Cách Mạng Pháp, Napoléon Bonaparte, và các nhà Khoa học
Cách
mạng Pháp, Napoléon
Bonaparte, và các
nhà khoa học
Hà Dương Tuấn
Xin dùng chữ "văn
hoá khoa học" để nói đến những hiểu
biết cơ bản về khoa học của đại đa số công
dân, kể cả nhà cầm quyền ; cũng như
thái
độ của họ đối với khoa học 1
và những nhà khoa học, phần nào
đã
được chính thức hoá trong những định chế
xã hội. Bài viết này nhằm lược ghi sự
hình thành "văn hoá khoa học" tại
Pháp trong thời gian khoảng 25 năm giữa các thế
kỷ 18 và 19, khởi đi từ cuộc cách mạng 1789,
mà hầu như những nét chính yếu vẫn tồn
tại cho đến ngày nay. Dĩ nhiên đây chỉ
là
một khía cạnh tương đối nhỏ của lịch sử thời
ấy, Cách mạng tư sản Pháp nổ ra do mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất, được hỗ trợ bằng luồng tư tưởng mới mẻ
của những Voltaire, Jean Jacques Rousseau, Diderot,
Montesquieu..., điều đó đã là kinh
điển.
Và dĩ nhiên không phải qua một đêm là cách mạng đem đến tất cả, sự hình thành văn hoá khoa học có nguồn gốc từ trước đó, và sau đó cũng phải trải qua nhiều bước thăng trầm, trong những điều kiện có khi thuận lợi có khi kìm hãm. Đến nay nó được thể hiện rõ nét trong các định chế giáo dục, hệ thống đại học và viện nghiên cứu, với "đạo lý khoa học" được phát biểu và tuân thủ khá chặt chẽ trong mọi ngành nghề ; và được lan toả rộng rãi hơn nhưng mơ hồ hơn qua các phương tiện truyền thông.

1. Trước cách mạng 1789
Kể từ Galileo
(1564-1642), Descartes (1596-1650), tới Képler
(1571-1630)... , rồi đỉnh cao Newton (1642-1627), phát
hiện những quy luật ngày càng hoàn
chỉnh
về thế giới vật chất ; cộng với những nghiên
cứu toán học để cho phép phát huy chặt
chẽ những quy luật ấy của nhiều nhà toán
học lớn như Leibniz (1646-1716), Euler (1707-1782), gia đình
Bernoulli (các tác phẩm nằm giữa 1650-1780),
Pascal (1623-1662), Fermat (1601-1665), Lagrange (1736-1813), Laplace
(1749-1827) ... ; các lý thuyết khoa học cơ bản
đã sẵn sàng cho việc ứng dụng vào đời
sống, hỗ trợ cho việc bùng nổ của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất, nảy ra do những
yêu cầu kinh tế - xã hội thời ấy tại Âu
châu 2.
Anh quốc là nước đi đầu trong cách mạng công nghiệp này, mà điểm khởi đầu thường được chọn là phát minh ra máy hơi nước hoàn chỉnh (với động lực hai chiều và hệ thống truyền lực biến chuyển động hai chiều thành chuyển động quay) của James Watt (1736-1819) năm 1769. Nhưng thực ra đó chỉ là sự bùng nổ lớn nhất. Nếu coi những đặc trưng của cuộc cách mạng này là : "sử dụng sắt thép đại trà" (cơ khí), nhà máy sản xuất tập trung, sử dụng năng lượng hơi nước, phương tiện chuyên chở bằng xe lửa và tàu chạy bằng động cơ hơi nước... ; thì cần lui thời gian khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp cho tới khoảng những năm đầu thập kỷ 1730, khi có các sáng chế về máy dệt, đưa đến việc sản xuất vải tập trung trong các nhà máy, và sáng kiến sử dụng than cốc để luyện gang ; những sáng chế này đều nảy ra trên nước Anh 3.
Một vài thí dụ cho thấy nước Pháp đi chậm hơn nước Anh khá nhiều : Mặc dù dân số chỉ trên dưới một phần ba dân số Pháp 4, năm 1730 có 15000 động cơ hơi nước (kiểu cũ) tại Anh, và ... 3000 tại Pháp. Năm 1789 tại Pháp chỉ có 1% đến 2% gang là sản xuất bằng lò than cốc, trong khi ở đó ở Anh năm ấy tỷ lệ tương ứng là 40%. Tàu chạy bằng hơi nước và xe lửa cũng được ứng dụng nhiều hơn tại Anh, do nhu cầu chuyên chở nhiều hơn vì sản xuất hàng hoá nhiều hơn ; mặc dù tàu chạy hơi nước được Joufroy d'Abbans sáng chế tại Pháp năm 1776. Một sáng chế đáng khác đáng để ý của người Pháp là khinh khí cầu của anh em Montgolfier năm 1783.
Tuy nhiên, thế kỷ 18 còn được gọi là "thế kỷ ánh sáng" tại Pháp. Qua các đời vua Louis XIV 5 (1643-1715), Louis XV (1715-1774) và Louis XVI (1774-1792), các hoạt động văn học, nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật được tôn trọng và bảo trợ qua nhiều định chế độc đáo hay hiếm có trên thế giới, như Hàn Lâm Viện Pháp (Académie Française, 1635), Hàn Lâm Viện Khoa Học (Académie Royale des Sciences, 1699, tương đương với The Royal Society of London, đã được thành lập từ năm 1660). Các đại học đã có từ lâu, nhưng chỉ truyền dạy thần học, luật và y khoa. Về khoa học kỹ thuật, các trường kỹ sư được mở ra trước 1789 là 6 : Đóng tầu (Ecole de constructeurs de vaisseaux, 1672), Cầu Cống (Ponts et Chaussées, 1747), Hầm mỏ (Mines, 1783), Công binh Mézières 7 (Génie, 1748) ... Dĩ nhiên còn trường Quân sự Paris (1751), nơi Napoléon Bonaparte 8 vào học năm 1770 (15 tuổi). Các trường kỹ sư này lúc đó đã dạy những lý thuyết khoa học mới và hữu ích nhất thời ấy, như đại số học, hình học giải tích, toán vi tích phân, cơ học... Trường dạy nghề cho công nhân đầu tiên được mở năm 1788.

Vợ chồng Lavoisier
Vai trò xã hội của những nhà nghiên cứu và giáo dục khoa học kỹ thuật chưa định hình 9, chữ "nhà khoa học" (le scientifique) chưa xuất hiện, cả xã hội còn coi họ như những "triết gia của tự nhiên" (philosophe de la nature), những "nhà bác học" (savant), hay "học giả" (érudit), một cách chung chung. Chức Viện sĩ Hàn lâm do nhà vua bổ nhiệm, và đó là những người duy nhất được bổng lộc vì làm khoa học ; nhiệm vụ của họ là cấp bằng sáng chế và làm cố vấn cho triều đình (HLV khoa học có từ 20 đến 50 người), ngoài ra hoàn toàn tự do ; họ còn có đặc quyền viết sách báo mà không cần qua kiểm duyệt. Các giáo sư phần lớn nằm trong hệ thống nhà thờ hoặc nhà binh và việc dạy học không liên hệ đến nghiên cứu riêng, nếu có. Việc nghiên cứu khoa học hoàn toàn do hứng thú cá nhân, nếu có trao đổi với đồng nghiệp hay tiền bối thì chỉ vì biết hay cần nhau. Nhiều nhà khoa học lớn sống bằng nghề khác, thí dụ như viện sĩ Lavoisier, còn là một viên quan thu thuế giàu có (nghiên cứu hoá học rất đắt tiền), nhà toán học Laplace, cũng viện sĩ, làm việc sát hạch cho pháo binh... Mặt khác sự ngưỡng mộ khoa học trong xã hội đã tăng cao và do thiếu những hình thức phổ biến khác, các salon hay "câu lạc bộ" khoa học nảy sinh, nhiều nhà bác học có tài ăn nói sống được bằng tiền thù lao diễn thuyết. Nhiều người được các nhà quý tộc hoặc các phú hộ đỡ đầu hay/và mời làm gia sư.
