Nobel 2016 : văn học về thực tại
Thế
là Giải-Nobel-về-thực-tại
làm
cuộc cách mạng văn học
Roberto Saviano1
Giải Nobel trao cho Svetlana Alexievich không đơn thuần là sự công nhận dành cho một trí thức dưới ách cai trị của Lukashenko và đấu tranh với Putin. Giải Nobel trao cho Svetlana Alexievich là một cuộc cách mạng văn hóa: sau nhiều thập niên, tự sự không-hư-cấu đã được vinh danh. Đối với thế giới nói tiếng Anh, hay đúng ra, đối với cái thế giới chi li vốn nói tiếng Anh, và vốn có, ngay cả trong văn học, điểm tựa là chủ nghĩa thực-chứng-tin-lành, giải Nobel năm nay là một kiểu động đất. Điều này được nêu ra một cách thuyết phục trong một bài viết của Philip Gourevitch2 trên tạp chí The New Yorker ngày 9 tháng 10 năm 2014, và được tác giả đăng lại trên trang twitter của mình.
Trên tạp
chí The New Yorker, Gourevitch cho biết Svetlana
Alexievich là ai, viết gì, và giải
thích cái thái độ hẳn là
biết bao cách mạng nếu giải Nobel văn
học cuối cùng được mở ra cho
cách nhìn thế giới ấy, cho câu
chuyện về thực tại vốn dường
như bất chấp biên mục. Hầu như
một lời tiên tri. Nhiều người đã
không tin vào điều đó và
nghĩ rằng Giải Nobel sẽ tiếp tục
dựa theo điển phạm cổ điển,
trao cho cái dòng văn học vốn cố
hữu là hư cấu hoặc mang tính hư
cấu, mà nếu khác đi, sẽ không
là văn học. Vấn đề là thuộc
phạm trù nhận thức luận, và để
trình bày luận điểm của mình,
Gourevitch trích lại lời của Gay Talese3
trong một cuộc phỏng vấn với tạp
chí The Paris Review: "Các tác giả
không-hư-cấu là công dân hạng
hai, đơn giản, chúng tôi không thể
bước lên Ellis Island của văn học.
Nói thật, điều này khiến tôi
nổi khùng."
Những
lời của Telese cũng sói rõ chủ
hướng của thị trường văn học. Nhà văn thường bị đứng trước
vấn đề là xây dựng một tác
phẩm để có thể mang một cái
nhãn trên thị trường, để có
thể chính xác được xếp vào
ngăn kệ đó: cái nhu cầu lập
danh mục về sự viết quả là thiển
cận. "Các nhà xuất bản và
các nhà sách - Gourevitch viết - cùng
với những kẻ bảo tồn điển
phạm, bảo tồn sự tước đoạt
thủ cựu đối với sự-viết-bằng-tư-liệu
lớn lao, là những kẻ đồng lõa
khi chỉ dành riêng cái nhãn ‘văn
học’ trên các trang bìa và các
ngăn kệ cho các tác phẩm hư cấu".
Các nhà sách và các nhà
xuất bản cùng tham gia vào một sự
hiểu lầm ghê gớm khi gọi "văn
học" chỉ là những gì được
sáng tác thuần túy, và gán
cho cho tự sự kể-lại-thực-tại một
vai trò thứ cấp. Bản thân tôi,
trong phạm vi của mình, cho rằng biết
đâu chừng ngược lại, và tôi
sẽ không chịu khuất phục trước
những “mệnh lệnh” của thế
giới anglo-saxon, mà hầu như toàn bộ
trong đó, bị áp đặt bởi cái
luật phân chia ngớ ngẩn giữa hư
cấu và không-hư-cấu.
Văn học và sự đọc, hiểu như thế, bị gắn với loạt nghi vấn phủ đầu vốn cắt sống sự viết. Svetlana Alexievich chính xác là ai, một nhà báo hay một nhà văn? Bà là nhà văn nhiều hơn hay là nhà báo nhiều hơn? Các nhà báo khác nghĩ gì về bà? Thế còn các nhà văn khác? Bà nghiêm cẩn trong chuyện kể hay bà tự chứng nhận mình? Những câu hỏi này là trật đường ray, bởi chúng không ghi nhận cái cứu cánh. Và cứu cánh là cuộc sáng tạo một bích họa văn học.
Thế nên
tác phẩm không-hư-cấu có thể
được kể theo phương thức này:
một thể loại văn học không lấy
tin tức làm đối tượng, mà
xem chuyện-kể-sự-thật là cứu
cánh. Nhà văn của tự sự
không-hư-cấu tự chuẩn bị để
xử lý một sự-thật-tư-liệu,
song ứng xử với nó bằng tự do
của thơ ca. Họ không sáng tạo
biên niên ký mà vận dụng nó.
