Bạn đang ở: Trang chủ / Nhân vật / Andrée Vĩnh San (1945-2011) con gái út của vua Duy Tân

Andrée Vĩnh San (1945-2011) con gái út của vua Duy Tân

- Nguyễn Ngọc Giao — published 31/01/2011 23:51, cập nhật lần cuối 19/11/2016 11:37
tử nạn trong một trận lở núi sau mưa lũ

Con gái út của vua Duy Tân tử nạn



Andrée Marie VĨNH SAN
(1945-2011)



Nguyễn Ngọc Giao



Chiều nay (chủ nhật 30.1.2011) trở về Paris từ Istanbul, Thổ Nhĩ Kì, thì tôi được tin Andrée Marie Vĩnh San, người con gái út của vua Duy Tân (Nguyễn Phước Vĩnh San) đã tử nạn ngày hôm qua, 29.1.2011, tại Saint Denis, thủ phủ của đảo La Réunion, tỉnh "hải ngoại" (DOM) của nước Pháp, nằm giữa Ấn Độ Dương.


amvs

Andrée Marie VĨNH SAN tại La Réunion (© Nguyễn Duy 2008)


Có những sự liên tưởng, trùng hợp dù không tin nhảm cũng vẩn vơ nghĩ ngợi. Tuần qua đi một vòng nhỏ ở Thổ Nhĩ Kì, từ phần châu Âu của Istanbul theo bờ biển Marmara về phía tây, băng qua eo biển Dardanelles sang phần đất châu Á, đi thăm Assos, Troia (với con ngựa gỗ thần thoại), Bergamme, Bursa, rồi qua eo biển Bosphore để trở lại khu nhà cổ Istanbul, với những tháp gọi cầu nguyện (minaret) chọc trời... tôi hay để ý đến những khu nhà mới. Mái nhà thường có những tấm pin mặt trời và những thùng chứa nước nóng : Thổ Nhĩ Kỳ không có dầu mỏ (ét xăng ở đây thuộc loại đắt nhất thế giới), nên cố gắng dùng năng lượng tái tạo như ánh sáng mặt trời và sức gió để sản xuất điện. Cảnh tượng ấy làm tôi nhớ lại đảo La Réunion mà tôi có dịp đi thăm hồi tháng 6 năm 2008 cùng với đoàn làm phim của nhà biên kịch Nguyễn Hồ. Tại "vùng hải ngoại" này của nước Pháp, ông Paul Vergès (thủ lĩnh Đảng cộng sản La Réunion, nhiều nhiệm kỳ làm chủ tịch hội đồng vùng) đã tận dụng mặt trời, gió biển Ấn Độ Dương, và bã mía để đi tới tự túc về điện mà không cần nhiên liệu hay hạt nhân. Cũng chính tại đây, chúng tôi được gặp hậu duệ của hai vua Thành Thái và Duy Tân, trong đó có bà Andrée Marie và ông Jean Luc. Cả hai đều là cháu nội của vua Thành Thái, Andrée Marie Gisèle là con gái út của vua Duy Tân, Jean Luc là con trai của hoàng thân Vĩnh Chươn (em trai của Vĩnh San, tức là cựu hoàng Duy Tân).


Trên đường từ sân bay Orly về nhà, bản tin của đài France-Inter lúc 15g cho hay ngày mai, thứ hai 30.1.2011, nhiều trường học ở La Réunion sẽ phải đóng cửa vì mưa lũ. Rồi điện thoại reo : từ Việt Nam, chị Tố Nga (người tổ chức chuyến đi năm 2008 của chúng tôi) báo tin Andrée Marie tử nạn, nhắn tôi về tới nhà thì mở ngay thư điện tử của anh Nguyễn Hồ. Thay mặt anh chị em trong đoàn quay phim Đi tìm dấu tích Ba Vua, anh Hồ yêu cầu tôi tìm cách gửi vòng hoa phúng viếng người đã khuất và chia sẻ nỗi đau của dòng họ Nguyễn Phước ở Saint-Denis.


