Bác Hãn lên chùa
Bác
Hãn lên chùa
Cao Huy Thuần
Tôi
biết đạo Phật ở thời Lý trước hết là
nhờ đọc quyển Lý Thường Kiệt của bác
Hoàng Xuân Hãn. Ðọc
sách lúc
vừa lên trung học, thú thực tôi say
mê
những chương nói về chiến công hơn là
những trang bàn về gấm hoa của đạo Phật ở thời
độc lập cực thịnh này. Lớn lên, đọc lại
Lý Thường Kiệt, tôi mới thầm cám
ơn bác đã làm cho tôi hiểu
văn hoá
đi đôi với chính trị như thế nào,
nuôi
dưỡng dân tộc ra làm sao. Nhưng từ nhỏ cho đến
lớn, qua hai lần đọc sách, cảm tưởng của tôi
về bác Hãn không hề thay đổi : từ nhỏ,
tôi đã loáng thoáng thấy hai
phong cách
nơi tác giả, phong cách của một nhà
nho
và phong cách của một nhà khoa học.
Lần đầu
tiên tôi gặp
bác
Hãn là vài năm sau khi tôi
qua Pháp.
Lúc đó, phong trào chống đối của quần
chúng ở các thành phố cần sự hỗ trợ
tinh thần của trí thức ở bên ngoài,
tôi
với thầy Thiện Châu đến gặp bác tại nhà
bác ở Paris. Ôn tồn, nhã nhặn,
bác
lái câu chuyện qua lĩnh vực văn hoá,
và
chúng tôi ra về không đạt được điều
mình muốn mà bụng vẫn vui. Tôi biết
bác
đang đau mắt, và tự thâm tâm
tôi hiểu
được sự khắc khoải của một nhà nghiên cứu
muốn dành trọn đôi mắt yếu cho lý tưởng
của đời mình :
đọc sách. Tôi cũng biết bác
đã có
lần lỡ bước sang ngang với thời cuộc và từ đó
vĩnh viễn từ khước chính trị, vốn không phải
là lĩnh vực của bác và không
hợp
với con người của bác. Lúc đó,
tôi
hiểu bác một, bây giờ tôi hiểu
bác
trăm lần. Ai đã mê đọc sách
và
viết, cuộc đời chẳng còn cái thú
nào
khác, và ai đã đứng trên
đỉnh núi
của văn hoá, thấp làm sao mây
chính
trị bay là đà dưới chân. Bác
Hãn
là nhà nho treo ấn từ quan ; bác
Hãn
là nhà khoa học bách niên
giai lão
với khoa học.
Thế
rồi tôi thấy bác Hãn lên
chùa.
Khi chùa Trúc Lâm dựng lên,
tôi đã
thấy bóng bác. Rồi tôi nghe
nói bác
muốn để tro lại trong tháp của chùa khi khuất
núi. Nhà nho lên chùa ?
Ðúng là
tinh tuý của văn hoá Việt Nam ! Thời trẻ, nho
quỳ trước vua, trung hiếu tiết nghĩa. Bạc đầu, nho tìm
cửa Phật, sắc sắc không không. Nho chưa thấy
Phật lúc tuổi còn xanh vì con người
trong
Nho là con người xã hội ; Nho chỉ thấy
mình,
hiểu mình, và định nghĩa mình trong
quan
hệ với người khác : quan hệ họ hàng, quan hệ
làng nước, quan hệ đỗ đạt, quan hệ lễ nghĩa,
quân quân thần thần phụ phụ tử tử, cư xử
sao cho đúng vị trí của mình đủ
làm
người quân tử mệt phờ râu. Khi Nho hết quay
cuồng với hình bóng của mình trong con
mắt
của xã hội, lúc đó Nho mới giật
mình
nhận ra rằng mình có mối quan hệ khác
nữa mà mình không hay : quan hệ của
mình
với mình. Nhìn ai cũng dễ, nhìn
mình
mới khó ; nhưng đến một lúc nào
đó
rồi ai cũng phải nhìn mình, kể cả tên
sát nhân, và nếu nhìn giỏi
thì
chẳng thấy mình đâu nữa, chỉ thấy Phật.