Alexievich
kể chuyện trong lúc sử dụng những
mẩu chuyện bà lắng nghe ở nhà
ga; sau một cuộc phỏng vấn bà biểu
đạt cơn nôn mửa mình đã
nhận chịu. Bà không sợ các lá
thư từ mặt trận do mình chọn, các
cuộc phỏng vấn do mình thực hiện
có thể bị coi là sáng tác vì
sự hoàn hảo hết mực của chúng.
Bà biết, thực tại vượt xa trí
tưởng tượng, và chấp nhận
mình làm cái loa, bộ khuyếch đại
của nó. Sự vĩ đại của bà
là ở lòng dũng cảm văn học,
không để mình bị hàng ngũ
hóa bởi thực tiễn công việc do
các tờ báo áp đặt.
Chọn văn
học không-hư-cấu, mặt khác, là
một lựa chọn về văn phong, là sự
lựa chọn một lộ trình. Santa
Evita của
Tomás Eloy Martínez4
là tác phẩm kể lại hay hơn hết
câu chuyện về Evita Peron, song nó không
kể lại những gì một cách không
thể chối cãi được coi là
thực có. Nó không phải là một
cuốn tiểu sử. Nó thu thập dữ
kiện, nhiều trong số đó có những
phiên bản khác nhau, và chọn những
phiên bản được coi là chân
thật hơn cả, hoặc hiệu quả hơn
cả cho tự sự. Dù có thể bị
chối bỏ, song Martínez hẳn là có
cái khả năng tự tại để bảo
vệ tính khả tín trong công việc
của mình, tức là cuộc nghiên
cứu nhân học.
Có
người đòi hỏi nghệ thuật
không là nghệ thuật nữa. Có
người cho rằng nghệ thuật thật hơn
so với sự thật. Hiện thực hơn cả
hiện thực. Như thể nó là một
bộ-thước-sao-đồ khổng lồ, mà
cuối cùng: vô dụng. Giải Nobel 2015
chọn cái hướng đối nghịch,
nó không chỉ tưởng thưởng
lòng dũng cảm của một người
bất đồng chính kiến, mà còn,
và trên hết, tưởng thưởng
lòng dũng cảm của một nhà văn
nữ đã chọn một phương pháp,
và với phong thái văn chương của
mình, thách thức quyền lực.
Cái sự thật mà Svetlana Alexievich kể cho chúng ta nghe là phổ quát, cho dù người ta không thể đo lường nó. Thử nhìn nhận một cách phản chứng: tác phẩm Zinky Boys (Những quan tài kẽm) – một DVD với tất cả các cuộc phỏng vấn đã thực hiện, họ và tên chính xác – có thể hàm ý gì, phải chăng là để chứng tỏ rằng các cuộc trò chuyện ấy đã diễn ra y như chúng ta đọc chúng? Tất nhiên, nó không hàm ý gì, vì người đọc quan tâm đến một sự thật khác: đón nhận các dữ kiện và thẩm lọc chúng thông qua ánh chiếu văn học, ánh chiếu nhân bản, cuộc chăm chút ngôn từ. Biến chúng thành sáng tạo, không phải biên niên ký. Các nhà văn của tự sự không-hư-cấu cho đến nay bị đầy vào trong một cõi lâm-bô không được tin cậy. Svetlana Alexievich (thậm chí bị gọi là gián điệp: một điệp viên CIA ở Belarus) bị các đồng nghiệp đánh đồng qua những lời ru hời nhàm tẻ: "Tất cả chúng tôi đều quan tâm tới Afghanistan", "Tất cả chúng tôi đều viết về Chernobyl", "Bà ta chẳng qua chỉ viết về những gì người ta đã biết”.
Đương nhiên, có hàng chục, hàng trăm phóng sự về Afghanistan hay Chernobyl, song Alexievich không chỉ kể, bà tạo nên một Afghanistan và một Chernobyl đa chiều, phản đề trước những gì tin tức truyền hình hoặc phóng sự vạch lại. Bà kể về những gì chứa bên trong, bên trên, và bên cạnh các sự kiện, không phải sự kiện đơn thuần, những cái ấy bà để cho phóng viên, cho những người biến chúng thành biên niên ký.