Tôi vội gọi điện ngay cho ông Georges Vĩnh San (Nguyễn Phước Bảo Ngọc), trưởng nam của vua Duy Tân, được biết em trai ông, nhạc sĩ Claude Vĩnh San (tên Việt Nam là Nguyễn Phước Bảo Vang), đang ở Saint Denis và sẽ lo tang lễ cho em gái. Qua điện thoại, Bảo Vang cho biết mấy ngày qua mưa lớn ở đảo -- đảo La Réunion thực ra là một quả núi lửa mọc lên từ đáy biển, cao 7000 mét, đỉnh của hòn đảo cao 3000 mét so với mặt biển, người dân La Réunion sống chủ yếu ở vành đai chân núi, một số nhỏ ở sườn núi -- nhiều chỗ núi lở, bùn đất và đá vụn đổ sập từng mảng. Ngày 29.1, Andrée Marie từ nhà ra vườn, đúng lúc sườn núi ven vườn lở xuống, bùn đổ ập xuống vườn, chôn sống người phụ nữ bất hạnh ấy. Đám tang, lẽ ra tổ chức vào ngày mai, 31.1, được hoãn tới trưa ngày thứ tư 2.2 (nghĩa là ngày 30 tết Tân Mão) để con trai của bà, đang sống ở đảo Guadeloupe (Trung Mĩ) bay về kịp.


Chị Andrée Marie -- tôi xin phép được gọi người đã khuất là chị -- đúng là người bất hạnh. Khi nghe chị Tố Nga nhắn trong điện thoại, nói đến tên Marie Andrée, tôi hình dung ngay ra chị, người đàn bà nhỏ nhắn, ăn nói nhỏ nhẹ, có đôi mắt u buồn. Chị ra đời vào ngày mồng một tháng 12 năm 1945 tại Saint-Denis. Mẹ chị là bà Ernestine Maillot (sinh năm 1924). Bà Maillot là người phụ nữ thứ ba (1) ở La Réunion có con với "hoàng tử Vĩnh San" (như người ta vẫn gọi vua Duy Tân từ ngày ông và vua cha Thành Thái bị lưu đày từ năm 1916). Ngày ấy, cha chị đang ở Paris. Ông rời La Réunion từ ngày 5.5.1945 khi bà Maillot có mang được hơn hai tháng. 


vinhsan

Vĩnh San phát biểu trong một cuộc mit-tinh của Mặt trận Bình dân tại La Réunion (1936)


Qua hồ sơ lưu trữ ở Aix-en-Provence (Trung tâm lưu trữ Hải Ngoại CAOM) và Fondation Charles de Gaulle (Paris), và các công trình nghiên cứu, đặc biệt của E. P. Thébault (2) và F. Turpin (3), ngày nay người ta biết rằng tướng De Gaulle đã nghĩ tới một "giải pháp Duy Tân" cho vấn đề Đông Dương. Từ đầu năm 1945, ông chỉ thị đưa Duy Tân từ La Réunion về chính quốc để tham gia vào lực lượng "Pháp Tự Do" sang giải phóng nước Đức, nhưng chỉ thị của ông bị bộ máy thực dân trong Bộ thuộc địa cản trở. Mãi đến ngày 5.5.1945 quân lệnh mới tới Saint-Denis. Duy Tân lên đường ngay. Nhưng khi ông còn bay trên trên bầu trời Phi Châu, Đức quốc xã đã đầu hàng. Ý đồ ban đầu không thành, tướng De Gaulle vẫn chỉ thị đưa hoàng thân Vĩnh San tham gia một sư đoàn Pháp chiếm đóng nước Đức, rồi sang tháng 10, triệu ông trở lại Paris. Ngày 29.10.45, thăng cấp vượt bực từ chuẩn úy lên thiếu tá (tiểu đoàn trưởng). Ngày 14.12.1945, tướng De Gaulle tiếp Vĩnh San trong vòng nửa tiếng đồng hồ tại trụ sở "Bộ chiến tranh" (tức là Bộ quốc phòng, phố Saint-Dominique, quận 7 Paris). Cuộc gặp tay đôi, không có người thứ ba, không có biên bản. Hai người nói với nhau những gì, lập trường của họ có xích lại gần nhau không, không ai biết. Chỉ biết rằng lập trường công khai (trước đó, và sau đó) của De Gaulle vẫn là "Liên bang Đông Dương" với "5 xứ : Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào, Campuchia", còn lập trường của Duy Tân là dứt khoát xóa bỏ sự chia cắt Việt Nam thành "3 kỳ" (4). Sau này, trong "Hồi ký chiến tranh", tướng De Gaulle viết ngắn gọn :