Thời ấy đã có các trường tiểu học (écoles primaires) và trung học (collèges) rồi, hoàn toàn do nhà thờ quản lý, thời gian tổng cộng là 8 năm 8 lớp, chỉ những gia đình khá giả mới cho con đến trường, nhưng con em các thế gia thì ở nhà học gia sư. Tiểu học dạy giáo lý Cơ Đốc cơ bản, dạy chữ và bốn phép toán, từ 5 hay 6 tuổi ; các trường trung học dạy thêm các môn khác cho đến 15-16 tuổi. Nhà binh cũng có hệ thống trường học riêng cho thiếu niên, Napoléon Bonaparte trước 15 tuổi đã học ở một trong những trường đó. Hệ thống nhà thờ dày đặc và việc các cha sở thường dạy chữ miễn phí cho dân chúng cũng đưa đến một kết quả đáng ngạc nhiên, khoảng 75% đàn ông thời ấy có thể ký tên mình trên giấy tờ 10, tuy rằng tỷ lệ biết chữ thay đổi nhiều tuỳ theo các vùng giàu nghèo khác nhau 11. Bên cạnh khoảng màu tương đối sáng về giáo dục đó, cũng không nên quên khía cạnh bi thảm chung của thời đại ấy về phụ nữ và trẻ em : đẻ nhiều mà nuôi được ít, 30% trẻ sơ sinh chết dưới 1 tuổi, chỉ một nửa là nuôi được quá 10 tuổi ; con em các gia đình nghèo khó phải bắt đầu phải đi vào cuộc đời lao động từ khoảng 8-10 tuổi.
2. Cách mạng và Đế chế 12
Nền Cộng hoà
phát sinh từ Cách mạng Pháp
có thể
được chia làm bốn giai đoạn :
-
giai đoạn đầu từ ngày 14.07.1789 phá ngục Bastille tượng trưng cho uy quyền võ đoán tuyệt đối của nhà vua, cho đến 21.09.1792, khi vua Louis XVI bị truất phế và nền Cộng Hoà được thành lập. Đây là giai đoạn đấu tranh chính trị căng thẳng, không thể có thay đổi gì về các thể chế khoa học - giáo dục.
-
Giai đoạn thứ hai, Hội nghị Quốc ước (La Convention), từ 21.09.1792 cho đến 01.10.1795, là bước đi chập chững của nền Cộng Hoà, vừa phải học tập sinh hoạt chính trị dân chủ (tương đối), vừa phải đối đầu thắng lợi với những đe doạ chiến tranh từ các Vương Quốc láng giềng, đây cũng là thời gian Robespierre nổi lên nắm quyền, thực thi khủng bố qua Uỷ ban Cứu nước (comité de salut public) và Toà án Cách mạng, Rồi cuối cùng bị triệt hạ. Cần nói rõ là trong Quốc ước không có các đảng phái chính trị với đường lối rõ nét, các phe nhóm quây tụ với nhau vì nhiều lý do : một lãnh tụ có tài ăn nói, vì đồng hương... các phe nhóm này tranh giành ảnh hưởng và quyền lực vừa bên ngoài vừa bên trong Quốc ước.
-
Giai đoạn thứ ba, Uỷ ban Chấp chính (Le Directoire), từ 01.10.1795 đến 10.11.1799. Ngay từ đầu thời gian này Napoléon Bonaparte đã là một đại tướng rất nổi tiếng, do đó thường được cử đi viễn chinh, nhất cử lưỡng tiện vì không còn ở Paris để chia sẻ quyền hành. Trong nước thì các âm mưu đảo chính và lật đổ giữa các phe phái nối tiếp nhau, cho tới khi chính Bonaparte làm đảo chính ngày 10.11.1799 (theo lịch cách mạng gọi là ngày 18 tháng Sương mù, 18 Brumaire).
-
Giai đoạn thứ tư, Tổng tài (le Consulat), từ 10.11.1799 đến 02.12.1804 là giai đoạn Bonaparte làm tổng tài thứ nhất, nắm toàn bộ quyền lực ; hai người kia chỉ để làm cảnh. Đây thực chất là giai đoạn Bonaparte chuẩn bị để đăng quang làm Napoléon Đại đế, từ quân chủ lại trở về quân chủ, chấm dứt nền Cộng Hoà ngắn ngủi. Một vết nhơ lớn của tổng tài Bonaparte là đã lập lại chế độ nô lệ, ngày 06.07.1802.
Nhiều sử gia xếp giai đoạn tổng tài chung với giai đoạn đế chế, hợp với thực chất hơn. Napoléon trị vì hơn chín năm, trong thời gian 14 năm ông thực sự nắm quyền lực những cải tổ sâu rộng về cơ cấu luật pháp, hành chính, khoa học, giáo dục, được tiến hành mạnh mẽ. Napoléon tiếp tục chinh phục châu Âu, nhưng rồi thất trận trước cửa ngõ Mạc Tư Khoa, liên quân các nước châu Âu được thế tràn vào Pháp. Tháng ba 1814 Napoléon phải thoái vị rồi bị đầy ra đảo Elbe, người kế thừa của dòng họ Bourbon lên ngôi, hiệu là Louis XVIII. Gần một năm sau Napoléon thần tốc trở về cướp chính quyền (01.03.1815), nhưng chỉ giữ được 100 ngày trước khi lại thất trận ở Waterloo (18.06.1815). Ông bị đày ra đảo Sainte Hélène của nước Anh, rồi chết ở đấy.
Trong khoảng 25 năm Cộng hoà và Đế chế, nước Pháp như trải qua một cuộc động đất lớn để thiết lập một trật tự xã hội mới, phải tự tìm tòi những thể chế mới thích hợp hơn cho quan hệ sản xuất mới và tình trạng tiến triển của Khoa học, Kỹ thuật, Công nghệ. Ngoại trừ việc đã triệt tiêu một thể chế dân chủ vừa le lói và rất không hoàn chỉnh, cùng với vết nhơ lớn đã nói ở trên, Napoléon Đại đế vẫn cụ thể hoá được một số tư tưởng của các nhà Khai Sáng. Rất tiếc là nếu Napoléon thoát được cái cạm bẫy mù quáng của quyền uy và danh vọng tuyệt đối, bỏ giấc mộng chinh phục, hoà hoãn với các nước khác, thì bớt được bao nhiêu xương máu đã đổ trên khắp châu Âu. Và có thể con người có thiên tài tổ chức và trọng khoa học này đã đưa nước Pháp đến những đỉnh cao hơn, thay vì làm kiệt quệ nhân lực và tài lực 13.
Louis XVIII trở lại. Để lấy lòng dân, và vì cũng không thể đi ngược lại lịch sử, các thành quả cơ bản đã được thiết lập qua nền Cộng hoà và Đế chế không bị thay đổi bao nhiêu, tuy có suy giảm : hệ thống hành chính tập trung, bộ luật dân sự, hệ thống giáo dục, tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, thương mại, mọi người bình đẳng trước Pháp luật... Những thành quả này vẫn còn nhìn thấy trong diện mạo của nước Pháp từ đó đến nay.
