"Văn hoá" và "Dân tộc"
Chuyện
văn hoá
của
một bộ phận (nhỏ) dân tộc
Đỗ Kh.
Dư
luận trong nước xôn xao và dư luận
ngoài nước thì châm biếm khi mới
đây Hội phố hoa ở Hà Nội bị
vặt lá vặt cành (xem bài báo Tuổi
Trẻ), sau khi hội Hoa đào Sakura năm ngoái
trơ trụi mà mếu máo trước
gió đông (VietNamNet).
Lý do tại
sao thì để các nhà văn hoá
phân tích, riêng tôi chỉ có một
chuyện kể để đóng góp, ăn
theo cho có lộc đầu xuân.
Vào
cuối tháng 5.1975, sau một chuyến hải
hành 18 ngày, một ngàn rưởi
người tị nạn chúng tôi từ
Việt Nam đến cảng Phú Sơn (Busan),
Nam Hàn và được đưa đến
một trường trung học cũ được
chính quyền dùng làm trại tạm
trú. Trong số này, phần rất lớn
là Hàn kiều ở miền Nam và thân
nhân người Việt của họ được
Nam Hàn mang về nước (A, thế là
ở miền Nam chuyện lấy chồng Hàn
quốc đã đi trước cả nuớc
ngày nay những 30 năm !) Khoảng 200 hay
300 người trong số tị nạn không có
liên hệ chính đáng gia đình
gì với Hàn kiều và là thành
phần nhờ quen biết hay là chạy chọt
với lại sứ quán.
Vì
là một trong những thông dịch làm
việc với ban quản lý trong việc lập
hồ sơ lý lịch và kiểm kê
tài sản, tôi được biết rõ
các thành phần trại viên, chí
ít là các thành phần tôi
phiên dịch phỏng vấn. Không nói
đến Hàn kiều và gia quyến, số
200-300 được di tản gồm 40-50 hộ.
Trong số đó, 11 hay 13 chủ hộ là
bác sĩ (1 vị là cựu giám đốc
một bệnh viện lớn nhất nước,
1 vị khác là giám đốc một
trung tâm y tế quốc gia), 4 hay 5 chủ hộ
là luật sư, một số doanh gia, tư
chức, một phi công Hàng không Việt
Nam chẳng hiểu vì sao lại phải đáp
tàu biển, một chức sắc lớn của
Hội Thập Đỏ miền Nam, phía tôn
giáo có một vị đại đức
và ít nhất là một vị cha công
giáo. Tuy nhiên, không có quân nhân,
trừ một toán trên 100 hải quân
đứng đầu là một đại tá
đến trại về sau. Về học vị,
có một số tu nghiệp, tốt nghiệp
nước ngoài. Về tài sản, có
hộ vội vã mang theo năm bảy chục
cây vàng, đó là ông đi vệ
sinh cũng xách theo một cái cặp da
nặng lệch cả người. Có hộ
cầm đi đuợc 100.000 USD, đó là
gia đình luôn quây quần chung quanh một
cái va ly khoá nắp. Các hộ có
tài khoản ở nước ngoài, vì
không cần phải kê khai với Hải
quan Hàn quốc nên tôi không đuợc
biết đích xác nhưng mà cũng
có chứ chẳng phải không. Nói
tóm lại, số 200-300 người tị nạn
này tiêu biểu cho tinh hoa của xã hội
dân sự miền Nam. Vào thời điểm
đó, miền Nam chỉ có 1.000 bác
sĩ , tức là một bác sĩ cho 18.000
người. Tại trại Phú Sơn, có
1 bác sĩ cho 130 người, nếu không
kể Hàn kiều và gia quyến của
họ, số bác sĩ hơi bị nhiều,
1 bác sĩ cho 20 người hay là 30, cứ
8 hộ hay 10 thì lại có 1 luật sư
sẵn sàng mách luật.
Thành
phần Hàn kiều và gia đình, một
số nhỏ là nhân viên sứ quán,
phần còn lại là công nhân kỹ
thuật, tiểu thương... nghĩa là bình
dân hơn tuy cũng là trên trung bình
của miền Nam Việt Nam nhiều hơn là
dưới. Như vậy, thành phần của
trại Phú Sơn, nói tổng quát về
văn hoá cũng như là mọi mặt
ta có thể coi là trên trung bình xã
hội của miền Nam vào thời đó.