"Nhắm tới những mục phiêu hữu ích, tôi nuôi dưỡng một ý đồ bí mật. Đó là cung cấp cho cựu hoàng Duy Tân những phương tiện để xuất hiện trở lại, nếu như người cùng hoàng tộc với ông và kế tục ông, là Bảo Đại, rốt cuộc bị thời cuộc bỏ lại đằng sau. Duy Tân đã bị nhà cầm quyền Pháp truất ngôi năm 1916 và đưa sang đảo La Réunion, nhưng trong cuộc chiến tranh vừa qua, đã muốn phục vụ trong quân đội của ta. Ông mang quân hàm thiếu tá. Đó là một con người có nhân cách mạnh mẽ. Ba mươi năm lưu đày vẫn chưa xóa mờ trong tâm tưởng của nhân dân An Nam những ký ức về vị vua này. Ngày 14 tháng 12, tôi tiếp ông (Vĩnh San) để xem, mặt đối mặt giữa hai người, chúng tôi có thể cùng nhau làm gì. Nhưng bất luận sau này chính phủ của tôi sẽ đi tới thỏa thuận với ai, tôi vẫn dự định là sẽ đích thân sang Đông Dương để công bố thỏa ước một cách long trọng nhất ở thời điểm thích ứng" (5).


Về phần Duy Tân, chúng ta chỉ có chứng từ của ông E. P. Thebault. Theo tác giả này, hoàng thân Vĩnh San tỏ ra rất lạc quan, và chuẩn bị tháng ba 1946 sẽ cùng đi với tướng De Gaulle về nước. Với lập trường dứt khoát mong muốn độc lập và thống nhất một bên, và chủ trương thực dân kiểu mới (6) một bên, khó tưởng tượng rằng hai người đã thông hiểu và đi tới một thỏa hiệp nào. Có nhiều khả năng là cuộc gặp gỡ đầu tiên (và cuối cùng) này đã cho phép mỗi người đánh giá nhân cách của người kia, đồng thời cho mỗi người nuôi dưỡng hi vọng sẽ lợi dụng được người kia để thực hiện ý đồ của mình. Tất nhiên, 61 năm sau, chúng ta không thế viết lại được lịch sử. Vả lại, lịch sử đã không để cho mỗi người thực hiện ý đồ của mình : một tháng sau, tướng De Gaulle phải từ chức chủ tịch hội đồng bộ trưởng, bắt đầu cuộc "hành trình qua sa mạc" kéo dài hơn 12 năm trời. Còn thiếu tá Vĩnh San, trước khi thực hiện cuộc hồi hương sau 30 năm lưu đày, đã lên đường bay về La Réunion để thu xếp việc riêng, thăm vợ con, thăm đứa con gái vừa ra đời. Máy bay cất cánh ngày 24.12.1945 từ Paris đến Alger. Ngày 26.12.1945, hồi 18g30, trên đường từ Alger gần tới Bangui, chiếc phi cơ Lockheed Lodester (loại C-60), kí hiệu F-BALVh đâm vào rặng cây trên đồi cao, 2 phi công và 6 hành khách đều tử nạn (7). Trong số 6 hành khách, có một phụ nữ, hai quân nhân. Một trong hai quân nhân ấy là thiếu tá Vĩnh San.


Ngày 27.12.1945 ở Saint-Denis, đảo La Réunion, cô bé Andrée Marie chưa đầy tháng, chắc vẫn nằm nôi ở nhà với mẹ, bà Maillot. Các anh chị của cô, con bà Antier, cùng đại gia đình và thân thuộc ra nhà ga Saint-Denis đợi chuyến xe lửa sẽ đi từ sân bay La Possession về thủ phủ đảo La Réunion. Họ đợi rất lâu, cuối cùng được đưa về nhà và báo tin hoàng thân Vĩnh San đã tử nạn chiều hôm trước ở Oubangui. Georges (Bảo Ngọc) năm ấy 12 tuổi, Claude (Bảo Vang) 11 tuổi.


Trung tuần tháng 6.2008 chúng tôi bay đến đảo La Réunion, đoàn quay phim và ông Claude Vĩnh San. Tại Saint-Denis, ông Jean-Luc Nguyễn Phước tổ chức một buổi họp mặt đại gia đình Nguyễn Phước, hậu duệ của vua Thành Thái hiện có mặt ở đảo. Chính trong buổi họp ấy, chúng tôi đã gặp và phỏng vấn chị Andrée. Ngày hôm sau, chị đi cùng Jean Luc và chúng tôi ra nghĩa trang viếng mộ thân sinh Jean Luc, hoàng thân Vĩnh Chươn. 


