Âm-phi-gà-ri ?
Âm phi gà ri ?
Bùi Trọng Liễu
Lời cảnh báo :
Xin những nhà ngôn ngữ hàn lâm, học giả uyên thâm, chuyên gia về khoa học giáo dục, cao thủ trong làng dịch, nhà tư tưởng phải đạo, nên cẩn thận, đọc nội dung bài này có thể làm bẩn mắt các vị đấy. Nhưng nghĩ cho cùng : Trái với ý cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tiếng Việt thời thị trường hóa ngày nay, không cần trong sáng, nếu cần đã có tiếng Mỹ làm chuẩn. Một nhà văn có tiếng, khi đi nhận giải văn học ở nước ngoài, đã phát biểu “ Thưa các quí ông, thưa các quí bà ” ; ngày xưa chữ “ quí ông, …”, tự nó đã mang số nhiều ; ngày nay vị ấy thản nhiên dùng “ các quí ông, các quí bà ”, có ai dám nói gì đâu, nếu có ai nói gì thì có khi còn bị fans của vị đánh tơi bời. Vậy thì bài này được văng [lên] mạng, chắc cũng chẳng can gì.
Cái
gì vậy ?
“ Âm ”
đây là bởi vì “ cái này ”
nó tù mù tối tăm như âm
phủ. “ Phi ” bởi vì nó phi lý,
vô nghĩa. “ Gà ”, chữ Nho nghĩa
là “ kê ”, bởi vì cái này
nó tào lao, cà kê dê ngỗng.
“ Ri ” là tiếng Tây bồi bị
Việt hoá một thời đã qua, nghĩa
là cười, bởi vì nó muốn
hài hước.
Tiếng
Pháp, tiếng Anh, có từ “ amphigouri ”
mà hình như không có tương đương
tiếng Việt ; nó được định
nghĩa là bài viết hay diễn văn
với nội dung lộn xộn “ không thể
hiểu ” được vì vô nghĩa,
đồng thời mang tính hài hước.
Vô tình hay chủ ý vô nghĩa, dưới
dạng xấu của nó, cũng là dạng
đáng chú ý hơn, nó còn
mang tính lố lăng. Nếu nó không
có trong tiếng Việt, thì phải “ tạo
từ ” để dịch, bởi vì cắt
nghĩa, không phải là dịch. Nghe nói
chữ Hán được dịch là " vô
ý nghĩa nhi hoạt kê đích văn
chương ", dài lòng thòng ; vả
lại thay tiếng Tây bằng tiếng Tàu,
thì cũng là “ kẻ kia
tám lạng
người này nửa cân ” [ta]. Vậy
tôi liều dịch nó là “ âm
phi gà ri ” (1). Chập lại và cắt
gọn đi cũng là chuyện thường
thấy trong từ ngữ Việt Nam như : “ Quốc
hội ” vốn là “ Quốc dân đại
hội ”; “ Tuyên huấn ” vốn là
“ Truyên truyền huấn luyện ” ;
“ chính uỷ ” vốn là “ chính
trị uỷ viên ” , vv.
Đã
muốn nhấn mạnh đến chữ “ lố ”,
thì phải dịch sao cho nó lố. Cũng
như đóng vai “ Xúy vân giả
dại ” mà không diễn tả được
cái “ điên ” (2) thì không
đạt . Hoặc như khúc “ le pianiste ”
(người đàn dương cầm) của
bản nhạc Carnaval des
animaux (Cacnavan súc
vật) của Saint-Saëns, thì phải tả được
cái “ dở ” thì mới là
“ hay ”, nếu không thì sao nâng
được “ le pianiste ” vào hàng
súc vật ? (3). Hoặc như có một
lúc, tôi đã dịch từ
“ nombriliste ” là “ rốn nhân ”.
Nhưng
mục đích của tôi không phải
là tạo từ để chọc đũa
vào mâm các nhà ngôn ngữ học,
các nhà dịch giỏi. Tôi vốn là
nhà giáo, nhìn sự việc qua lăng
kính của một nhà giáo (có lẽ
loạn thị), cần “ từ ” nói
trên để phát biểu ý tôi về
việc học và việc đời.
Ở
đây, tôi muốn nói “ việc Học
và việc Đời ” vốn gắn chặt
với nhau.