Bà đã kể chính mình và cái thế giới thông qua các cuộc đời và các cái chết đó. Bà đã kể những gì không thể nhìn thấy, song có diễn ra: những cảm xúc, những thôi thúc, những suy đoán của mình ngay cả khi không có chứng cứ chắc chắn. Điều này biên niên ký không thể làm, nhưng đó là nhiệm vụ của văn học. Gia cố thực tại trong tiểu thuyết, loại trừ sự lạnh lùng ở tin tức, đấy là con đường duy nhất tồn tại để mang những luận đề "nhạy cảm" đến với mối quan tâm của người đọc.
Truman Capote5
viết: "Tôi có cái ý tưởng
làm một công việc cao cả và uy
nghi; nó phải y như một cuốn tiểu
thuyết, duy một khác biệt: mọi ngôn
từ trong đó phải là thật, từ
đầu đến cuối". Hôm nay, để
viết và bảo vệ In
Cold Blood (Máu lạnh),
hẳn ông càng gặp nhiều khó
khăn.
Nó
bị đánh tới tấp khi ra đời
và hôm nay hẳn là càng tồi tệ
hơn, bởi cái tội-trọng là thao
tác (không có nghĩa là giả mạo)
thực tại, vốn bị coi là cuộc xâm
phạm vào lĩnh vực của người
làm tin tức. Tom Wolfe6,
nhà lý luận của New Journalism, khẳng
định rằng thuật lại lời lẽ
các nhân vật (thực có, không
phải sáng tác) là không đủ,
bạn cần xây dựng cái bối cảnh
trong đó họ hành động và
nói năng. Và ở đây thì văn
học nhập cuộc.
Nhưng
có lẽ văn học không-hư-cấu
bị coi là một thể loại hạ đẳng
vì cái lý do chính trị: câu
chuyện thế giới chỉ được dành
riêng cho công việc của phóng viên
hoặc cho cuộc đo-đếm của thông
tin, tức là đập vỡ nó, cô
lập nó, và qua cách nào đó
suy nhược hóa nó.
Ngược
lại, ứng xử với chính câu chuyện
ấy bằng phương pháp tự sự,
tức là sáng tạo một bích họa
có thể hiểu; tức là dừng lại
cuộc tiêu thụ tin tức và bắt đầu
cuộc tiêu hóa các mối vận hành;
tức là tái tạo cái bức khảm
và chuyện trò với những ai không
bao giờ đọc những tin tức như thế,
vốn không thể hiểu được nó
nếu không trong cái bối cảnh tổng
thể, và sẽ không cảm thấy đó
là chuyện của mình.
Hãy
thử đọc những trang viết của
Alexievich về buổi hoàng hôn của một
ý thức hệ cộng sản, về những
vụ tự tử của những người tin
cậy nó, bạn sẽ hiểu cái cung
cách ngôn từ của bà tiến lên
toa đầu tầu văn học và đi đến
nơi. Alexievich gánh lấy cái trách
nhiệm trau giồi thực tại chứ không
trú trốn trong đó. Vì vậy, tôi
không hiểu tại sao ở Ý, khi thảo
luận về những nhà văn lớn còn
sống, người ta trước hết không
nhắc đến Corrado Stajano7,
đến những tác phẩm Un
eroe borghese (Một
người hùng dân sự)
và
Africo
(Thị
trấn Africo)
của ông.
Văn
học là Le
guerre politiche /
Những
cuộc chiến chính trị,
thử nghiệm không-hư-cấu của
Goffredo Parise8,
hay hơn so với nhiều tác phẩm hư
cấu của ông. Văn học là Bandits
a Orgosolo
(Làm
kẻ cướp ở Orgosolo)
của Franco Cagnetta9,
nhanh chóng bị dán nhãn là một
nghiên cứu nhân học. Văn học là
Un
popolo di formiche
/ Một
nhân quần kiến
của Tommaso Fiore10
mà người trẻ đôi mươi
(miền Nam và ngay cả miền Bắc Ý)
cần nên đọc, văn học là cuộc
điều tra về cái chết của
Francesca Spada trong Mistero
napoletano
/Vụ
tự vận bí ẩn ở Napoli
của Ermanno Rea11,
là Il
provincial
/ Người
quan sát miệt vườn
của Giorgio Bocca12.
Tôi
đang trích dẫn các tác phẩm
thường chẳng bao giờ được nhắc
đến khi người ta thảo luận về
văn học Ý, dù rằng đó là
những tác phẩm rút ra những khí
quyển tốt nhất ở những thập kỷ
vừa qua. Văn học là Über
das Meer
/Vượt
biển
gần đây của Wolfgang Bauer13,
cái câu chuyện trải nghiệm tận
mắt cùng người Syria chạy nạn.