Những người anh em họ ấy, cháu nội của vua Thành Thái, đều sống một cuộc sống cần cù, thanh bạch. Khác với vua Hàm Nghi bị đi đày ở Alger trước đó, hàng năm được trợ cấp 25 000 francs, có thể vay trước để xây biệt thự khá khang trang trên đồi El Biar. Tại La Réunion, Vĩnh San phải làm nghề sửa máy thu thanh, và cũng như em trai, làm nài ngựa (hai ông đều giành được nhiều giải đua ngựa). Vĩnh Chươn nối nghiệp cha, làm xưởng chữa máy xe hơi. Sửa máy thu thanh, Vĩnh San còn là người chơi vô tuyến điện, có máy phát và thu thanh. Chính với chiếc máy này, ông là người đầu tiên nghe được và truyền bá lời kêu gọi kháng chiến ngày 18.6.1940 của thiếu tướng De Gaulle.


cavs

Claude và Andrée Vĩnh San (© Nguyễn Duy 2008)


Jean Luc Nguyễn Phước là hiệu trưởng một trường trung học cơ sở, còn Andrée làm việc cho công ti điện lực EDF. Như đã nói ở đầu bài, kế hoạch năng lượng lớn của ông Paul Vergès (8) là La Réunion tự túc về điện nhờ ánh sáng mặt trời, gió biển Ấn Độ Dương và biogaz lấy từ bã mía. Chị Andrée, giữa những kỉ niệm tuổi thơ về người cha mà chị chỉ biết qua các anh chị cùng cha khác mẹ và những người em họ lớn tuổi hơn (tôi có cảm tưởng họ cũng rất thương chị, một phần chính vì chị không được biết cha mình), chia sẻ với chúng tôi những quan tâm của chị về bảo vệ môi trường. La Réunion giàu ánh nắng và gió, có một hệ thực vật và động vật của một hải đảo trước thế kỉ 16 không có người ở, ngoài ra chẳng có tài nguyên gì đáng kể. Bãi cát và vành san hô cũng hầu như không có, thua xa đảo Maurice gần đó, không dễ thu hút du khách. Núi lửa còn "sống" tất nhiên có sức thu hút, nhưng cũng lại nguồn tai họa. Từ ngày kênh đào Suez hoạt đọng, tàu thuyền đi lại giữa châu Âu và châu Á không qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi), đường hàng hải quốc tế do đó cũng không qua La Réunion nữa. Trong cuộc nói chuyện gần ba giờ đồng hồ với chúng tôi, ông Paul Vergès say sưa phác họa cho chúng tôi kế hoạch tương lai. Triển vọng trước mắt còn có thể đen tối hơn : trái đất nóng lên, băng sơn Bắc Cực sẽ tan thêm, đường hàng hải giữa châu Âu và châu Á cũng sẽ bỏ rơi kênh Suez mà đi theo bờ nam châu Bắc Cực, ngắn hơn mấy ngàn ki lô mét. Vậy tương lai của đảo La Réunion sẽ ra sao ? Ở tuổi tám mươi ba, nhà lãnh đạo có khuôn mặt và dáng dấp của một nhà hiền triết phương Đông ấy lại rất lạc quan : Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), Đông Nam Á và Nam Á sẽ là một trọng tâm của kinh tế thế giới Thế kỉ XXI, còn nửa nam Châu Phi là nguồn tài nguyên khổng lồ của hành tinh, La Réunion ở giữa con đường biển nối liền hai cực ấy, Le Réunion phải chuẩn bị để thành địa điểm "không thể đánh vòng" trên hải trình giao thương ấy. Viễn mơ không tưởng chăng ? Không phải, chắc chắn không phải, khi ta biết rằng trong hai thập niên qua, ông đã lèo lái như thế nào, tranh thủ như thế nào để được cả phe đối lập phái hữu (mà đại diện là bà Magie Sudre, cũng mang dòng máu Việt Nam) cũng phải ủng hộ nhà chính trị phái tả -- thậm chí cực tả -- để vận động ngân sách chính quốc và ngân sách Châu Âu tài trợ cho những đại công trình năng lượng và giao thông vận tải. Con người ấy kết hợp được óc thực tiễn, khéo léo chính trị và tầm nhìn chiến lược 40-50 năm, gắn liền quan tâm về đời sống người lao động với quan tâm về môi trường sinh thái. Tất nhiên, con người xuất chúng ấy cũng không cưỡng lại được thời gian và sự xói mòn của quyền lực : mới đây, ông đã thất cử trong cuộc bầu cử hội đồng vùng.