Dĩ nhiên, cần có học để có thể vào đời ; đó là một sự hiển nhiên, như tôi có dịp nhắc đi nhắc lại nhiều lần (thí dụ như trong bài báo « Góp ý kiến về việc học », tôi viết chung với GS Phan Đình Diệu và đăng trên báo Nhân Dân đăng ngày 27/12/1987), trong đó có đề cập đến mục tiêu của việc học như sau :
1.- Mục tiêu thứ nhất là tạo lập một cơ sở tri thức, văn hoá cho con người và xã hội.
a/ « Học » là một đòi hỏi của xã hội, bởi vì một xã hội tiến bộ chỉ có thể là tập hợp của những con người có trình độ hiểu biết cao.
b/ « Học » là một nhu cầu tri thức của mỗi cá nhân : nhu cầu đó cần được đáp ứng vì nó dựa trên quyền được hiểu biết của mỗi người.
2.- Mục tiêu thứ nhì là việc đào tạo chuyên môn nghề nghiệp :
a/ Đào tạo chuyên môn nghề nghiệp để đáp ứng cho các khu vực sản xuất, kinh tế, hành chính và cho các hoạt động xã hội khác của đất nước.
b/ Cho mỗi cá nhân một (hay những) chuyên môn nghề nghiệp, để mưu cuộc sống (và để thực hiện vai trò của mình trong chỗ đứng của mình trong xã hội).
Hai mục tiêu đó tạm gọi tắt là mục tiêu « kiến thức » và mục tiêu « nghề nghiệp » quan hệ với nhau, nhưng phải được phân biệt, và không nên xem là đồng nhất.
(Có
thể xem chi tiết trong trang mạng của tôi
buitronglieu.net).
Nhưng
ngược lại, việc đời cũng gắn
liền với việc học.
Theo
sách Liệt
nữ truyện, Mạnh tử –
(tên tục là Mạnh Kha, nhà triết
học Nho giáo Trung quốc, có nguồn ghi
là sống vào khoảng 372–289 trước
Công nguyên (4), sớm mồ côi cha, do mẹ
nuôi dạy) – thuở nhỏ, nhà ở
gần nghĩa địa, thấy người ta
đào, chôn, lăn khóc, về nhà
cũng bắt chước đào chôn, lăn
, khóc. Bà mẹ thấy thế nói :
“ Chỗ này không phải là
chỗ
con ta ở được ”. Rồi dọn nhà
ra gần chợ. Mạnh tử ở gần chợ,
thấy người ta buôn bán giả dối,
lừa đảo, về nhà cũng bắt
chước chơi đùa giả buôn bán
lừa đảo. Bà mẹ thấy thế,
lại nói : “ Chỗ này
không phải
chỗ con ta ở được ”. Bà lại dọn nhà đến ở cạnh trường
học. Mạnh tử ở gần trường
học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ
phép, đọc sách vở, về nhà
cũng bắt chước học tập lễ
phép, đọc sách vở. Bấy giờ
bà mẹ mới vui lòng nói : “ Chỗ
này là chỗ con ta ở được
đây ” (5). Tất nhiên, chuyện “ nhà
ở gần …” chỉ mang tính ngụ
ngôn, cũng như người xưa thường
nói : “ Gần mực thì
đen, gần
đèn thì sáng ”.
Ngày
nay, nhiều bất cập trong Giáo dục đào
tạo đã được phanh phui, một
số đang trên đà được
sửa, mặc dù kết quả rất mỏng
manh. Báo chí đã nói đến, chắc chẳng cần nhắc lại.
Tôi
chỉ thử nêu vài trường hợp
cụ thể việc học dính tới việc
đời, để làm thí dụ :
Nếu
như xã hội mà dung túng việc
“ có bằng cấp mà không
có
trình độ tương xứng ”, thì
đương nhiên mục tiêu của việc
học sẽ bị lái đi (dù cho được
bưng bít bằng những mỹ từ) : người
ta sẽ tìm cách có bằng cấp
bằng bất cứ giá nào, để
chiếm được một địa vị xã
hội, ăn trên ngồi trốc, mà chẳng
cần có khả năng thực sự. Khi có
người có quyền chức vì có
được bằng cấp bằng những biện
pháp bất chính, thì dẹp loạn
bên dưới sao nổi trong khi loạn to bên
trên ? Lại thêm, không thiếu những
trường hợp tôn vinh những người
giả mạo bằng cấp, hay tiếm xưng,
đôi khi thô thiển đến mức kỳ
dị : Một vài vị “ viện sĩ ”
trong nước quá biết mình không
phải là viện sĩ thực mà chỉ
vì đã trả tiền ghi tên vào
một hội tư trong tên gọi mang chữ
academy.