Xuân
hữu bách hoa thu hữu nguyệt
Hạ
hữu lương phong đông hữu tuyết
Nhược
vô nhân sự quải tâm đầu
Tiện
thị nhân gian hảo thời tiết
Thấy mùa
xuân có trăm
hoa, thấy mùa thu có trăng. Thấy mùa
hạ
có gió lành, thấy mùa
đông có
tuyết. Này, ông nhà nho, giá
như ông
vứt quách đi trăm mối tơ vò lễ nghĩa cứng
nhắc trong đầu thì ông sẽ thấy hiện ra
cái
chuyện huyền diệu trước mắt : mùa nào thời
tiết cũng tốt hết. Nghĩa là ông thấy Phật.
Bác
Hãn lên chùa là chuyện dĩ
nhiên.
Bởi vì nhà nho nào rồi cũng
lên chùa.
Con người trong Khổng là con người cực động. Cực
động thì phải tìm đến tĩnh. Như cái vụ
quay tít đến một lúc sẽ đứng yên. Nhưng
đừng thấy nó đứng yên mà tưởng
nó
không quay. Cái vụ chỉ là
cái vụ khi
nó quay, và nó chỉ làm
tròn
nhiệm vụ của nó lúc nó đứng
yên.
Tận cùng của động là tĩnh, nhưng đừng tưởng
trong tĩnh không có động. Nhà nho biết
rõ
chuyện đó cho nên bác Hãn
lên
chùa. Mà bác lên
chùa vì bác
còn là nhà khoa học. Hơn ai hết,
nhà
khoa học nơi bác thấy rõ mối tương quan giữa
động và tĩnh, giữa xôn xao quay cuồng của
muôn
vàn tinh tú và sự sống bình
yên
kỳ lạ trên trái đất này và
chắc
hẳn trên ba vạn ba ngàn thế giới khác.
Bác
Hãn thường lên chùa những
lúc không
có ai. Bác một mình đến tủ
sách,
tìm sách đọc, thường là kinh chữ
Hán.
Tất nhiên là bác đọc như một
nhà
nghiên cứu. Bác đọc kinh như bác so
sánh
văn bản : câu này, chữ này ở ấn bản
này khác với câu kia, chữ kia ở ấn bản
khác, rồi bác xe chỉ luồn kim thế nào
mà
bỗng khám phá ra nguyên tác,
nguyên
nghĩa. Cứ thế mà bác phát hiện : chẳng
hạn tác giả Chinh Phụ Ngâm không phải
là Ðoàn Thị Ðiểm mà
là Phan
Huy Ích ; chẳng hạn Hồ Xuân Hương có
thời
là người tình của Nguyễn Du. Tôi
thán
phục tinh thần khoa học mà bác Hãn đưa
vào lĩnh vực nghiên cứu văn học, lịch sử.
Óc
suy luận khoa học của bác nhạy bén như mai
đón
gió xuân. Cùng đọc
Ðăng Khoa Lục cả, nhưng mấy ai nảy ra cái
ý đếm danh sách các vị tiến sĩ đầu
tiên của triều Nguyễn đỗ năm 1822 để khám
phá một chi tiết bất thường : tổng số các
vị tân khoa không giống với con số ghi trong
quyển sử. Thiếu một vị ! Tiến sĩ đầu triều chứ có
phải tiến sĩ giấy, tiến sĩ hữu nghị đâu ! Thiếu
ai vậy ? Từ nghi vấn đó, bác tra cứu sử liệu
để tìm cho kỳ được vị tiến sĩ bị xoá
tên trong danh sách. Bác tìm
ra, và
chờ đến khi hoà thượng Minh Châu
qua Pháp dự lễ Vu Lan năm ngoái mới kể giữa
buổi lễ tuyên dương chữ hiếu trong đạo Phật. Ông
Nghè bị đục tên là cụ Ðinh Văn
Phát,
đỗ tiến sĩ năm 22 tuổi, từ quan để vào Hà
Tiên nuôi cha bị đày ở đấy. Cụ
Ðinh
là tổ bốn đời của hoà thượng.
Tôi
nhìn bác Hãn đọc sách một
mình,
lặng lẽ, trong chùa. Bác đọc như một
nhà
khoa học ; bác đọc như một nhà nho.