3. Nền Cộng hoà non trẻ và khoa học
3.1. Nét gãy
Năm 1793 là năm
bản lề, tháng 7.93 Hàn Lâm Viện bị chất
vấn tại sao được hưởng đặc quyền đặc lợi trong
chế độ cũ. Nhà bác học có uy
tín
nhất khi đó là Lavoisier được cử ra điều
trần trước hội nghị Quốc ước, ông hỏi thẳng :
" Phải chăng Hội nghị
muốn nền Cộng hoà chặn
lại sự tiến bộ khoa học và công nghệ 14
? " [NJD, tr.16]. Kết quả là ngày 8.8,
Hàn
Lâm Viện bị giải thể, các thành
viên
chạy tứ tán, nhiều người gốc quý tộc bỏ
ra nước ngoài, những người như Condorcet 15,
làm cách mạng nhưng ở trong phe thiểu số
thì
phải lẩn trốn. Thù trong, giặc ngoài, nước
Pháp cần một bàn tay sắt ; Robespierre trở
thành người hùng của cách mạng
và
từ 10.10.93 máy chém bắt đầu hoạt động.
Ngày 07.04.94 Condorcet bị bắt, sau đó tự tử
trong ngục ; ngày 08.08.94 đến lượt Lavoisier lên
đoạn đầu đài, Lagrange nói với bạn là
Delambre : " họ chỉ cần
vài phút để chặt
một cái đầu, có biết đâu trăm năm
khó
có một cái đầu như thế " [NJD,
tr.25].
Tuy nhiên, ngoài những chiến thắng quân sự để bảo vệ nền Cộng hoà, ngay trong giai đoạn khủng bố Quốc ước vẫn thực hiện ngay một số việc theo lý tưởng nhân quyền : Quan trọng hơn cả là : ngày 01.08.93 bắt buộc áp dụng hệ thống mét trong đo lường, ngày 04.02.94 xoá bỏ chế độ nô lệ, ngày 19.12.94 ra nghị định cưỡng bách giáo dục cấp tiểu học (dĩ nhiên giáo dục được tách ra khỏi giáo hội), ngoài ra còn mở thêm trường kỹ sư Bách Khoa (Ecole polytechnique), và trường Sư Phạm (Ecole Normale), tiền thân của trường Cao đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Supérieure) sau này. Ngày 25.02.95 quốc ước bỏ phiếu thuận cho một chương trình cải cách giáo dục toàn diện của Lakanal, nhưng chương trình này đến giai đoạn Chấp chính mới được thực hiện một cách rụt rè.
Tại sao có lúc tinh thần khoa học thoái trào trong nền Cộng hoà ? Phải nói hoạt động khoa học thời ấy tương đối cô lập với quần chúng, và các nhà khoa học cũng không thực gắn bó với nhau, không tự bảo vệ nhau thành một khối chặt chẽ. Mặt khác, người ta tôn trọng khoa học, nhưng vừa không hiểu, vừa lại muốn chỉ có các nhà khoa học "thực sự cách mạng", khổ nỗi quần chúng nào phân biệt được vàng thau. Thời buổi nhiễu nhương dễ làm cho những kẻ cơ hội, có tài ăn nói, tự phong cho mình cái mũ "vừa khoa học vừa cách mạng" để sách động quần chúng nhằm trả thù riêng. Một trong những vai kịch như thế là Marat, mắc bệnh vĩ cuồng, không có công trình khoa học nghiêm chỉnh nào mà cứ cho là mình cao hơn cả Newton. Ứng cử vào Hàn lâm viện thời trước cách mạng không được nên Marat rất hận viện này. Rồi hai cái khổ xẩy ra, cái khổ thứ nhất là Marat đã trở thành một lãnh tụ cách mạng rất được yêu quý, cái khổ thứ hai là những lảm nhảm về khoa học của Marat chưa được nhận ra là lảm nhảm thì Marat đã bị một người đàn bà thuộc phe bảo hoàng giết chết, đúng thời điểm căng thẳng : 13.07.93. Dân chúng Paris đưa đám rất đông, trước cửa nhà Marat có viết : " Hỡi nhân dân, Marat người tình của tổ quốc, đã chết..." [NJD, tr.36]. Người tình tổ quốc đã chết, cho nên gần một tháng sau Hàn lâm viện bị giải thể.
Lý do thứ hai nghiêm chỉnh hơn là khuynh hướng cho rằng chỉ cần kỹ thuật và công nghệ, không cần nghiên cứu khoa học thuần tuý, mà người đại biểu lỗi lạc của thế hệ trước cách mạng chính là nhà chủ trương Bách khoa Từ điển Diderot (1713-1784). Ông cho rằng chỉ cần tìm cách giải quyết những vấn đề cụ thể trong đời sống, không cần những tiếp cận lý thuyết cao xa như Descartes và Newton, trong một câu ám chỉ đến cả hai nhân vật này ông viết : "... Sự hữu ích sẽ bao quát tất cả. Trong một vài thế kỷ nữa sự hữu ích sẽ đặt giới hạn cho nền vật lý thực nghiệm, cũng như nó đang sắp sửa đặt giới hạn cho hình học" [NJD, tr.29]. Những sai lầm của các bác học lớn... cũng lớn tương xứng. Nhưng điều với chúng ta bây giờ là hiển nhiên thì có lẽ ở thời ấy không hiển nhiên chút nào và còn là chủ đề tranh luận. Và khi dầu sôi lửa bỏng cần giải quyết nhiều vấn đề thật cụ thể thì càng tưởng rằng nghiên cứu khoa học cao xa là vô bổ. Do đó tự nhiên có sự xuất hiện của những nhà khoa học hạng hai như Decremps [NJD, tr. 32-33], bây giờ không ai nhớ tên, nhưng thời đó rất có ảnh hưởng vì là một nhà phổ biến khoa học kỹ thuật "hữu ích" có tài. Ông chủ trương phải có một nền khoa học "dân đen" (sans-culottes), phải bỏ đi những chứng minh toán học của các hiện tượng vật lý, mà dựa vào những chứng minh "bình dân" ! dựa trên thí dụ, quy nạp, hơn là trên diễn dịch chặt chẽ ; và cho rằng hoạt động của các nhà khoa học chỉ là truyền thụ những hiểu biết hữu ích đến dân chúng. Điều này, nếu không coi nó là tất cả, thì không phải không có ích, mà còn rất thích hợp với một trình độ giáo dục thấp cỡ tiểu học, đại trà, mà sự phát triển cũng rất cần thiết.
Nhưng phải nói
đây chỉ là ý kiến cực đoan nhất trong
thiểu số nắm quyền từ tháng 7.93 đến tháng
7.95. Sau khi nguy cơ chiến tranh chấm dứt, đồng thời
trong dân chúng sự lo sợ và bất
mãn
với phong trào khủng bố dâng cao, một số người
theo Robespierre bỏ theo phe ôn hoà, Uỷ ban Cứu
quốc bớt hung hăng dần, rồi cuối cùng Robespierre
bị bắt ngày 27.07.95 và bị xử tử ngay
ngày
hôm sau. Quốc ước tiếp tục, ngày 22.08.95
thông
qua hiến pháp, 1.10.95 thì bầu cử xong một
"chính phủ" mới. Quốc ước hết nhiệm vụ.