Hoặc như Việt kiều cũ về
trong nước, tiếp tục xưng mình là
cựu giáo sư đại học ở Pháp,
trong khi không có bằng cấp tương
xứng để làm ứng viên vào
loại chức vụ đó, dù đã
là nhà nghiên cứu có cống hiến
đáng kể về văn hóa (bằng
cấp, và sắc lệnh tổng thống Pháp
bổ nhiệm giáo sư đại học đều
có thể kiểm tra) (6). Thiết tưởng
khi người ta đã có danh vọng khoa
học thực sự, thì cần gì phải
tự phủ cho mình một lớp phấn son
giả tạo như vậy. Tôi đã cố
thử “ giảm khinh ” bằng cách nêu
lý do vụ việc này là tại
“ những kỷ niệm sai ” – theo tạp
chí Science et Vie
số 1089, tháng 6/2008 (7):
“ Hiện nay, các khoa
học về nhận
thức / hiểu biết cho phép ước tính
là khoảng 30 % cá nhân ghi trong trí
nhớ những kỷ niệm sai ” (nguyên
văn câu tiếng Pháp là “ Aujourd’hui,
les sciences cognitives permettent d’estimer que 30% des
individus se remémorent des faux souvenirs ”) – tôi diễn
dịch là “ có những
người có những ước mơ thuở
trẻ không thực hiện được, về
già vô tình tự tạo cho mình
một quá khứ hoành tráng ảo mà
ngỡ là có thật ” ? Dù sao, sự
việc ngoài đời mà như vậy
thì khó mà đem làm gương,
khuyến khích được sự lương
thiện trong Giáo dục Đào tạo,
trong giới trẻ muốn có trình độ
đào tạo cao.
Nếu
cứ để tồn tại việc lương
nhà giáo không đủ sống và
nuôi gia đình, trả học phí cao
cho con cái, buộc họ phải có giải
pháp bên lề, thì lời hô hào
“ yêu nghề ” , “ có lương
tâm nghề nghiệp ”, khó thể có
hiệu quả, trong khi ngân quĩ nhà nước
(cũng chính là tiền của dân)
dành cho Giáo dục Đào tạo không
phải là ít, và trong khi ngoài đời
đầy rẫy những chi tiêu lăng nhăng
phí phạm.
Tôi
nhớ thuở nhỏ đi học, có bài
luân lý (trong cuốn Quốc văn Giáo
khoa thư “ lớp sơ đẳng ”) : “ Thấy
người hoạn nạn thì thương;
thấy người tàn tật lại càng
trông nom ; thấy người già yếu ốm
mòn ; thuốc thang cứu giúp, cháo
cơm đỡ đần, …” (8). Không
biết cái luân lý đó, hiện
còn giá trị không, trong khi cái
triết lý “ lợi nhuận trên hết ”
đang được uốn éo diễn tả
uy thế đạo đức của nó, và
trên cụ thể đang có những người
dửng dưng trước những cảnh chênh
lệch giàu nghèo quá đáng (thí
dụ như đua nhập hàng ngoại thật
sang vào chơi, trong khi hàng loạt học
sinh nghèo phải bỏ học hay thiếu ăn,
…). Có ý cho rằng người giàu
có dư của cải (giả thử như
người ta làm giàu không bất
chính), thì người ta có quyền
chơi sang, thí dụ như nhập hàng
ngoại sang để sài cho thoả, vì
người ta đóng thuế cho nhà nước.
Tôi không thấy thuyết phục lắm,
ít nhất vì hai lẽ (hay thí dụ)
có thể là chủ quan : Tôi không
thể thản nhiên vênh vang ăn ngon những
món sang trọng khi chung quanh bàn ăn có
những trẻ em đói, đang chìa tay
xin miếng cơm thừa. Tôi chưa tin rằng
tiền thuế nhà nước thu được,
được sử dụng hợp lý cho lợi
ích của toàn dân.
Nhà
trường là nơi giáo dục đào
tạo nên con người, nhưng ngược
lại nếu không có đạo đức
ngoài đời, thì cũng khó có
được đạo đức nơi nhà
trường, dù là tiểu, trung hay đại
học.
Nếu xã hội mà không chấn hưng , thì e rằng Giáo dục Đào tạo khó chấn hưng được một mình, và những triết lý, những văn bản về Giáo dục Đào tạo sẽ chỉ là những “ âm phi gà ri ”.
Bùi Trọng Liễu
Chú
thích :
(1) Tôi xin cám ơn tất cả các anh chị xa gần đã góp ý hoặc cho thông tin về vấn đề này và những vấn đề dưới đây.