Thân sinh Paul và Jacques Vergès (8) là bác sĩ, sinh trưởng ở Saint-Denis. Ông Raymond Vergès đã làm việc ở Nam Lào và đông bắc Thái Lan : chính tại đó ông đã tái hôn với một nữ giáo viên Việt Nam và sinh hai con trai trước khi trở lại đảo, làm giám đốc y tế La Réunion. Paul Vergès kể lại, nhà ông ở khu bệnh viện, sát bệnh viện tâm thần lúc đó bỏ hoang, và năm 1942, thống đốc đảo (theo Pétain) đã an trí Duy Tân. "Đứng trên ban công, nhìn sang sân bệnh viện bên cạnh, tôi nhớ còn trông thấy hoàng thân Vĩnh San thường hay đi bạch bộ trong những ngày ông bị giam cầm". Vua Duy Tân đã tham gia kháng chiến Pháp. Chàng thanh niên Paul Vergès sang Anh gia nhập quân đội đồng minh (lực lượng nhảy dù). Sau khi giải phóng, mang quân hàm trung úy, anh không chịu đi tái chiếm Việt Nam, trở về đảo, hoạt động chính trị, thành lập Đảng cộng sản La Réunion (PCR). Lần đầu tiên Paul Vergès đặt chân đến Việt Nam là vào đầu tháng 9 năm 1969, khi ông dẫn đầu đoàn đại biểu PCR dự đám tang chủ tịch Hồ Chí Minh.


La Réunion là một hòn đảo nhỏ, dân số chưa tới một triệu người. Hai con người có một phần huyết thống Việt Nam ấy, Andrée Vĩnh San và Paul Vergès chắc có dịp gặp nhau, tuy không nhiều. Ít nhất một lần : lễ khánh thành chiếc cầu lớn và đại lộ mang tên "Prince Vinh San" của thủ phủ Saint-Denis. Nhưng họ gặp nhau trong mối quan tâm chung : môi trường sinh thái của hải đảo, của vùng tây nam Ấn Độ Dương này.


Thật đau đớn khi được tin chị Andrée Vĩnh San đã từ trần do một thiên tai mà chị, cũng như nhiều người khác trên đảo, đã dành trí óc và tâm lực trong suốt bao năm để ngăn ngừa, chống trả, để giữ cho hòn đảo giữa đại dương này nguyên vẹn hệ sinh thái phong phú, độc đáo và vẻ đẹp hùng vĩ, thân thương.


Trưa ngày ba mươi tết, chị sẽ yên nghỉ dưới lòng đất của La Réunion. Réunion, tiếng Pháp, nghĩa là đoàn tụ. Hài cốt cựu hoàng Duy Tân, cách đây 14 năm, đã được an táng ở Huế. Thân xác họ chưa bao giờ gần nhau, nhưng ai chẳng nghĩ rằng giờ đây, 66 năm sau khi chào đời, cuối cùng chị Andrée Vĩnh San đã gặp cha, cha con đoàn tụ nơi cõi vĩnh hằng, ít nhất trong tâm tưởng của chúng ta, những người còn sống.