Chính phủ do một Uỷ ban chấp chính (Directoire)
5 người đứng đầu, do Quốc hội bầu ra. Quốc hội này
do các cử
tri đại diện bầu (các cử
tri đại
diện được những đàn
ông có đóng
thuế trong cả nước bầu chọn theo tỷ lệ 1/200 tại
xã
hay khu phố mình). Ngay sau đó, 05.10.95 phe bảo
hoàng nổi loạn, người dẹp cuộc nổi loạn này
có cái tên nghe quen thuộc : đại tướng
Bonaparte. Giai đoạn Cách mạng bùng nổ
đã
qua, đe doạ bên ngoài tạm yên. Nhưng
trước
khi tiếp tục nói đến Uỷ ban này, xin kể lại
lần nữa giai đoạn Quốc ước theo một cách khác
để có cái nhìn cân đối hơn ;
lịch
sử thời ấy quá phức tạp để có thể xuôi
dòng dễ dàng một cách tuyến
tính.
3.2. Nền Cộng Hoà cần đến các bác học
Tương truyền (không
biết có thực không) khi chủ tịch toà
án
cách mạng tuyên bố xử tử hình
Lavoisier,
với tội danh là quan thu thuế của Louis XVI, ông
ta đã nói : "nền cộng hoà
không
cần đến bác học". Sự thật là từ đầu
cách mạng vẫn liên tục có sự cộng
tác
chặt chẽ giữa các bác học và
các
lãnh đạo của nền Cộng hoà (nhiều người
đóng cả hai vai), và một số không nhỏ
vẫn được trọng dụng trong giai đoạn khủng bố để
thực hiện nhiều việc cấp thiết. Sao vậy ? để có
thể trả lời xin trở lại toàn cảnh từ đầu.
Ngày 20.04.92, Louis XVI tuyên chiến với Bohême (thuộc nước Tiệp ngày nay) và Hung, thực chất là tạo cái cớ cho họ vào Pháp dẹp Cách mạng giúp mình. Tháng 5.92, quân đội Áo và Phổ tuyên bố sẽ trừng phạt nước Pháp. Chiến tranh bắt đầu, 10.08.92 dân chúng Paris nổi loạn, tấn công điện Tuileries và chém giết những phần tử chống đối, quân Phổ tiến vào nước Pháp, đã đến Valmy, cách Paris cỡ 220 km về phía Đông. Trước khi đưa quân ra ngăn chặn liên minh Áo Phổ thì cần giải quyết nội bộ nước Pháp trước : Nghị viện tuyên bố xoá bỏ nền quân chủ và bắt giam Louis XVI. Tháng 9.92 một Hội nghị Quốc ước được bầu ra để viết Hiến Pháp mới. Nền Cộng hoà khai sinh, ngay sau đó quân Cộng hoà tiến ra đánh bại quân Liên minh. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Rồi Liên minh phản công, có thắng, có thua, hai bên cầm cự. Trong khi đó tại Paris phe Robespierre nắm được quyền lực. Louis XVI bị xử chém ngày 21.01.93, tuyên chiến với nước Anh ngày 01.02.93, Uỷ ban Cứu quốc ra đời ngày 06.04.93, tháng tám ra lệnh tổng động viên, từ hơn 300 ngàn trước chiến tranh quân số tăng vọt lên đến 800 ngàn người.

Bấy giờ người ta nhận thấy kinh tế suy sụp trầm trọng, đe doạ bên ngoài nặng nề, mà quân đội thì thiếu cả quần áo lẫn vũ khí. Thép, đồng, thuốc súng đều phải nhập từ bên ngoài vào, mà rồi từ đó cũng không biết làm ra nhiều súng đạn 16... Uỷ ban cứu nước khi ấy chỉ còn cách kêu gọi các bác học, yêu cầu trong một thời gian rất ngắn sản xuất được những máy móc và vật liệu cần thiết cho việc chế tạo vũ khí đại trà [NJD, tr.46]. Lời kêu gọi này phát ra ngay sau tổng động viên, và như ta đã biết, cùng lúc đó Hàn lâm viện bị giải thể, và chỉ hai tháng sau là Robespierre bắt đầu chính sách khủng bố. Vậy khi giải tán Hàn lâm viện, Uỷ ban Cứu quốc không nhằm đánh vào khoa học nói chung, mà đánh vào một hình thức nghiên cứu khoa học "tháp ngà", tạo áp lực đưa các nhà khoa học " tin cậy được " vào những nhiệm vụ cấp thiết. Câu hỏi đặt ra và khó có câu trả lời, là tại sao không dùng được những người như Lavoisier, bậc thầy lớn về hoá học, và cũng không chống cách mạng ; do ai đó có chủ ý, hay do hay không kiềm chế nổi quần chúng bị những kẻ cơ hội sách động ?
Dù sao thì những nhà khoa học và kỹ sư không kém tầm cỡ thuộc thế hệ đồng liêu hay học trò của Lavoisier và Condorcet như Lazare Carnot 17, Laplace, Monge, Berthollet, Fourier, Lagrange, Chappe, Fourcroy... đã lao vào giải quyết những vấn đề quân trang quân dụng, quản lý và tổ chức, phục vụ cho cố gắng chiến tranh và cho cả dân sinh nói chung. Và họ đều thành công vượt bực.

Dưới sự điều khiển của Carnot, thành viên Uỷ ban Cứu quốc đặc trách quân sự, trong vòng vài tháng người Pháp chế tạo được thuốc súng bằng những phương pháp mới năng suất rất cao, xuất phát từ việc nghiên cứu những phản ứng hoá học mới ; sản xuất đại trà được súng đạn, tất cả với nguyên liệu trong nước. Không những thế còn hoàn chỉnh việc sản xuất thép, đồng, và nâng cao chất lượng với nhiều sáng chế độc đáo ; những công nghệ này được truyền bá, lập thành quy trình, huấn luyện nhân công và tổ chức sản xuất ngay tại nhiều tỉnh trên đất Pháp. Hệ thống thông tin nhìn từ xa của Chappe và khinh khí cầu của anh em Mongolfier được hoàn thiện và đưa vào sử dụng (để đưa người quan sát lên cao), đem lại lợi thế rất lớn về thám thính, thông tin liên lạc, cho quân đội Pháp. Ngoài ra còn có những sáng chế nhỏ nhưng không kém quan trọng cho đời sống binh sĩ và toàn dân, như những phương pháp thuộc da mới, nhanh và rẻ (giảm đáng kể giá thành giày và áo da), quy trình làm xà phòng, làm giấy, và... cái bút chì, sáng chế của Conté 18 [NJD, tr.700-709].
Tại sao thần kỳ như thế ? Chỉ có thể nói một cách kinh điển là : quan hệ sản xuất lạc hậu đã bị phá vỡ ; và lực lượng sản xuất, trong đó tri thức đã là một yếu tố thiết yếu, đã sẵn sàng để bùng nổ. Thêm vào đó là tình thế khẩn cấp và tài tổ chức cũng như hiểu biết khoa học của Carnot.
26.06.94, quân Cộng
hoà Pháp chiến thắng trận quyết định tại
Fleurus (ở nước Bỉ hiện nay). Nước Pháp không
còn bị tấn công nữa cho tới khi, ngược lại,
đi chinh phục các nước khác với thiên
tài
quân sự Bonaparte, nhưng đó là chuyện
của
hai năm sau. Trước mắt thì người Pháp cần
hoà giải với nhau để xây dựng và củng
cố nền Cộng hoà, bàn tay sắt Robespierre
đã
nhuốm quá nhiều máu, vừa vướng víu vừa
không còn cần thiết nữa. Kết cuộc, như
chúng
ta đã thấy, chỉ vài tuần sau là
Robespierre bị giết, bè đảng của ông ta bị
thanh toán, sau đó giai đoạn Quốc ước chấm
dứt và giai đoạn Chấp chính bắt đầu từ
01.10.95 như đã nói.