(2) " Xuý Vân giả dại " là một đoạn trong Kim Nham, một vở chèo cổ của Việt Nam. Nội dung tóm tắt của vở chèo này là như sau : Kim Nham là một học trò nghèo ở tỉnh lấy được cô vợ đảm đang. Chàng lên Kinh trọ học ; chàng vắng nhà ; nàng chăn đơn gối chiếc, bị một tay nhà giàu ve vãn, xúi nàng giả dại để chồng bỏ, và hứa hẹn sau đó sẽ cưới nàng. Nàng giả điên ; chồng tìm hết cách chữa chạy, thuốc men, bói toán, không kết quả, đành trả lại tự do cho nàng. Gã kia “ đoạt ” được nàng, rồi bỏ rơi. Xuý Vân lỡ làng, không dám trở về nhà, và từ chỗ giả điên, trở thành điên thật, lang thang ăn mày để sống. Kim Nham, đỗ đạt làm quan, một lần tình cờ gặp lại vợ cũ đang ăn xin, chàng sai người đem cho một nắm cơm trong có một nén bạc. Nàng bẻ nắm cơm, thấy nén bạc, hỏi ra mới biết là của chồng cũ. Xấu hổ (điên mà vẫn tỉnh!), nàng nhảy xuống sông tự tử.
(3)
Camille Saint-Saëns (1835-1921), nhà soạn nhạc
và nhạc sỹ chơi dương cầm tài
ba. Tương truyền rằng tác phẩm Carnaval des
animaux (1886) là tác phẩm
của ông viết chơi, nhưng rốt cục
lại là một trong những bản nhạc
của ông được biết đến
nhất. Trong tác phẩm này, ông tả
nhiều loại súc vật : sư tử, gà,
rùa, voi, thiên nga, vv. và … người
đàn dương cầm.
(4) Tôi rất lúng túng khi dùng từ “Công nguyên”, nhưng dùng từ “Tây lịch” thì cũng lúng túng không kém, vì “Tây lịch” nào : lịch julien hay lịch grégorien, hay lịch cộng hoà Pháp thuở xưa, dù cho không đụng đến lịch Hồi giáo tuy mấy nước đạo Hồi cũng ở phía Tây nước ta ? Nếu muốn, xin đọc bài “ Nhân đọc lại vài tác phẩm của Zola ” trong chương 3, phần 3 của cuốn Học gần Học xa trên trang mạng của tôi.
(5) Lại nhớ thời tôi còn nhỏ, một trong những đoạn của sách Mạnh tử mà người ta hay nhớ đến là cái đoạn “ Mạnh tử kiến Lương Huệ vương. Vương viết : “ Tẩu bất viễn thiên lý nhi lai, diệc hữu dĩ lợi ngô quốc hồ, …”. Tôi ghi nhớ nhất là cái đoạn câu trả lời của Mạnh tử là (tôi trích) : “ […], đại phu viết hà dĩ lợi ngô gia ; sĩ thứ dân viết hà dĩ lợi ngô thân ; thượng hạ giao chinh lợi, nhi quốc nguy hĩ ”. Câu này xem chừng còn thời sự chăng ?
Đã con cà con kê thì tôi cũng xin kể dài dòng chuyện bên lề một chút, để tưởng nhớ đến mấy người đã khuất : Cách đây đã 18 năm, một bữa anh Nguyễn Ngọc Giao, lúc đó đang nghỉ hè ở manoir d’Aubonne của bác Hoàng Xuân Hãn ở gần Deauville, gọi điện rủ vợ chồng tôi ra ăn cơm trưa, tôi không nhớ là vì lý do gì. 200 km cũng không xa, vợ chồng tôi ra đó ăn trưa. Bữa đó ngoài anh Giao, còn có hai bác Hãn, anh Tạ Trọng Hiệp, anh chị Bùi Mộng Hùng. Trong khi mọi người lo bếp núc, chỉ ba người luận chuyện với nhau : bác Hãn, anh Hiệp và tôi. Anh Hiệp, vốn là chuyên gia về Hán Nôm, có lẽ muốn thử trí nhớ của tôi – vì anh biết tôi thuở 11 tuổi (1945 vào dịp Nhật đảo chính Pháp, các trường học đóng cửa mấy tháng) có học vài tháng chữ Nho, và sau đó tôi phải lo học hành mưu sống, không có thì giờ mà ngó đến chữ Nho – anh bảo tôi đọc thử vài đoạn chính trong sách Mạnh tử. Thành ra ngẫu nhiên, tôi đang là nhà giáo, lại bị biến thành học trò bị hỏi thi vấn đáp. Tôi nhớ đọc tạm trôi cái đoạn sách Mạnh tử kể trên, anh Hiệp bảo “ được ” , còn bác Hãn chỉ mủm mỉm cười ; tôi không biết tại sao. Lúc đó tôi còn luận thêm rằng : Thời Mạnh tử là thời Chiến quốc, các nước cạnh tranh nhau, nếu các quan chức làm giàu bất chính ở nước mình, xong rồi thu vén của cải, bồng bế vợ con, chạy sang nước khác thì có thể sống yên ổn hưởng cái tài sản của mình vơ được. Tôi cũng không ngờ là chuyện thời Chiến quốc, đến thời toàn cầu hoá này, có vẻ vẫn còn thời sự.
