Bài Tưởng niệm anh Vũ Huy Quang
Bài Tưởng niệm anh Vũ Huy Quang
Thường Quán
Đó là một căn nhà tiền chế thời 50 nằm sau những siêu thị và siêu xa lộ anh dắt tôi về tay cầm một con cá mè người mẹ đón anh hỏi, Con về rồi đó à! anh nói, Con có bạn phương xa nên hôm nay con tính nấu ăn đây Mẹ nói, Ngồi với bạn con đi Anh nhấc chiếc phone màu đen quay ba bốn nơi “anh Nhật Tiến, Khế Iêm, Nguyễn hoàng Nam rồi sẽ cùng tới” giữa đó anh khoe tôi trại sáng tác một garage không xe, ngập sách theo trật tự nào giờ tôi không nhớ sách anh dịch, viết, anh không khoe chỉ miệng cười quái nghịch tặng khách (nhiều năm sau sách của anh tôi phải mua ở một tiệm sách sót) Tiệc bày ngoài hiên Mẹ làm móng gì nào, anh hỏi Ôi thế thì như đang ngồi Liêu Dương anh nói thế hay giờ tôi tưởng tượng nhưng bữa rượu Hưng là có thực như mắt anh cười, có đuôi, tinh luyện ròng rã thứ ngày giờ, bắt mạch, xem sao trời, đuôi sao chổi quét hướng nào để khởi thảo sáng ngày quang, chiều tối màu già Chiếc xe hung hung nâu một ngựa rề rà của anh dưới tán cây tâm ngẩm chờ một ý anh đề xuất: Làm cái gì cũng phải đi tới nơi, tới tận nơi Thấy, nghiền ngẫm, không phải chiêm bái Văn sách chứ nào phải là kinh. Ai nói anh không phục ai dưới mái nhà rầm gọi là cộng đồng và anh là đệ Tứ tôi nghĩ anh đệ Ngũ thời mọi thứ đều sáng trưng trên những hành lang, ngõ ngách thành phố. Anh nhìn toàn bộ khách và nói anh vừa nẩy ra ý hôm nào quán, nam, iêm, khiêm bốn nhà thơ ra thượng cờ mới giữa Bolsa cờ thơ (không màu) có được không ? Anh hỏi bốn mà hiện diện chỉ có ba làm sao có đồng thuận Chúng tôi quanh mâm thảo lư tất cả đồng cười Đó là bữa tiệc đột xuất vui nhất của chuyến thăm OC '95 sau này có dịp nhớ lại vẫn nhớ chung một gói cá mè siêu thị ta, gói trong giấy báo chợ rượu Hưng trong chai không nhãn không niêm tình chạy băng đường lộn xộn giữa bao biểu ngữ chào hàng dìu dập tựa vào trang nhì của Nguyễn tiết Thanh Minh & khi ra lấy xe ở car park tôi có dừng lại một chốc để ngó anh, không biết Tân Liêu Trai có thực và khu nhà mô-bin nào diệu hữu Đường Lên Trời và nhớ có tự ghi nhận anh là đại biểu tối ưu của kinh ruột Bôn Sa nằm ngoài những hiên chùa (sẽ xây) Hôm nay cạnh sách anh in Xuân Thu 1989, Đường Lên Trời xin bái
biệt anh, hẹn sau mây, chút tình
khuấy mây nước phố phường trí
tưởng tâm tưởng
kính mến Thường Quánmồng Tám, Giêng Đinh Dậu |
Ảnh : Phạm Việt Cường, theo Viễn
Đông
Một hậu từ
Một
nhà thơ và biên tập viên thơ
nhận được bài ‘Tưởng
niệm anh Vũ Huy Quang’ hỏi
thêm một chapeau, hảo ý ấy chắc
là để biết đâu sẽ giúp
độc giả bốn phương có thêm
thức để đọc, chứ chapeau gọi
kêu nhẹ nhàng kia tất không phải
nhắm giúp gì cho chuyện hiển minh,
soi rọi, bài đã gởi. Cái này
có vì có cái kia. Vâng, nên
xin thêm phần này, gọi là một
hậu từ.