Bác
đã đọc như vậy, trong tinh thần như vậy, khi viết
về đạo Phật ở thời Lý. Bác đọc từng tấm
bia ở Thanh Hoá trong thời gian tránh
máy
bay Ðồng Minh oanh tạc Hà Nội, và
bác
tìm được những tấm bia ghi công của Lý
Thường Kiệt đối với các chùa. Chưa bao giờ
bác nói bác là Phật tử.
Mà
cũng chẳng ai đặt vấn đề Phật tử với ai. Bác
cứ là nhà nho. Bác cứ là
nhà
khoa học. Cứ như thế bác viết về đạo Phật và
người Việt Nam cám ơn bác. Bởi vì cứ
lấy con mắt khoa học mà nhìn văn hoá,
nhìn dân tộc, thì sẽ thấy đạo Phật. Cứ
như thế, bác Hãn lên chùa.
Bác
lên chùa nhiều hơn tất cả mọi người, buổi
lễ nào cũng có bác. Bác
nói :
bác giữ "gốc nhà". Cứ giữ
gốc nhà thì cửa chùa mở ra trong
lòng.
Ðố bác tìm trong gốc đó
đâu là
Phật đâu là nho. Rồi từ từ đố bác
tìm
trong bác đâu là nho đâu
là
Phật. Mùa xuân năm bác tám
mươi ba
tuổi, trong một bài thơ đề tặng chùa
Trúc
Lâm, bác nói : giữa chốn phồn hoa, mỗi
lần bác lên chùa là cứ
có cảm
tưởng đã gội sạch tham sân si. Thế là
bác đã tu hơn mọi người rồi, tu thiền hẳn
hoi chứ không phải chỉ tu thân với đức Khổng.
Dạo
sau này, bác đi đứng khó khăn, nhưng
bác
vẫn chống gậy lên chùa, đọc sách.
Bác
góp phần lớn vào những sinh hoạt của
chùa,
trở thành một chỗ tựa tinh thần và văn
hoá
của chùa : Chúng tôi nhiều lần tổ chức
ăn cơm chay với bác tại chùa để nghe
bác
kể chuyện. Tôi chưa thấy ai có bộ óc
minh mẫn như bác, có trí nhớ đại
siêu
việt như vậy. Chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện từ đời
Lê, đời Lý, chuyện từ Hà Nội, Nghệ An,
chuyện trong triều đình, chuyện giữa dân gian,
bác kể từng chi tiết ngày tháng,
tên
từng người, từng trang sách, từng địa danh, từng
nhân chứng. Bác bưng chén cơm, tay
bác
run, bác cầm đũa gắp món ăn, đôi đũa
run trong lòng bàn tay, bác đặt
chén
cơm xuống, kể tiếp chuyện, quên chén cơm ;
tôi
gắp món ăn đặt vào chén cơm của
bác, giục bác ăn, bác bưng
chén cơm
lên
miệng rồi run run đặt chén cơm xuống bàn, kể
chuyện tiếp, quên ăn. Cả bữa ăn, bác ăn chưa
hết nửa chén, người quân tử ăn chẳng cầu
no, thực bất cầu bão. Nhưng chúng
tôi thì vừa no cơm, vừa no câu chuyện
của
bác. Dần dà, tôi thấy bác
không
còn là điểm tựa của chùa,
mà chính
chùa là điểm tựa của bác. Như lịch sử
đã dựa lưng vào chùa mà
đứng thẳng
lên từ thời Lý Thường Kiệt, bác dựa
lưng vào chùa với chúng tôi
để làm
người Việt Nam giữa chốn tha hương, để làm người
Việt Nam với hàng chục triệu người Việt Nam trên
đất nước. Dân tộc đã dựa lưng vào
chùa như vậy đến nỗi lưng nhẵn như đá.
Thời Ngô Ðình Diệm kiểm tra Phật tử,
tôi
nói đùa : muốn biết ai là Phật tử chỉ
cần vạch áo cho người xem lưng, lưng ai có da
và có xương sống thì người
đó
đích thị là Phật tử. Bây giờ cho
tôi
nói đùa thêm : người nào
lúc
thiếu thời có da trơn lưng nhẵn thì người
đó
có tổ tiên đã dựa lưng vào
chùa.