Sao lại có thể không coi là văn
học: Dispatches
/ Công văn
của Michael Herr14,
hoặc những tác phẩm của Ryszard
Kapuściński15
(bị cáo buộc một cách có hệ
thống là “bịa đặt” cả
khi còn sống và sau khi đã mất:
ông, người được coi là một
phóng viên, và do đó, phải
chứng minh các sự thật của mình).
Văn học là El Hambre/ Đói di Martín Caparrós16, tác phẩm hay nhất từng được viết về nạn đói trên thế giới. Tất cả những nhà văn mà tôi đề cập, trước giải Nobel này, đã sống chung với cái bóng ma của sự lãnh đạm thường xuyên. Và các lý thuyết của họ về tiểu thuyết không-hư-cấu, về New Journalism, bị nhận thức như là những biện-minh-theo-sau-sự-kiện hoặc lập dị nghệ thuật. Ngay cả vị trưởng lão của tất cả các tác giả không-hư-cấu Rodolfo Walsh17 cũng bị gán như vậy, người mà bằng phương tiện văn chương qua tác phẩm Operación Masacre / Chiến dịch Tàn sát xuất bản năm 1957 kể lại một giai thoại không được biết đến và cực kì tàn khốc về cuộc đàn áp của quân đội Argentina. Sự tố cáo của ông vang dội thế giới chính là nhờ cái văn phong nhất quyết đương đầu với chủ đề.
Điện ảnh cũng từng bị như thế; các đạo diễn Vittorio De Seta18 và Francesco Rosi19 luôn bị ngấm ngầm buộc tội là "thao túng" sự thật. Các ông được ưu ái trong phạm vi những buổi thưởng lãm quá khứ văn hóa, song các tác phẩm của mình thi bị e ngại và đóng cửa trong cuộc thảo luận chính trị. Il caso Mattei /Trường hợp Mattei ngày hôm nay hẳn sẽ bị trói cứng bởi những vụ kiện cáo và những lời buộc tội là không trung thực, nó hẳn là một kiệt tác hơn bất kỳ một kiệt tác nào khác trong việc kể về những gì nước Ý có thể là ở thời hậu chiến, thế mà vẫn chưa được coi như thế.
Giải Nobel lần này đã can đảm khi trao cho một người được định nghĩa là nhà tiểu luận, được định nghĩa là nhà báo, được định nghĩa là phóng viên, dù rằng lúc nào bà cũng là một nhà văn. Tôi hy vọng lời tiên tri một năm trước đây của Gourevitch trên The New Yorker sẽ thực sự diễn ra: "Ngay khi cái rào cản không-hư-cấu trong giải Nobel bị rỡ bỏ, thì sự thể nó đã từng tồn tại dường như là phi lý. ‘Văn học’ chỉ là một từ được phát minh để chỉ sự viết”.
V.N.T. dịch
Nguồn: La Repubblica 12/10/2015
1 Roberto Saviano (1979): nhà văn, nhà báo Ý.
2 Philip Gourevitch (1961): nhà văn, nhà báo Mỹ.
3 Gay Talese (1932): nhà văn Mỹ.
4 Tomás Eloy Martínez (1934 – 2010): nhà báo, nhà văn Argentina.
5 Truman Capote (1924 – 1984): nhà văn, nhà viết kịch bản phim, kịch tác gia, diễn viên Mỹ.
6 Thomas Kennerly "Tom" Wolfe, Jr. (1931): nhà văn, nhà báo Mỹ.
7 Corrado Stajano (1930): nhà báo, nhà văn Ý.
8 Goffredo Parise (1929 – 1986): nhà văn, nhà báo Ý.
9 Franco Cagnetta (1926 – 1999): nhà tiếu tượng học, nhà nhân học, nhà dân tộc học Ý.
10 Tommaso Fiore (1884 – 1973): nhà văn, chính khách Ý.
11 Ermanno Rea (1927): nhà văn, nhà báo Ý.
12 Giorgio Bocca (1920 – 2011): nhà tiểu luận, nhà báo Ý.
13 Wolfgang Bauer (1970): nhà báo Đức, phóng viên chiến trường.
14 Michael Herr (1940): nhà văn, nguyên phóng viên chiến trường người Mỹ.
15 Ryszard Kapuściński (1932 – 2007): Nhà báo, nhà văn, nhà tiểu luận Ba Lan.
16 Martín Caparrós (1957): nhà báo, nhà văn Argentina.
17 Rodolfo Walsh (1927 – 1977): nhà báo, nhà văn, dịch giả Argentina.
18 Vittorio De Seta (1923 – 2011): đạo diễn, nhà viết kịch bản Ý.
19 Francesco Rosi (1922 – 2015): đạo diễn Ý.
Các thao tác trên Tài liệu