Hôm buổi sáng đang ngồi xuống cỏ, gốc chanh, có ba bông hướng dương gieo trước Giáng Sinh giờ mới nở hai - hai bông hoa cực sáng nhỏ nhắn, nhỏ nhắn tới nỗi khách bạn vốn yêu hoa cỏ hôm qua vào vườn dù trời chiều còn sáng đã không thấy; tôi, bấy giờ buổi sáng, giữa lúc xoay qua tạm quên hướng dương, ngước lên trời, thì bỗng dưng ký ức tới, nó trở lại và tự động sắp xếp những hình ảnh như bài thơ đã tự trình bày. Bắt đầu là căn nhà. Thực ra bắt đầu gặp anh là một căn phòng: thư phòng của anh Khánh Trường, gác độc gian tòa soạn Hợp Lưu mà tôi tới trọ đôi ngày ba bữa nhân cuộc viếng thăm ‘thủ đô tỵ nạn’ hồi cuối năm 1995, đầu năm 1996. Vừa bước vào phòng đã nhận ra anh, như là đã gặp tự thời nào, thời người ta đang in những trang đầu Sử Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng, và Liêu Trai. Anh Vũ Huy Quang vào chuyện như nối một câu chuyện dang dở, nhẹ nhàng, khinh khoái, ấm và trầm (chứ không phải thâm trầm.) Giờ nhớ lại thì câu chuyện có nhắc tới hai nhân vật, một là chị Dương Thu Hương, mà nửa năm trước đó bất ngờ trong chuyến về Hà Nội , qua giới thiệu của anh Trần Văn Thủy (nhà làm phim, tác giả của Chuyện Tử Tế, Hà Nội Trong Mắt Ai), tôi đã được gặp, gặp cùng hai anh Hoàng Cầm và Lê Đạt. Mình đã gặp mà anh thì chưa, và vì thế mà có lẽ thấy anh nhìn xa xăm, và cười. Người thứ hai là Camille Paglia mà cả hai, chắc chắn, đều chưa gặp. Anh thích thú vì bạn cũng có đọc người này. Sự thích thú hiện rõ trên khuôn mặt điển trai của anh . Camille Anna Paglia đã gây hứng cảm hay chiều gọi bữa cơm, anh lập tức khởi xướng sự đi ra chợ. Anh Khánh Trường ngồi nghe nẫy giờ bận chuyện không chìu bạn, thế chỉ còn hai. Ra khỏi ngõ Song Long nhà anh Khánh Trường và anh Mai Thảo là ngay một siêu thị Việt Nam cỡ vừa, anh vừa tìm kiếm thức để nấu vừa giảng giải, những sự tích… Sự vui của một nhà văn, người kiến thức, người yêu trần gian tôi thấy cũng nhiều, nhưng ở anh có một cái riêng, nó bát ngát hóm hỉnh. Ai bảo anh khó tính ? Thì cũng có thể là vậy, nhưng cảm giác buổi ấy là anh thung dung. Anh thung dung và hào phóng, và dễ chịu. Căn nhà của anh đầy sách vở và toát ra một tình yêu văn chương, thứ tình thấy ở thêm vài căn phòng khác nữa trong chuyến đi ấy, hoặc ngỗn-ngang-sách, như của anh Khánh Trường; trật-tự-sách, như của anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ ; hay không-có-chỗ-cho-tàng-trữ-sách, như của anh Mai Thảo. Nhớ anh Vũ Huy Quang là nhớ lại cả Bolsa một thời kỳ, thời kỳ còn bộn bề sách.
Những năm về sau có dịp đi ghé qua Quận Cam nhiều hơn thì tiếc, anh đã dời lên Bắc Cali. Không chỉ đổi chỗ ở, anh còn làm như vắng mặt giữa mọi người. Hỏi, ít ai biết anh đã qui ẩn cho rõ ràng một nơi chốn nào. (Qui ẩn thì làm sao mà rõ ràng?) Anh đã thấy đầy đủ chuyện con người, hay anh đã tìm ra được một con người? Sự ấy có ngoài văn sách. Không thể đòi hỏi con người này một đóng góp nào hơn. Nói theo kiểu chuyện Tân Liêu Trai của anh, có lúc khách đi qua làng vắng, chỉ nghe tiếng nói không thấy ai, đi xa nữa thôi tiếng nói, chỉ gió; xa hơn nữa yên mặt gió, chỉ một bầu khí ánh sáng chứa sự phong nhiêu, tịch mịch, đây kia, trên nẻo khuất những bóng thấp thoáng, là người, là tiếng, là hương, là phong vị, nhưng mà xa lắm.
Gần gũi hơn, xin ghi lại tiểu sử nhà văn Vũ Huy Quang như sau đây:
Tiểu sử nhà văn Vũ Huy Quang
(theo
Hai Mươi
Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngọai,
NXB Đại Nam, 1995)
Gốc Làng Kìa
huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định
Sinh
năm 1942 tại Hải Phòng.
Di cư vào
Nam 1954.
Các bút hiệu khác: Diệu Phong, Tam Trương, Thăng Long Văn Sĩ
Viết
cho một số báo và tạp chí tại
hải ngoại: Làng Văn(Canada),
Thời
Luận, Chuông Việt, Độc Lập, Người
Việt, Diễn Đàn Tự Do Hoa Thịnh
Đốn, Đồng Nai, Văn Học, Hợp
Lưu (Mỹ, Thiện Chí, Cánh Én(Đức),
Diễn Đàn(Pháp)...
Tác
phẩm:
-
Nơi Trại Trừng Giới (dịch của
nhiều tác giả, Văn Nghệ 1988)
-
Đường Lên Trời (dịch của
nhiều tác giả, Xuân Thu 1989)
- Nhục
Bồ Đoàn(dịch, Xuân Thu 1990)
- Mười
Truyện Tân Liêu Trai (Tân Thư 1991)
- Câu Chuyện Triết Lý (1992)
- Chín
Truyện Ngắn (1992)
Các thao tác trên Tài liệu