốc ngữ của dân ta, đã bị chúng cố tình huỷ diệt. Cho nên hiện nay, ta gần như chỉ còn lại bốn bài phú chữ Nôm hiếm hoi còn cất dấu trong các chùa chiền xưa cũ, trong đó có bài Vịnh Vân Yên Tự Phú viết bởi Tam Tổ Huyền Quang, còn có danh hiệu này:
… nhèn chi vua Bụt tu hành…
Ngoài ra danh xưng Bụt dành cho Phật còn có rất nhiều trong những thư tịch đời xưa, ngay trong ca dao:
Gần chùa gọi bụt bằng anh
Thấy bụt hiền lành cõng bụt
đi chơi.
cũng như trong Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, và nhiều tư liệu đời Trần, Lê khác:
...Thân đà hết luỵ thân nên
nhẹ
Bụt ấy là lòng, bụt há cầu…
(Mạn Thuật, bài 5)
…Dù bụt dù tiên ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú ông
này...
(Mạn Thuật, bài 6)…
Phạm Thảo Nguyên
Các thao tác trên Tài liệu