3.3. Bốn năm Chấp chính
Thực ra không có
gì để nói nhiều về giai đoạn Chấp
chính,
nhìn chung tương đối thụ động, một chính
phủ mà có tới năm cái đầu
thì khó
quyết định gì ! Các phe phái vẫn tranh
giành nhau và nhiều khi chính phủ thua
trong
bầu cử vì dân chúng bất mãn
do kinh
tế kiệt quệ, các nghị viên cực đoan hay bảo
hoàng có khi được đa số và
đòi
sửa đổi hiến pháp. Mỗi lần như vậy lại nhờ
vào quân đội đảo chính để bầu lại
!!! Về nội trị chỉ đủ sức duy trì các
thành quả của thời Quốc ước và cải thiện
kinh tế, kỹ nghệ. Ngoài ra, ngay từ đầu Uỷ ban
Chấp chính đã khôi phục lại
các Hàn
lâm viện dưới tên mới : Ngày 25.10.95
"Học
viện Quốc gia" (Institut National) được thành
lập, Học viện này bao gồm 3 nhánh (gọi
là
classes), đó thực chất là một cấu trúc
mới ở trên, nhằm quản lý chung các
Hàn
lâm viện cũ với tư cách "nhánh",
trong đó nhánh Khoa học tăng từ 50 lên
60
vị, gồm tất cả các viện sĩ cũ còn hoạt
động và bầu thêm những người mới, hai
nhánh
kia là nhánh "Khoa học Đạo đức và
Chính trị" (sciences morales et politiques) hoàn
toàn mới mẻ, và nhánh "Văn học Nghệ
thuật", bao gồm tất cả các Hàn lâm
viện Văn học Nghệ thuật có dưới chế độ cũ 19.
Tập tục sinh hoạt, tự do nghiên cứu và
ngôn
luận không khác trước.
Về đối ngoại, vẫn còn hai đế quốc không thân thiện gì với nền Cộng hoà : Đế quốc Anh và Đế quốc Áo. Có trong tay một đạo quân vừa chiến thắng, Uỷ ban Chấp chính nghĩ đến việc chinh phục các nước khác, một là để đem tiền của về xây dựng kinh tế, hai là để làm suy yếu Anh và Áo, ba là... đưa Bonaparte ra ngoài cho đỡ vướng chân. Vì thế, Bonaparte từ vị trí tư lệnh đội quân phòng thủ trong nước được phong thành tư lệnh đội quân viễn chinh, và ngay từ 26.03.96 Bonaparte cầm đầu binh đoàn viễn chinh sang nước Ý (láng giềng của Đế quốc Áo). Cuối năm 97 vừa khải hoàn trở về thì 05.03.98 lại được cử đi xa hơn : Ai Cập, để tranh giành ảnh hưởng với Đế quốc Anh. Lần này Bonaparte dành hai tháng rưỡi để chuẩn bị, và có một sáng kiến kỳ lạ : đoàn quân viễn chinh sẽ đem theo một đội ngũ khoa học hùng hậu đủ mọi ngành, trong một đạo quân 36000 người, đi trên 300 tàu chuyên chở và 55 chiến thuyền. Ngoài ngựa chiến, quân trang quân dụng, tất cả các sách vở và dụng cụ cần thiết cho khác nhà khoa học đều được mang theo.
Cuộc chinh phục Ai Cập
bị sa lầy, quân Pháp làm chủ đất liền,
nhưng trên biển thì thua tơi bời. Ngày
09.10.99 Bonaparte bất ngờ vượt thoát vòng
vây
của hải quân Anh, đổ bộ ở bờ biển miền nam
nước Pháp với 100 sĩ quan thân cận nhất, để
đội quân viễn chinh Ai Cập và đội ngũ khoa
học ở lại tại chỗ dưới quyền tướng Kléber.
Rồi ngày 18 Sương mù (10.11.99) làm
đảo
chính, chấm dứt chế độ Chấp chính,
thành
lập chế độ Tổng tài, nắm toàn bộ quyền
lực dưới sự hoan hô và ủng hộ nồng nhiệt
của quân đội và dân chúng,
đã
thất vọng về một nền Cộng hoà trên thực tế
không lý tưởng như trong lý thuyết.

Bonaparte năm 1797 :
4. Đại tướng, Tổng tài và Đại đế
4.1. Cuộc chinh phục Ai Cập của các nhà khoa học
Phải chăng trong khi chờ
đợi thời cơ chín mùi cho tham vọng quyền lực
của mình, Bonaparte thấy rằng cần tập sự làm
việc với các nhà khoa học để chuẩn bị một
đội ngũ thừa hành cao cấp cho tương lai, hơn là
nghĩ rằng họ thực sự cần thiết cho chiến sự của
cuộc viễn chinh 20
? hay/và ông nghĩ rằng đưa một đội ngũ
trí
tuệ như thế vào một vùng đất có truyền
thống sinh hoạt và văn hoá khác hẳn,
họ
sẽ phát hiện nhiều điều mới mẻ về học thuật,
và ngược lại bản thân họ cũng sẽ học được
nhiều kinh nghiệm để đem áp dụng về nước Pháp
sau này ? hay/và họ cần thiết cho việc khai
thác hợp lý một nước Ai Cập sẽ bị chinh
phục ? Có lẽ còn một ý đồ nữa,
Bonaparte muốn các nhà khoa học ở nhiều
ngành
cộng tác với nhau (điều không có cho
đến
lúc ấy) trên một đề án cụ thể rất
lớn : khảo sát nước Ai Cập.
Qua quan hệ chặt chẽ của mình với các nhà khoa học đầu đàn Monge và Berthollet, Bonaparte tập hợp được một đội ngũ 151 21 nhà khoa học giỏi và trẻ sẵn sàng đi theo mình 22, dù không được cho biết sẽ đi đâu ! Không ít người sẽ để tên tuổi lại hậu thế, như Fourier, Geoffroy St Hilaire, Conté... 36 người trong đó được chọn ra để thành lập "Học Viện Ai Cập", gồm 12 viện sĩ toán học, 10 viện sĩ vật lý học và khoa học tự nhiên, 6 viện sĩ chính trị học, và 8 viện sĩ văn học nghệ thuật 23. Đội ngũ này hoạt động như việc nghiên cứu khoa học trong một nước Pháp nhỏ, các nhà khoa học gửi đề nghị báo cáo đến Học viện Ai Cập để xem xét, nếu được chấp nhận thì được báo cáo và xuất bản trong kỷ yếu. Sau khi quân Pháp đổ bộ chiếm Alexandrie và đặt bản doanh ở đó thì Học viện Ai Cập đi vào hoạt động ngay, họp theo nhịp độ khẩn trương 5 ngày một lần. Trong thời gian Bonaparte ở Ai Cập ông không bỏ buổi họp nào, theo nghĩa nếu ông không có đó vì bận việc quân thì không họp ! vả lại Bonaparte đi đâu cũng yêu cầu hai nhân vật chủ chốt của Học viện là Monge và Berthollet đi theo, kể cả khi bí mật trở về Pháp.