Truớc
hết, vị chức sắc của Hội Thập
Đỏ được Hội Thập Đỏ
địa phương trao cho nhiệm vụ phân
phối quần áo cũ cho người tị
nạn. Là người từng chu toàn việc
này ở tầm vóc quốc gia thì đây
là chuyện nhỏ. Không biết có
phải là sử dụng kinh nghiệm tích
luỹ được trong thời gian bà giữ
chức vụ thiện nguyện và danh giá
này khi (mới ngày hôm qua thôi) còn
ở trong nước, bà thầm thì gọi
khoảng mươi người thanh niên chúng
tôi vào kho, khi tôi vào đến bên
trong thì đã có sẵn các con
bà. Đây là một cuộc họp
hạn chế, có tính đoàn kết
giai cấp của giới thượng lưu. Tôi
tưởng là bà định tổ chức
dạ vũ để gây quỹ giúp người
nghèo khó thì bà bảo, đây
quần áo, các cháu chọn lấy thứ
nào thích và lấy bao nhiêu thì
cứ việc lấy trước mọi người.
Vậy là các bạn trẻ của tôi
có kẻ áo trong áo ngoài, áo
phông, áo gió áo choàng đầy
đủ vào buổi tối trước ngày
việc phân phát được lên lịch
và loan báo cho quần chúng. Việc này
có hại gì ai, đằng nào cũng
là của... chùa.
Mấy
hôm trước, lúc còn ở trên
tàu, tôi có dịp chứng kiến một
chuyện tương tự. Bí thư thứ
nhất nhì hay là Lãnh sự của sứ
quán Hàn quốc được giao phó
nhiệm vụ phát chăn mền. Thay vì
đi buôn sừng tê giác chẳng hạn (xem bài báo Lao
Động) thì ông lại hăng say với nhiệm
vụ này và phát cho mỗi người
một cái. Đến lượt gia đình
ông và gia đình bên vợ (người
Việt), thì ông bị phu nhân kết
tội ngay là lơ là bổn phận làm
chồng, làm cha, làm rể vì mỗi
người trong gia quyến cũng chỉ có
được độc một cái chứ
không phải là hai hay ba. Người ta lấy
chồng, chỉ trông vào lúc họan
nạn như thế này để được
cái trải ra nằm lên và cái
đắp, cái để dành nở mặt
với người. Đây là lần đầu
tôi chứng kiến cảnh cô dâu Việt
bị chồng Hàn quốc bạc đãi.
Quá uất ức, bà ôm con lao mình
về phía lan can tàu toan nhảy xuống
biển khiến tôi có công giữ chị
lại. Tuy quyết liệt đến như vậy,
anh chồng vẫn nghệt mặt ra mà giữ
lập trường một người/một mền,
coi ngu chịu không nổi. Thực ra, bà vợ
giả vờ tự sát, tôi giả vờ
cản lại thì nhà ngoại giao kia cũng
có thể giả vờ đưa thêm cho
bà nhạc một cái mền là xong
chuyện, thảo nào bán đảo Triều
Tiên mãi chẳng có hoà bình.
Trở
lại trại thì một hội thiện
nguyện, hình như là phu nhân các
viên chức cao cấp hay hội phụ nữ
Nam Hàn gì đó, đến trại
thăm trẻ em và trao quà. Số trẻ
em thì trong trại cũng lắm, nên đây
là quà tập thể chứ không phải
là quà cho mỗi em. Cũng nên nhắc
lại, Nam Hàn vào năm 1975 là một
quốc gia đang phát triển, chưa có
thành quả gì trong lãnh vực phim bộ
và màn hình mỏng, thời trang nhuộm
tóc hay là điện thọai di động
mà có nhiều nhà máy may mặc
và giày dép, xuất khẩu công
nhân xây dựng sang các nước Trung
Đông và y tá, thợ mỏ sang Tây
Đức1.
Nhân viên y tế trong trại cô nào
cũng lầm bầm Hoelderlin với lại ấy
thế Musil. Ngay các cô người Việt
làm vợ Hàn kiều ở trong trại,
cũng có lắm truờng hợp bồng con
chờ chồng đang làm hồ ở United
Arab Emirates hay lái xe tải ở Saudi Arabia. Mức
sống tại cả nước lúc đó
còn khiêm tốn, suốt thời gian ở
trại chỉ có hôm phu nhân tổng
thống Phác Chính Hy đến viếng là
mọi người được ăn thịt gà
và phát cho 1 chai Coca, một đặc ân
mà ngay cả người Hàn quốc cũng
hiếm thấy và phải trầm trồ. Đóng
dấu ngoặc này lại, thì quà cho
trẻ em này, mấy cái xích đu
con, xe đẩy bằng mủ và xe đạp
ba bánh là một nỗ lực lớn để
giúp trẻ em tị nạn thư giãn
khiến hội phụ nữ thiện nguyện nói
trên khi trao tặng hân hoan rầm rộ và
hãnh diện ra mặt.
Buổi
sáng tặng quà xong phần trình diễn,
trẻ em vui chơi trên cầu tuột xích
đu được báo chí thu hình
đầy đủ, phái đoàn ra về
thì đến trưa sân chơi mới này
đã trống trơn không còn một
thiết bị ! Theo thói quen tư duy của
người Việt chúng ta ấy mà, tôi
thoạt tưởng đây là cảnh dàn
dựng một buổi để tuyên truyền,
xong rồi thì thu hồi quà tặng lại
nhưng không phải như vậy, oan cho nước
chủ nhà. Ban quản trị trại cũng
sững sờ, gọi tôi lên văn phòng
để giúp cán bộ trại tìm
hiểu.