Nguyễn Ngọc Giao














(1) Vua Duy Tân chỉ kết hôn chính thức với một phụ nữ là bà Mai Thị Vàng (đầu năm 1916), khi ông còn ở trên ngai vàng. Năm 1916, ông bị đi đày cùng vua cha Thành Thái và bà Vàng. Qua hồ sơ lưu trữ ở Aix-en-Provence, chúng ta biết rằng hai cha con bất hòa với nhau, và hôn nhân của Duy Tân không êm ấm chút nào. Hai năm sau khi tới La Réunion, viện cớ bà Vàng không hợp thung thổ ở đảo,  Duy Tân yêu cầu nhà cầm quyền thực dân đưa bà về nước. Bà Mai Thị Vàng không có con, ở vậy cho đến ngày mất ở Huế. Tại Saint-Denis lần lượt sống với ba phụ nữ : Marie Anne VIALE (có với bà này một con trai là Armand), Fernande ANTIER (có với bà này 4 con gái và 4 con trai, trong đó có ông Georges, hiện sống ở Pháp, Claude hiện sống ở La Réunion, Roger, hiện sống hưu trí ở Nha Trang) và Ernestine MAILLOT (có với bà này một con gái, chính là Andrée Marie). Vì Duy Tân không hề ly dị với bà Vàng, nên mười người con của ông đều là con ngoại hôn, mang họ mẹ. Sau khi ông từ trần, với quân hàm thiếu ta Quân đội Pháp vừa giải phóng nước Pháp, nhờ sự vận động của bè bạn cựu hoàng, Tòa án Saint-Denis đã quyết định (ngày 22.07.1946) thừa nhận họ là con của "prince Vinh San" và họ có quyền mang họ của cha. Do đó các ông Georges, Claude, bà Andrée Marie (và mấy anh em khác) mang tên họ đầy đủ là Georges Vinh San, Claude Vinh San, Andrée Marie Vinh San (người con trai lớn, Armand Viale, sinh năm 1919, lúc đó đã trưởng thành, quyết định vẫn giữ họ của bà mẹ) (những thông tin về 10 người con do ông Claude Vinh San cung cấp trong cuốn tiểu sử DUY TAN Empereur d'Annam 1900-1945 exilé à l'Ile de la Réunion ou LE DESTIN TRAGIQUE DU PRINCE VINH SAN, nhà xuất bản Azalées Editions, 2001).


(2) Eugène Pierre THEBAULT, « Le tragique destin d'un empereur d'Annam, Vinh-San/Duy-Tân », trong France-Asie-Asia, số 200, 1er semestre 1970, trang 3-40.


(3) Frédéric TURPIN, De Gaulle, les gaullistes et l'Indochine 1940-1956, nxb Les Indes Savantes 2005.


(4) Le testament politique du Prince Vinh San, mai 1945 (Di chúc chính trị, tháng 5.1945, của Hoàng thân Vĩnh San, đăng trên nhật báo Combat, ngày 16.7.1947).


(5) Général De Gaulle, Mémoires de guerre, tome III, p. 230, Plon, Paris, 1959. Nhân đây, cũng nói thêm tại sao De Gaulle "biết" Duy Tân, khi mà bộ máy thực dân vẫn tìm đủ cách "om" cựu hoàng trong bóng tối ? Năm 1942, Duy Tân tham gia Hải quân "Pháp quốc Tự do". Trên một chiến hạm, ông gặp một sĩ quan tên là Alain de Boissieu. Năm 1944, de Boissieu trở thành sĩ quan tùy tùng (và sau đó, con rể) của tướng De Gaulle. Chính A. de Boissieu đã "tiến cử" cựu hoàng với lãnh tụ kháng chiến Pháp.



(6) Trách nhiệm của tướng De Gaulle và những người theo ông (tiếng Pháp gọi là "gaullistes") rất nặng nề trong cuộc chiến tranh Đông Dương (gây chiến và kéo dài). Có lẽ phải tới lá thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1966, Charles de Gaulle mới chừng nào tự phê về thái độ này và tỏ ra ủng hộ của đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam.


(7) Cái chết của Duy Tân cố nhiên đã đặt ra nhiều nghi vấn. Ông Thebault kể lại lời Duy Tân, theo đó "người của Anh" ngỏ ý tặng ông 30 triệu francs nếu ông từ chối về Việt Nam. Điều này khó tin vì ở thời điểm ấy Anh và Pháp dựa vào nhau để giữ thuộc địa. Môt giả thuyết khác là giới thuộc địa ở Nam Kì (cũng như bộ máy Bộ thuộc địa ở phố Oudinot, quận 7 Paris) chống lại mọi "giải pháp Duy Tân", nhưng cho đến nay, chưa có bằng chứng gì về một âm mưu ám sát ông. Cuộc điều tra của Bộ quốc phòng Pháp về vụ rớt máy bay kết luận là tai nạn.


(8) Paul Vergès sinh năm 1925 tại Udon (Thái Lan), em của luật sư Jacques Vergès (sinh năm 1924, nhưng theo giấy khai sinh chính thức thì họ là anh em sinh đôi). Xem tiểu sử đầy đủ trên Wikipedia.



Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us