Kết quả quân sự
của cuộc chinh phục Ai Cập là thất bại lớn,
không đến nỗi bị tiêu diệt nhưng ngày
31.08.1801, gần hai năm sau khi Bonaparte bỏ về trước, đoàn
quân viễn chinh đã phải ký thoả ước
trong thế yếu với quân Anh để "rút lui
có
trật tự". Kết quả của đoàn khoa học gia thì
không biết đã đáp ứng được bao
nhiêu
phần những chờ đợi của Bonaparte, nhưng là một
thành công lớn cho khoa học và cho bản
thân
Ai Cập. Nước Ai Cập được khảo sát kỹ lưỡng
mọi nơi và về mọi mặt 24
: thực hiện một cách hệ thống và nghiêm
túc điều mà hiện nay chúng ta gọi
là
điều tra cơ bản về địa dư, địa chất, sinh thái,
xã hội, ngoài ra còn có y
học, kiến
trúc và khảo cổ... Công
trình này
đã được thu thập và in lại trong tập kỷ
yếu đồ sộ "Mô tả nước Ai Cập"
(Description de l'Egypte) gồm 19 quyển. Một vài
thí
dụ như : Desgenettes truyền bá tại Ai Cập những
nguyên tắc rất mới về phòng bệnh, Geoffroy St
Hilaires thì thu lượm biết bao nhiêu mẫu thực
vật và sinh vật mới, như chuột sa chĩnh gạo ; và
cuối cùng, nhưng không nhỏ nhất, là nhờ
tìm ra một bia đá ở Rosette 25
ghi cùng một văn bản bằng ba thứ chữ cho hai thứ
tiếng, mà sau này Champollion (1790-1832)
đã
giải mã được hoàn toàn chữ viết cổ
của Ai Cập.
4.2. Hoàn chỉnh hệ thống giáo dục
Trường Bách khoa
có lẽ là câu trả lời của
Napoléon
và các khoa học gia bạn của ông về quan
hệ giữa khoa học lý thuyết và khoa học ứng
dụng, trường này trước không thuộc về
quân
đội, nhưng chính Napoléon đã ra lệnh
quân
sự hoá nó 26
để nhằm đào tạo sĩ quan quân đội, nhất
là
trong pháo binh và công binh. Trường
Bách
khoa có một mục đích "hữu ích"
rất rõ ràng. Thế nhưng, những người được
Napoléon giao phó việc hoàn thiện
trường
Bách khoa là Monge, Laplace và
Berthollet lại
đặt ra một chương trình học lý thuyết rất
cao và mức thi tuyển học viên cũng vậy. Cho đến
ngày nay vẫn thế, trường Bách khoa là
lò
đào tạo nhân tài cho nền quân
sự,
công nghiệp và hành chính
của Pháp
nhưng vẫn là một trường khoa học có
trình
độ lý thuyết vào loại cao nhất. Ý
tưởng
này đã được Đại tướng Bonaparte tóm
gọn trong trong diễn từ "kết nạp" ông vào
Học viện Pháp quốc năm 1797 : " Kể từ
nay, sức mạnh thực sự của Cộng hoà
Pháp nằm
ở chỗ bất cứ một tư tưởng mới nào cũng phải
thuộc về chúng ta" 27
Mặt khác, Napoléon ý thức được rằng, trong đời sống dân sự, nếu chỉ có nghiên cứu khoa học ở mức độ cao nhất là Học viện Quốc gia, thì không đủ. Do đó, một mặt ông hoàn thiện một số trường kỹ sư đã có sẵn, nhiều trường khác được mở thêm, một số trường theo mô hình trường Bách khoa, và một số trường khác thì có mục đích ứng dụng rõ rệt hơn về một ngành nghề nào đó. Mặt khác, ngày 10.05.1806 Napoléon ký sắc lệnh thành lập "Pháp quốc Đại học" 28 (Université de France), cải tổ chương trình của Lakanal mà trong bốn năm chấp chính chỉ được thực hiện một cách lơ là. Một hệ thống trường học thống nhất với ba cấp : tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông (écoles primaires, collèges và lycées) được thành lập (trong đó các môn khoa học được tăng cường) ; sau trung học thì sinh viên chọn một trong năm Khoa (Facultés) ; ngoài Thần học, Y học và Luật học đã có sẵn tại một số đại học, sắc lệnh này mở thêm hai khoa mới : Khoa Khoa học, và Khoa Văn chương. Tuy nhiên việc thiết lập hai hệ thống đào tạo khác biệt sau trung học, là hệ các trường kỹ sư và hệ đại học, không phải không có những bất tiện so với các nước khác.
Dần dần, trong thế kỷ
19, với hệ thống nghiên cứu và giáo dục
mới, một lớp người mới
thành hình, chuyên
nghiên cứu và giảng dạy khoa học. Làm
khoa học sẽ trở thành một
nghề sống thoải mái
và được xã hội tôn vinh,
nghiên cứu
cũng là việc làm tập thể trong các
Khoa
hoặc các trường kỹ sư, chứ không còn
là
do hứng thú đơn lẻ.

4.3. Quan hệ với các nhà khoa học
Napoléon Bonaparte
có lẽ luôn luôn nuối tiếc
không được
làm khoa học (thời trẻ ông đã chứng
minh
được một định lý nhỏ về cơ học), ông rất
hãnh diện được bầu vào Học viện Quốc gia
với tư cách đặc biệt (hors cadre). Trong sổ sách
về thu nhập của Đại đế luôn luôn được ghi
tại dòng đầu : 1500 francs, phụ cấp viện sĩ. Xin
trích thêm bài diễn văn nhập viện :
" Tôi
rất hân hạnh được các nhân vật lỗi lạc
như quý vị bầu chọn. Tôi dư biết trước khi
được ngang hàng với quý vị tôi
còn
phải làm một người học trò lâu
dài.
Những cuộc chinh phục đích thực, duy nhất không
để lại một tiếc nuối gì, là những cuộc
chinh phục cái chưa biết. ".
Ngoài ra,
để tìm hiểu thêm về thái độ của Đại
đế trước các nhà khoa học, xin kể ba
thí
dụ dưới đây.
Nhà toán học lớn Laplace đã được Napoléon bổ nhiệm làm chủ tịch thượng viện ; khi nhận được tác phẩm cổ điển đồ sộ "Cơ học về các thiên thể" của Laplace trong đó có in lời đề tặng mình, Napoléon viết trả lời : "tôi mong muốn khi các thế hệ sau đọc tác phẩm Cơ học về các thiên thể, họ không quên rằng tôi là người đã ái mộ và là bạn của tác giả"... trong thư khác cho Laplace ông còn viết " ...đây lại là một dịp làm cho tôi sầu não trước hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi vào một sự nghiệp thật quá xa với khoa học " [NJD, tr.668] .

Fourier (1768-1830) là một nhà toán học rất lớn khác : khi đang dạy trường Bách khoa, ông theo đại tướng Bonaparte trong cuộc viễn chinh Ai Cập, tới nơi được phong làm thư ký thường trực của Học viện Ai Cập ; trở về năm 1801 29 ông được Tổng tài Bonaparte phong tỉnh trưởng tỉnh Isère (thành phố là Grenoble). Khi Napoléon thất thế bị đầy ở đảo Elbe, Fourier ngả theo Louis XVIII. Khi Napoléon từ Elbe trở về chinh phục lại chính quyền, đi qua Grenoble, bắt Fourier, nhưng chỉ mắng một trận, sau đó chuyển ông này đi làm tỉnh trưởng tỉnh Rhône bên cạnh, còn phong thêm làm bá tước (comte) [NJD, tr.761-763]. Nhưng dĩ nhiên Fourier không trở thành tỉnh trưởng tỉnh Rhône, vì 100 ngày sau Napoléon đã bị đi đầy, vĩnh viễn không trở lại. Chắc Louis XVIII không phiền hà gì Fourier, ông trở thành viện sĩ hàn lâm năm 1817. Nói chung, do ý thức tôn trọng khoa học của mọi phía, trừ thời gian gần hai năm khủng bố, các nhà khoa học Pháp đều bình yên trải qua nhiều thăng trầm của giai đoạn lịch sử sôi sục này, khi mà hành động đúng theo lý tưởng của mình thật không dễ. Và nếu Napoléon cũng như Louis XVIII cư xử khác đi, có lẽ hậu thế đã không có được tác phẩm nền tảng "Lý thuyết giải tích về nhiệt năng" (Théorie analytique de la chaleur) mà Fourier hoàn tất năm 1822.