Bữa
đó tôi cũng ngứa mồm luận
đến câu của Mạnh Tử : “ Dân
vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh ”, và tôi luận rằng ông
Trần Trọng Kim dịch là “ Dân
làm
quí, xã tắc là thứ, vua làm
khinh ”; tôi hiểu chữ “ khinh ” ông
viết là “ nhẹ ”, nhưng có
người lại hiểu “ khinh ” là
khinh bỉ (thời quân chủ, ai dám khinh
vua, có mà mất đầu !). Bác Hãn
bảo : “ Phải
”. Sau tôi kiểm tra lại
trong cuốn Nho
giáo, in lần thứ 3 (nxb Tân
Việt, Sài Gòn, không đề năm
in, nhưng ghi “giá ở Nam Việt là
80 $ ”– cách viết đồng bạc
Đông Dương lúc đó như
vậy, chứ không dùng riêng cho đồng
đô-la như bây giờ – nên tôi
đoán là in vào đầu những
năm 50 gì đó vì các tên
gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt xuất
hiện lần đầu tiên vào tháng
7/1949 trong vùng quân đội Pháp tạm
chiếm), thì quả là ông Trần
Trọng Kim dịch như thế, nhưng ông
không luận gì về nghĩa của chữ
“ khinh ” cả.
(6) Nhắc lại là thuở trước cuộc cải cách Savary (1984) ở Pháp, muốn là ứng viên làm giáo sư đại học ở Pháp (professeur d’Université), phải có bằng Tiến sĩ Nhà nước trong các ngành khoa học và Văn học (Doctorat d’Etat ès sciences hay Doctorat d’Etat ès Lettres). Rồi lại phải được Hội đồng khoa học toàn quốc (thuở ấy gọi là CCU, Comité Consultatif des Universités) xét hồ sơ khoa học xem có xứng đáng làm ứng viên giáo sư đại học không đã (liste d’aptitude aux fonctions de professeurs des universités), trước khi được nộp đơn làm ứng viên vào một chỗ làm giáo sư một đại học. Nếu được bàu làm giáo sư một đại học Pháp rồi, thì phải có sắc lệnh của tổng thống Pháp bổ nhiệm, thì mới đủ giá trị. Như vậy, người không có bằng Doctorat d’Etat, (bằng Doctorat d’université thuở ấy không giá trị trong vấn đề này, dù cho nội dung nghiên cứu có thể là quan trọng) không thể là giáo sư đại học Pháp được. Còn cái vụ đóng tiền để được ghi tên vào New York Academy of Sciences thì nói mãi rồi, đã nhàm. Tự xưng như vậy, chỉ có thể là mạo nhận , hay là … “nhớ nhầm”. Trước đây, tôi có viết chi tiết trong mấy bài báo, nay có thể đọc thấy trong trang mạng của tôi http://www.buitronglieu.net.
(7) Bài “Mémoire. Pourquoi elle nous trompe” gồm 2 phần : 1. Notre mémoire nous trahit … pour notre bien. 2. Notre passé invente notre futur. Science et Vie là tạp chí phổ biến khoa học, không phải là khuôn vàng thước ngọc. Tuy nhiên, cũng là một nguồn tài liệu có thể tham khảo để … giảm khinh, trong trường hợp hiện tại.
(8)
Trong cuốn sách Giáo khoa thư này,
các tác giả có ghi là mấy câu
dạy luân lý đó lấy từ
“Nguyễn Trãi gia huấn”. Điều
này xem ra không phải vậy. Ngày nay,
có nhiều lý do được nêu ra
để phủ nhận, và cho rằng Nguyễn
Trãi không thể là tác giả của
Gia huấn ca. Theo tôi, cái gì hợp lý
thì nên công nhận, cái gì
không hợp lý thì gác sang một
bên. Vì vậy ta nên tìm hiểu mọi
nguồn, thí dụ như bài này:
http://www.viendu.com/bai%20viet/NguyenDu-DiTimTacGiaGiaHuanCa.htm
Các thao tác trên Tài liệu