La
mort l'amour la vie
Paul
Eluard

Paul và Dominique Eluard, 1952
Sự
chết,
tình
yêu, cuộc sống
Bản
dịch Hàn Thuỷ
2018-03/2021 (*)
Tưởng
đập vỡ được mênh mông
sâu thẳm
Bởi nỗi buồn trần
trụi tịch liêu
Thân duỗi dài
trong ngục tù kín cửa
Như một
người chết biết điều (a)
Đắp
hào quang hư không là thấy đủ
Ta
nằm yên trên vô nghĩa dạt dào
Của
thuốc độc uống vì yêu tro bụi
Máu
màu chói không chói bằng màu
cô đơn
Ta
đã muốn rũ bỏ
hình hài
Với tử thần cùng
chia nhau cái chết
Trả trái tim về
hư vô đem hư vô trả cho đời
Xoá hết cả vết hơi và mảnh
kính (b)
Không trước không sau
không cả chung quanh
Ta đã diệt
hai bàn tay giao nhau giá lạnh (c)
Diệt đi rồi xương xẩu đóng
băng
Của ước nguyện sống tan dần
(d)
Rồi
em tới lửa sáng bừng rực rỡ
Bóng
tối lui tan rã tuyết trần ai
Trên
trái đất thịt da em bao phủ
Nghe
tâm hồn anh rũ nhẹ không
Em đã
đến trong anh cô đơn hết
Em dẫn
lối đường đời anh đã
biết
Định hướng đi mạnh
không thể đo lường
Trong không
gian và thời gian tiến bước
Hướng
tới em nguồn sáng ở vô cùng
Đời
đã mọc hình hài buồm hy vọng
phồng căng
Đêm giấc ngủ lung
linh bao mộng đẹp
Đợi bình
minh những ánh mắt tin yêu
Em giăng
đôi tay vén mở sa mù
Trên
làn môi sương sớm về lóng
lánh
Anh mệt mỏi không còn chỉ
lặng lẽ ngất ngây
Yêu tình
yêu như những ngày mới lớn
Ruộng
sâu những
luống
cày công trường đèn
toả cháy
Luá cuộn mình
làm tổ trong
sóng lượn
dài cao
Muà
lúa
mùa nho vô vàn
đông người
gặt hái
Không
gì giản đơn
và chẳng gì
đứng
riêng
Trời
nhìn
biển và biển trong
mắt đêm
Rừng
đem lại
bình
an cho cây
cối
Và
những ngôi
nhà
chung tường chung mái
Và
những con đường luôn gặp gỡ nhau
Loài
người sinh ra là để kết giao
Để
lắng nghe để hiểu và yêu
Để
sinh sôi rồi con cái thành cha mẹ
Đẻ
ra những đứa trẻ du cư (e)
Chúng
sẽ tái
tạo loài người
Và đất
trời tổ quốc
Của mọi người
Của
mọi thời.
Chú
thích của người dịch
(*) Về
tác giả
và bài thơ
Thi
sĩ Paul Eluard công bố bài này năm 1951,
trong tập thơ Le Phenix (Phượng hoàng). Năm 1946 vợ thứ
nhì của ông là nghệ sĩ sân
khấu Nusch (tên thật Maria Bentz) qua đời
khiến ông rất đau buồn, tuyệt
vọng. Năm 1949 ông gặp Dominique, người
sẽ trở thành vợ thứ ba của ông
năm 1951. Tập thơ Phượng hoàng gồm
những bài thơ ông viết tặng
Dominique, người đã vực dậy con
chim Phượng Eluard từ tro tàn.
Bài
thơ chia ba phần rất rõ rệt (mỗi phần gồm hai đoạn) :
‒
mô tả nỗi cô đơn tuyệt vọng,
‒
sự gặp gỡ người yêu, ‒
và sau cùng là cái nhìn tươi
sáng về cuộc đời ; tựa
nguyên tác không có hai dấu phảy,
nhưng tựa bản dịch lại có, cho rõ đại ý.
Bản
dịch
đã đăng trên FaceBook
của người dịch từ
hơn hai năm trước.