Desgenettes là
bác
sĩ cao nhất trong quân đội, luôn luôn
cãi
cọ ngang tay với Bonaparte trong cuộc viễn chinh Ai Cập,
một lần đuợc lệnh đầu độc những người đã
bị dịch hạch ở Jaffra (để hành quân cho
nhanh, và vì bề gì họ cũng sẽ chết),
Desgenettes phản đối : "nghề
của tôi là
cứu người..." và không tuân
lệnh. Khi
trở về Alexandrie Bonaparte tức giận đòi trừng phạt
Desgenettes lấy cớ đã để cho dịch hạch xẩy ra,
nói " ...nghề
thuốc là nghề sát
nhân". Desgenettes trả lời : "... thế ông
gọi nghề của kẻ đi chinh phục là nghề gì ?
", và nhất định không rút lời lại.
Nhưng cuối cùng Napoléon vẫn tin tưởng
và
giữ tình bạn với Desgenettes. Ông này
vẫn
là bác sĩ trưởng bên cạnh Đại đế
trong cuộc viễn chinh đánh nước Nga. Khi trong tuyết
lạnh Napoléon đòi di tản một viện mồ
côi
cho binh sĩ của mình ở, Desgenettes phản đối "...
Đại đế muốn giết những trẻ em vô tội ư ? "
Napoléon lại chịu thua. Đến khi Desgenettes bị bắt,
ông bảo Nga Hoàng : "các
ông
phải
tôn trọng tôi, người đã chữa chạy cho
các tù binh Nga", Nga
Hoàng cho quân
bảo vệ đưa trả ông về cho quân Pháp 30.
5. Để kết luận
Bài này chỉ
tổng hợp sơ lược vài nét của lịch sử khoa
học Pháp trong những năm bản lề giữa thế kỷ 18
và 19. Cách tiếp cận theo lịch sử có
hậu
quả là tập trung vào sự đối xử của
chính
quyền với nhà khoa học, mà nhược điểm quan
trọng là làm cho người đọc có cảm
tưởng các nhà khoa học chỉ thụ động chờ
đợi sự đãi ngộ. Sự thật không hẳn như
thế, nếu không có những ước mong tìm
hiểu tự nhiên một cách thuần lý, cũng
như ước mong dùng khoa học để nâng cao đời
sống theo những lý tưởng của thế kỷ ánh
sáng, và đấu tranh cho những ước mong ấy được
thực hiện ; thì cũng không thể có một
nền khoa học. Mà như ta đã thấy, trong thời
đại ấy các nhân tài nở rộ, tuổi trẻ
đi vào khoa học đông đảo, đó cơ bản
là
hậu quả của những tư tưởng khai sáng. Lẽ dĩ
nhiên các truyền thống khoa học Pháp,
Đức,
Anh, rồi gần ta hơn là Liên Xô, Mỹ
và
Nhật, đều mỗi nơi một vẻ, có những sở trường
và sở đoản mà ta cần nghiên cứu
và
so sánh để áp dụng vào thực tế Việt
Nam trong một thế giới đã toàn cầu hoá
của thế kỷ 21. Tuy nhiên, thiển nghĩ cũng có
những mẫu số chung về mặt con người, như tinh thần
khoa học và quan hệ giữa nhà khoa học
và
quyền lực.
Trong thời hiện đại, khi mà cuộc Cách mạng Khoa học Kỹ thuật lần thứ ba đang phát triển như vũ bão, việc nhìn lại vai trò của Khoa học và các nhà khoa học trong lịch sử cuộc Cách mạng Khoa học Kỹ thuật lần thứ nhất và cuộc Cách mạng tư sản Pháp, có lẽ không phải không hữu ích. Cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa khoa học vị khoa học và chủ nghĩa duy thực dụng thời ấy đã được đặt ra để rồi vai trò của các nhà khoa học trong xã hội, trong nghiên cứu và giáo dục, cũng như quan hệ của họ với chính quyền, đã được định hình một cách hợp lý và ổn thoả. Ngoài vị trí xã hội và điều kiện vật chất cần thiết để các nhà khoa học hoạt động hiệu quả, những nguyên tắc đạo lý cần thiết cho tinh thần khoa học, như sự trung thực, sự tự do nghiên cứu và sáng tạo, cơ chế dân chủ... cũng đã được thực tế chứng minh là hữu ích cho mọi công dân trong công cuộc xây dựng một đất nước hạnh phúc và hùng mạnh. Điều này không xa những vấn đề trong giáo dục và nghiên cứu của chúng ta hiện nay.
Nước ta vừa gia nhập WTO, bước vào một cuộc chiến mới, tuy trong hoà bình nhưng tình thế cũng khẩn trương không kém giai đoạn giữ nước của nền Cộng hoà Pháp, trong đó các nhà khoa học đã đóng một vai trò quyết định. Thêm nữa trong thời đại ngày nay yếu tố tri thức còn quan trọng hơn thời ấy nhiều. Vì thế tinh thần và phương pháp khoa học đích thực, trái ngược hẳn với thói háo danh và đội cao bằng cấp quá đáng 31, phải được tôn trọng và phát triển trong hệ thống giáo dục từ nhỏ tới lớn.
Hà
Dương Tuấn
Paris, tháng 10.2006
Chú thích
1 Vì tầm nhìn của người viết có hạn, chữ "khoa học" trong bài này chỉ nói về khoa học tự nhiên.
2 Xem thêm : Colin Ronan : Histoire mondiale des sciences, bản dịch của Claude Bonnafont, nxb Seuil, 1988 (nguyên tác tiếng Anh : The Cambridge Illustrated History of the World's Science, nxb Newnes book, 1983) ; chuơng 8 : les XVII et XVIII sìècles.
3 Xem thêm : Jean-Pierre Rioux : La Révolution Industrielle 1780-1880, nxb Seuil, Paris 1971, 1989 (nouvelle édition) ; chương 2 : techniques et circulation nouvelles.
4 Hai cuộc điều tra dân số đầu tiên ở cả Anh và Pháp đều được thực hiện năm 1801 : khi đó dân số Pháp là khoảng 28 triệu, dân số Anh khoảng 12 triệu. Từ đó ước lượng ngược thời gian một cách gián tiếp (và không chính xác lắm) theo các tỷ lệ sinh/tử và tuổi thọ trung bình... cho thấy dân số Pháp đầu thế kỷ 17 là khoảng 18 triệu, dân số Anh đầu thế kỷ là khoảng 5 triệu. Nguồn : các từ điển bách khoa Encyclopedia britanica và Wikipedia.
5 Louis XIV (số la mã) là tên chính thức ; người Pháp không ai viết "Louis 14", tên các vua sau cũng thế. Thêm nữa người Pháp chỉ gọi vua bằng tên riêng, những người khác được gọi bằng họ, nếu không là họ hàng hoặc bạn bè.
http://www.cefi.org/cefinet/donn_ref/histoire/histoire.htm
7 Trường này nổi tiếng nhất thời đó về toán học và công nghệ, có các giáo sư như Monge, học viên như Coulomb, Lazard Carnot...
