THÁNG BA GÃY SÚNG của Cao Xuân Huy được dịch ra tiếng Pháp
Sách mới
THÁNG BA GÃY SÚNG
của Cao Xuân Huy
được dịch sang tiếng Pháp
CAO XUÂN HUY
EN MARS, FUSILS BRISES
traduit du vietnamien
par Emmanuel Poisson
Ed. Riveneuve, Paris 2021, 246p
Tủ sách văn học Việt Nam của nhà xuất bản Riveneuve (do Đoàn Cầm Thi phụ trách) đã ra được mười sáu tác phẩm, của những tác giả trẻ ở trong nước (Nguyễn Việt Hà, Phong Điệp, Nguyễn Bình Phương, Phan Hồn Nhiên) và những nhà văn sống ở nước ngoài (Đỗ Kh, Thuận).
Rất mừng là cuốn thứ 17 dành cho bản dịch tác phẩm Tháng ba gãy súng
của Cao Xuân Huy.
Bạn đọc quan tâm tới đời sống văn hóa và văn học Việt Nam nhưng không
theo dõi dòng “ văn học hải ngoại ”, có thể nhầm tác giả với học giả
cùng tên họ (1900-1983), thân phụ của nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo.
Tác giả Cao Xuân Huy (1947-2010) ra đời gần nửa thế kỷ sau, không họ
hàng gì với học giả – nếu tôi không lầm. Cha anh là nghệ sĩ Cao Nhị,
năm 1956, tham gia phong trào Nhân văn & Giai phẩm, làm thư ký tòa
soạn tạp chí điện ảnh Sáng Tạo (1).
Năm 1954, Cao Xuân Huy (7 tuổi) theo mẹ vào nam, sống với gia đình bên
ngoại. 19 tuổi, nhập ngũ, vào binh chủng “ác ôn” thiện chiến nhất của
Quân lực Việt Nam cộng hòa : Thủy Quân
Lục Chiến.
Động cơ là gì ? Chống Cộng chăng ? Tác giả viết trong lời tựa :
“ Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi
dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người
có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu hết, có bao
nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ
lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y
như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây
giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, thù
ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đâm cả. Cho đến khi lớn lên,
đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của
Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên
truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến
thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi
trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì
nhiều. ” (Tựa, Tháng ba gãy súng).
Tháng ba gãy súng được xuất bản tại Mỹ năm 1986, ba năm sau khi tác giả vượt biển và tới Mỹ, kể lại những ngày tháng ba 1975 ở mặt trận Thừa Thiên, khi quân đội VNCH “ triệt thoái Tây Nguyên ” rồi bỏ chạy từ Quảng Trị, qua Huế, về Đà Nẵng. Đơn vị của Cao Xuân Huy chiến đấu những ngày chót trên bãi biển Thuận An, chiến hạm cấp cứu không bao giờ cặp bến, cuối cùng bị bắt và “ Học tập cải tạo ” : “ quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự ” (lời Tựa).
Quả thật, Tháng ba gãy súng
tương phản hẳn với những hồi ký xuất bản tại Mỹ từ 1975 tới nay của
những cựu sĩ quan VNCH, một số là nhà văn có tên tuổi, mà ấn tượng đầu
tiên và duy nhất của người đọc là “ lên gân ” và “ phường tuồng ”. Mặc
dầu Cao Xuân Huy nhấn mạnh nó không phải là tiểu thuyết, nhưng người
đọc có quyền đánh giá đó là một tiểu thuyết giá trị. Những ai theo dõi
văn học Việt Nam đương đại, không thể không nghĩ tới Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh.
Mọi lời bình đều thừa thãi : tốt hơn cả, chúng tôi xin đăng lại nguyên
tác (trong trang báo này, với sự cho phép của tác giả) bài viết năm
2011 của Bảo Ninh : Nhớ về nhà văn Cao Xuân
Huy (đã được Emmanuel Poisson dịch ra tiếng Pháp, cùng đăng với Lời bạt, viết thẳng tiếng Pháp, của
Đỗ Khiêm).
Bản dịch của Emmanuel Poisson hoàn chỉnh, chuyển ngữ được giọng văn độc đáo, ngang tàng mà chân thực của Cao Xuân Huy. En mars, fusils brisés là một dịp may để bạn đọc tiếng Pháp (nhất là các bạn trẻ Việt Nam không thạo tiếng Việt) tiếp cận một tác giả, và qua đó, văn học Việt Nam đương đại.
N.N.G.
Các thao tác trên Tài liệu