Chẳng may không hiểu tại sao FB đã
bị mất hết !!! Xin
cám ơn chủ trang « Đông
Tác », một người bạn cố
tri, đã đăng lại. Tuy
nhiên, khi
kiểm lại nguyên tác với các
nguồn nghiêm túc thấy phải bỏ
một câu thơ không hiểu từ đâu
ra ; và đọc
lại bản dịch lại thấy cần
sửa và
thêm nhiều chú thích.
*
(a)
Hai câu
này – hình ảnh hiện
thực của người chết trong
quan tài (ngục tù kín cửa) trộn
lẫn với ngôn
từ siêu
thực
– là ẩn dụ
cho một thời tuyệt vọng của tác
giả.
(b)
"ni vitre ni buée" nói về tập
tục ở Âu châu ngày xưa : để
kiểm xem người nào đã chết
thật chưa thì người ta để
trước mũi một cái gương (hay
mảnh kính), nếu còn hơi thở (dù
rất nhẹ) thì hơi nước tụ lại
trên mặt kính.
(c)
hai
bàn tay
giao nhau giá
lạnh :
trong
đạo thờ chúa
(dù Cơ Đốc, hay Hồi Giáo ...)
cơ thể người chết trong quan tài
được đặt
nằm ngửa và
hai bàn tay giao nhau trước ngực.
(d)
"voeu de vivre" : vẫn theo tập tục
các đạo thờ chúa, đây vừa
là lời hứa trang trọng vừa là
ước mong mình sẽ sống như thế
nào, trong một số nghi lễ.
(e)
"sans feu ni lieu" dịch "du cư"
bởi vì đây là thành ngữ
nói về những kẻ lang thang vô gia cư,
trong đó "lieu" là gia đình
trong nghĩa cổ, và "feu" là bếp
lửa, tượng trưng cho ngôi nhà.
Nguyên tác :
J’ai
cru pouvoir briser la profondeur l’immensité
Par mon chagrin
tout nu sans contact sans écho
Je me suis étendu dans ma
prison aux portes vierges
Comme un mort raisonnable qui a su
mourir
Un mort non couronné sinon de son néant
Je me suis
étendu sur les vagues absurdes
Du poison absorbé par amour de
la cendre
La solitude m’a semblé plus vive que le sang
Je
voulais désunir la vie
Je voulais partager la mort avec la
mort
Rendre mon cœur au vide et le vide à la vie
Tout
effacer qu’il n’y ait rien ni vitre ni buée
Ni rien devant
ni rien derrière rien entier
J’avais éliminé le glaçon des
mains jointes
J’avais éliminé l’hivernale ossature
Du
vœu de vivre qui s’annule
Tu
es venue le feu s’est alors ranimé
L’ombre a cédé le
froid d’en bas s’est étoilé
Et la terre s’est
recouverte
De ta chair claire et je me suis senti léger
Tu
es venue la solitude était vaincue
J’avais un guide sur la
terre je savais
Me diriger je me savais démesuré
J’avançais
je gagnais de l’espace et du temps
J’allais
vers toi j’allais sans fin vers la lumière
La vie avait un
corps l’espoir tendait sa voile
Le sommeil ruisselait de rêves
et la nuit`
Promettait à l’aurore des regards confiants
Les
rayons de tes bras entrouvraient le brouillard
Ta bouche était
mouillée des premières rosées
Le repos ébloui remplaçait la
fatigue
Et j’adorais l’amour comme à mes premiers jours.
Les
champs sont labourés les usines rayonnent
Et le blé fait son
nid dans une houle énorme
La moisson la vendange ont des
témoins sans nombre
Rien n’est simple ni singulier
La
mer est dans les yeux du ciel ou de la nuit
La forêt donne aux
arbres la sécurité
Et les murs des maisons ont une peau
commune
Et les routes toujours se croisent
Les
hommes sont faits pour s’entendre
Pour se comprendre pour
s’aimer
Ont des enfants qui deviendront pères des hommes
Ont des enfants sans feu ni lieu
Qui réinventeront les
hommes
Et la nature et leur patrie
Celle de tous les
hommes
Celle de tous les temps.
Trong
tập thơ Le Phénix, 1951
|