8 Vì Napoléon là tên riêng, người Pháp dùng chữ "Bonaparte" để chỉ Napoléon Bonaparte khi ông chưa đăng quang làm "Napoléon" Đại đế, và "Napoléon Bonaparte" khi không phân biệt. Bài này cũng viết theo thông lệ ấy.
9 Xem : R. Hahn : Scientific careers in Eighteenth-century France, ; và M. Crosland : Development of the professional career in science in France ; hai bài này đều trong cuốn The emergence of science in Western Europe, Maurice Crosland chủ biên ; Macmillan Press, 1975.
10 Manuel d'histoire littéraire de la France, tập III, tr. 66 ; Pierre Abraham và Roland Desné chủ biên ; nxb Editions Sociales Paris 1969
11
L'Education sous
l'Ancien Régime :
http://lionelcoutinot.club.fr/tps/ch4b.html
12 Trừ khi có ghi chú khác, các thông tin trong các chương 2, 3 và 4 của bài này được trích từ tác phẩm : Naissance d'un nouveau pouvoir : Sciences et savants en France 1793-1824 (938 tr.) ; Nicole et Jean Dhombre, nxb Payot, Paris 1989. Để cho gọn các quy chiếu về tác phẩm này sẽ được viết là [NJD, tr.xxx].
13 Còn nhiều điều nhỏ hơn có thể phê phán nữa, vì dĩ nhiên con người chính trị của Đại đế cũng thay đổi theo chiều phản động, vừa do bản thân, vừa do phải tính đến những thế lực khác trong xã hội. Nhưng như thế sợ lạc đề mất.
14 Tiếng Pháp : "sciences et arts" nhưng chữ "art" thời ấy có nghĩa thủ công nghệ và công nghệ.
15 Thư ký vĩnh viễn của Hàn lâm viện khoa học, nhà quý tộc nghiên cứu toán học, trong nhóm làm Bách khoa từ điển, nhưng không chia sẻ tất cả các quan điểm của Diderot.
16 Không phải là chế tạo một cách thủ công cho các vương hầu đi săn bắn hay cho những kiêu binh trong đội "ngự lâm pháo thủ", mà là sản xuất đại trà cho một đội quân đông đảo, cần hàng trăm ngàn khẩu súng mỗi năm.
17 Cha của Nicolas Sadi Carnot, người khám phá nguyên lý nhiệt động học. Lazare Carnot tốt nghiệp trường kỹ sư công binh Mézières, trước khi chuyển sang quản lý hậu cần cho chiến tranh ông có những công trình nghiên cứu về máy móc, mà người con nối nghiệp một cách xuất sắc.
18 Một nhà sáng chế bẩm sinh, hiện không ai tìm ra Conté đã tự học hành thế nào, chỉ biết khi cách mạng nổi lên thì đã được Lazare Carnot giao nhiệm vụ hoàn thiện khinh khí cầu và huấn luyện đội ngũ sử dụng khinh khí cầu. Sau này Conté còn được Bonaparte cử vào Học viện Ai Cập (xem đoạn 4.1).
19
[NJD, tr.74], và
http://fr.wikipedia.org/wiki/Académie_des_sciences_morales_et_politiques.
Ngày nay "Institut Nationnal" được gọi là
"Pháp quốc Học viện" (Institut de France), và bao
gồm 5 Hàn lâm viện khác nhau.
20 Điều này không ngược lại với việc họ rất hữu ích cho chiến tranh, chẳng hạn đã làm được thuốc súng ngay tại chỗ, và cơ xuởng của Conté đã giải quyết nhiều vấn đề về dụng cụ quân sự cũng như khoa học thiết thực... những việc này cũng được báo cáo trong Học viện Ai Cập, nhưng nếu chỉ có vậy thì không cần chừng ấy người như thế.
21
Theo Francine Masson, L'expédition
D'Egypte ;
http://www.annales.org/archives/x/ABC.html.
Số quân và tàu bè
nói ở trên cũng vậy. Có tài
liệu khác viết 148 bác học, cũng như
có tài liệu khác viết 32000
quân và 400 tàu bè.
22 Đãi ngộ cao hơn hẳn khi ở nhà, sự quyến rũ của phiêu lưu, hy vọng và tin tưởng nơi Bonaparte.
23 Mỗi phân viện được dự trù đồng đều 12 người, nhưng chỉ có toán là đầy đủ [NJD, tr.113]. Truyền thống trọng toán học của Pháp đã có từ ngày ấy !
24 Xem Francine Masson, L'expédition d'Egypte.
25 Bia đá này bị hải quân Anh chiếm giữ, hiện được trưng bày tại Viện bảo tàng Anh quốc (British Museum)
26 Xem : Maurice Crosland : La science et le pouvoir de Bonaparte à Napoléon III ; nguyệt san La Recherche số 71, tháng 10.1976.
27
Xem :
http://www.culture.gouv.fr/culture/actualites/celebrations2004/Institut.htm
28 Chữ
"Đại học" ở đây không như ta hiểu trước
đó và hiện nay. Cả nước Pháp
là một "Đại học" bao gồm nhiều "académies"
(đây lại là một cách hiểu
khác của từ académie) mỗi académie
là một liên kết chặt từ cấp tiểu học trở
lên đến các khoa trong một vùng. Người "Đại học Đại sư phụ
" (dịch chữ "Grand-maître de l'Université") đơn
giản là một Bộ
trưởng bộ giáo dục phụ trách tất cả
các cấp học, trừ các trường kỹ sư. Nguồn :
http://fr.wikisource.org/wiki/Décret_portant_organisation_de_l'Université
29 Chuyện trở về này cũng ly kỳ : Sau khi Bonaparte bí mật về Pháp trước để đảo chính, chức tư lệnh trao lại cho Kléber. Rồi Kléber bị ám sát. Fourier quyết định đưa cả đoàn bác học lẻn về Pháp trước. Tàu của đoàn bác học bị một tàu Anh lúc ấy đang bủa vây Alexandrie bắt gọn. Nhờ tài ngoại giao của Fourier và nhờ thuyền trưởng tàu Anh cũng là một nhà toán học tài tử nên cả đoàn được tha về Alexandrie, chỉ Fourier bị giữ mấy ngày làm con tin / thượng khách ! ông này chỉ "xin" các bản thảo toán học mà Fourier luôn luôn đem theo mình [NJD, tr.141].
30
Eric Sartori : Napoléon
et ses savants, l'expédition d'Egypte, tiết mục
ngày 03.06.2004 của chương trình vô
tuyến truyền hình Master class :
http://www.science-television.com/
31 Thiển nghĩ, chỉ trích sự "tôn trọng bằng cấp" là không chính xác, cần tôn trọng bằng cấp đúng với vai trò và vị trí của nó, nếu nó có nội dung đích thực, và nếu người có bằng cấp phấn đấu thường trực để xứng đáng với nó. Điều này chỉ có thể có nếu xã hội cũng tôn trọng mọi khả năng khác của con người, được xác định qua những hình thức khác mà không cần định vị thông qua bằng cấp. Đội cao bằng cấp dỏm hay đã "quá đát" mới là vấn đề, chuyện ấy chỉ có thể được giải quyết nếu câu "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" trở thành hiện thực phổ quát..
Erratum : ngày Hội nghị Quốc ước ra nghị định cưỡng bách giáo dục cấp tiểu học là 19.12.1993 (29 frimaire an II) chứ không phải ngày 29.12.1994 như tác giả đã ghi nhầm. Xin cáo lỗi. (HDT, 15.11.2007)
Các thao tác trên Tài liệu