Đến
đây tôi phải tả về môi
trường ăn ở của đồng bào
tị nạn. Trại là một trường
học cũ được dùng làm trại
cấm, nghĩa là có công an gác
ngoài và khách gia đình Hàn
kiều đến thăm phải xin phép được
vào, trại viên trừ biệt lệ nào
đó không được ra bên ngoài
ngắm cảnh hay là mua sắm, ngay cả lúc
có đặc ân hết sức hiếm hoi
này cũng có công an Hàn quốc
luôn luôn đi kèm vì công an thì
chế độ tướng lãnh của thời
ấy rất sẵn (câu nói đùa là
mỗi công dân Nam Hàn có một
nhân viên của KCIA được chỉ
định theo dõi đêm ngày). Bên
trong trại, phần ăn mỗi bữa là
khu vực nhà bàn, phần ở là các
lớp học cũ. Bàn ghế không có,
mỗi phòng học này chứa năm mười
hộ, 50 hay 30 người, trải chăn bông
ra dưới sàn mà ngủ. Đây là
cảnh sinh sống tập thể, như trại
lính hay là trại tù, phần tư
hữu chỉ có vật dụng cá nhân
mang theo từ Việt Nam nghĩa là mang theo trên
người, nhiều lắm là mấy cái
va li hay là mấy cái túi để gối
đầu, cho dù bên trong có chứa
vàng hay ngoại tệ thì cũng chỉ
có vậy. Tôi muốn nói là không
ai có TV, tủ lạnh (tuy một gia đình
có mang theo một cái hộp đá,
icebox kiểu pic nic dã ngọai của Mỹ,
rất hiện đại và hình như
dùng để đựng đá... quý).
Tóm lại, không gian của mỗi hộ,
là vài mét vuông trên sàn,
không có vách liếp gì hết,
chăn bông ‘nhà’ này trải
ra bên cạnh chăn bông ‘nhà’
kia. Nói thêm, hoàn cảnh này là
một hoàn cảnh tạm bợ, không phải
tạm theo kiểu nhà Phật hay là nhà
Trịnh, Ta nay ở tạm
trần gian2,
mà là tạm vài tháng vài
tuần, mai kia theo đúng nghĩa đen, về
chốn xa xăm… bên ngoài.
Nhưng
đuợc lúc nào hay lúc ấy, và
sống vội sống cuồng nên các phụ
huynh tị nạn đã gỡ ngay xích đu,
cầu tuột mang về buồng và bày
ra ngay cạnh chỗ nằm xem rất... nên
thơ, vì tôi thiếu từ để diễn
tả. Thế này, giống như là nghệ
thuật trình bày đương đại
đang ồn ào Hà Nội ngày nay :
một góc phòng trống, bốn cái
chăn bông trải, hai cái hành lý
Samsonite và một cái xích đu con hay
một cái xe đẩy đồ chơi. Khi
cán bộ trại đến từng phòng
để hỏi lý lẽ của sự nghiệp
tư hữu hoá và tự phát này
thì nhận đuợc phản hồi rất
là văn học tư tưởng chứ không
phải là nghệ thuật, cái cầu
tuột này tôi thấy trước. Nghe như
là ở café La Pagode, Barthes hay là
Beauvoir tôi thấy trước nên tôi
mang về bày to đùng ở đầu
giường tôi chứ không còn phải
là của mọi người. Để cho con
tôi chơi ! Rốt cuộc, việc công
hữu gặp nhiều trở ngại và chống
đối, các xích đu, cầu tuột,
nhà chơi thì còn khắc phục được
để ra sân trở lại nhưng các
xe đạp ba bánh, xe con đẩy thì vô
phương, các em sử dụng xong không
để lại ngoài bãi mà mang về
ga-ra ở đầu chỗ nằm trong buồng
dưới sự hướng dẫn của phụ
huynh, mấy bận như vậy thì công
an Hàn quốc độc tài quân phiệt
cũng phải chịu.
Cũng may là sân trường này không có cây xanh, chứ không hẳn đã có hộ bứng về trồng ở trong phòng. Đây không nói quá và là trường hợp khu resort ở Tuy Hoà, chỉ để lại những chiều mây vắt ngang lưng đèo 3 cho quần chúng của cả tỉnh (bấm ở đây).
.
1 8.000 thợ mỏ và 11.000 y tá Nam Triều Tiên xuất khẩu lao động, Truth and Reconciliation Commission Korea.
2 « Ở trọ », Trịnh Công Sơn (qua giọng ca Khánh Ly)
3 « Chiều qua Tuy Hoà », Nguyễn Đức Quang
Các thao tác trên Tài liệu