Bác
Hãn lên chùa, bác
Hãn đọc sách.
Tay bác run run lật từng quyển kinh. Sắc bất dị
không, không bất dị sắc, sắc tức thị
không,
không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức
diệc phục như thị. Nắng buổi chiều dọi lên
trang sách. Bóng chiều của cuộc đời đè
nặng trên vai bác như tay bác
đè nặng
trên chiếc gậy. Trời mới mưa xong, một chiếc cầu
vồng rực rỡ mọc qua cửa sổ của chùa. Nhìn
cầu vồng, đố ai biết đâu là sắc đâu
là không, đố ai vạch được biên giới
giữa màu lục với màu vàng, giữa
màu
hồng với màu tím. Màu này
tan lẫn
trong màu kia, bảo đó là
vàng cũng
không hẳn, bảo đó không phải
là vàng
cũng không xong, trong màu vàng
đã không
còn màu vàng nhưng vẫn còn
màu
vàng, nó đã là
không rồi nhưng
nó vẫn có đấy. Ba giờ sáng, tiểu dậy
tụng kinh, đố tiểu biết đâu là biên giới
của đêm, đâu là biên giới của
ngày,
đâu là bắt đầu ngày, đâu
là
chấm dứt đêm. Trong đêm bắt đầu không,
đã lãng vãng ngày bắt đầu
có,
nhưng ngày chưa có bởi vì
đêm cũng
chưa không. Mà đâu có cần
phải nhìn
trời đất lúc ba giờ sáng ! Giữa trưa
đúng
ngọ, đố tiểu dám nói chỉ có
ngày
mà không có đêm.
Không có
đêm, làm sao tiểu mới loay hoay lặt rau trong bếp
đã thấy tới giờ tụng kinh buổi chiều ? Hỏi tiểu
: tiểu có hay không ? chắc tiểu sẽ bảo
là
có, bởi vì tiểu đang thở, đang lặt rau, đang
tụng kinh. Nhưng chắc chắn tiểu đang là không,
tiểu đang vừa có vừa không, đang là
không
trong có. Bác Hãn ngồi đọc
sách,
vẫn là bác Hãn đấy mà
đã
không phải là bác Hãn rồi.
Tôi
nhìn bác run run lật từng trang kinh
và tôi
cũng chẳng thấy tôi còn là
tôi. Cái
lẽ không có có không
đó khiến
bác tựa lưng vào chùa. Cứ tựa lưng
vào
chùa thì có thể thách đố
với tất
cả mọi người : đố ai nói được một sự việc
gì trên đời này mà chẳng vừa
có
lại vừa không. Bất cứ sự việc gì, bất cứ
ý tưởng gì, dù ở trong đầu
óc, dù
ở trong lời nói, không thể ở trong trạng
thái
nào khác hơn là vừa không
vừa có.
Biết có, biết không, nên lịch sử
có
Lý Thường Kiệt. Có vua Trần. Lý Thường
Kiệt nói : Có ! Nam quốc sơn hà nam đế
cư. Cho nên chiến công hiển hách. Nhưng
vị vua nào không biết làm
thái thượng
hoàng, không học được chữ không ở giữa
chữ có, chưa hẳn là minh quân thịnh trị.
Tôi vào bệnh viện ngay khi nghe tin bác Hãn vừa mất. Nhìn bác nằm yên nhắm mắt, tôi thương bác mà nghĩ rằng chắc chắn bác không đi tìm ông Pasteur, ông Einstein, hoặc ông bác học, khoa học gia nào khác ; chắc chắn bác cũng không bay qua Trung Quốc, tìm đến Khúc Phụ để chầu ông Khổng Tử. Bác đi đâu ? Thì bác đã nói ngay từ khi còn sống, khi bác viết câu đối ghi trước tháp chùa Trúc Lâm :
Thể
gửi xứ người nương cửa Phật
Hồn
về đất Việt viếng quê nhà
Bác đi tìm ông Lý Thường Kiệt. Nhưng ông Lý Thường Kiệt thì có ai khác đâu là hồn của Phật nơi tinh tuý Việt Nam ?
Cao Huy Thuần
1996
Các thao tác trên Tài liệu