Georges CONDOMINAS (1921-2011)
Georges
CONDOMINAS
(1921-2011)
Nhà dân tộc học Georges Condominas đã từ trần ngày chủ nhật 17 tháng 7.2011 tại bệnh viện Broca, Paris, thọ 90 tuổi. Condo -- giới khoa học xã hội trên thế giới quen gọi ông như vậy, người Việt Nam thì gọi ông (già) Công Đô, người Nhật Condo-san -- là một tên tuổi đầu đàn của ngành dân tộc học quốc tế, và rộng hơn của nhân học. Ông bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu dân tộc hoc ở Tây Nguyên, với làng Sar Luk của người Mnong Gar. Đây cũng là nơi ông phát hiện ra bộ đàn đá (lithophone) hiện được trưng bày ở Viện bảo tàng dân tộc học Paris. Là một nhà khoa học chân chính, Condo kiên trì ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc (Algérie với bản Tuyên ngôn 121, chiến tranh chống Mĩ của Việt Nam...). Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu sơ lược về tiểu sử và sự nghiệp của G. Condominas như chúng tôi đã trình bày khi ông nhận giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh tháng ba năm ngoái.
1. Đôi nét tiểu sử Georges Condominas
Sinh năm 1921 ở Hải phòng, bố người Pháp và mẹ lai Bồ Đào Nha - Trung
Quốc - Việt Nam.
Tuổi thơ, theo chân một người cha là hạ sĩ quan trong các cuộc công cán
ở Pháp, Tunisie và Việt Nam, hẳn ông đã tìm ra được niềm ham thích khám
phá từ đấy.
Ông đã đạt được nhiều văn bằng trong nhiều ngành khác nhau : cử nhân
luật ở trường đại học Hà Nội – nơi ông cũng theo học trường cao đẳng Mỹ
thuật – vào năm 1943, cử nhân văn chương rồi tiến sĩ khoa học học nhân
văn ở Sorbonne vào năm 1947 và 1970, văn bằng của Trung tâm đào tạo về
nghiên cứu dân tộc học ở Paris năm 1948, và cuối cùng văn bằng của
trường Cao đẳng thực hành Paris năm 1955.
Sau chiến tranh, Condominas theo học các khoá học của André
Leroi-Gourhan, Denise Paulme và Marcel Griaule ở Bảo tàng Nhân chủng
học cùng với Georges Balandier, Jean Guiart và Paul Mercier. Ông đã
theo dự các xê-mi-na của Maurice Leenhardt ở Trường Cao đẳng thực hành
Paris (EPHE).
Một thực địa khai mở : Sar Luk (Việt Nam)
Năm 1948, hai mươi bảy tuổi, ông tiến hành cuộc thực địa đầu tiên, theo
chủ trương của Cơ quan nghiên cứu khoa học ở thuộc địa (Orsc), về sau
sẽ trở thành Cơ quan nghiên cứu khoa học và kỹ thuật hải ngoại. Ông đã
đến Sar Luk, một làng của người Mnong Gar, trên cao nguyên Darlac (ngày
nay là tỉnh Đắc Lắc) ở miền trung Việt Nam. Ông đã cố gắng năm bắt một
cách trung thành nhất cuộc sống xã hội của ngôi làng này.
Từ cuộc nghiên cứu thực địa ở Sar Luk đã ra đời một công trình khoa học
phong phú đưa đến hai cuốn sách rất nổi tiếng : Chúng tôi ăn rừng đá
thần Gôo (Nous avons mangé la forêt de la pierre-génie Gôo) (1957) và
Kỳ lạ mỗi ngày (l'Exotique est quotidien) (1965).
● Chúng tôi ăn
rừng là một tác phẩm hết sức hiện đại được Maurice Nadeau,
Édouard Glissant và Claude Lévi-Strauss hết sức chú ý.
Khi nó ra đời, Claude Lévi-Strauss đã chào mừng tác phẩm này bằng những
lời hết sức nồng nhiệt : " Chúng
tôi ăn rừng đánh dấu sự đăng quang trong nền văn học dân tộc học của
một thể loại hoàn toàn mới, đặc trưng bởi sự gắn bó sâu sắc với thực tế
bản địa hơn tất cả những gì đã từng được toan tính trước nay "
● Kỳ lạ mỗi ngày
(1965) được xuất bản trong bộ sách Trái
đất của con người ở nhà xuất bản Plon, do Jean Malaurie chủ
trương.
CeDRASEMI
Condominas tiếp tục sự nghiệp dân tộc học của mình trong nhiều cuộc
nghiên cứu giữa những 1957 và 1960. Ông đã lần lượt là :
● nhà nghiên cứu của Orstom ở Togo và Madagascar.
● ủy viên thông tấn của Viện Viễn đông bác cổ trong các năm 1947, 1951
và 1954.
● phái viên của UNESCO ở Thái Lan, Lào và Cămpuchia.
Năm 1960 ông được bổ nhiệm làm giám đốc nghiên cứu ở chi nhánh của
trường Cao đẳng thực hành (Ephe) nơi năm 1962, cùng với André-Georges
Haudricourt và Lucien Bernot, ông đã thành lập Trung tâm tư liệu và
nghiên cứu về Đông Nam Á và vùng Insulien (CeDRASEMI), từ đó CeDRASEMI
sẽ là nơi tất cả các nhà nghiên cứu Pháp về khu vực văn minh này bắt
buộc phải đi qua.
Dấn thân đến cùng
Condo
và những người cùng ông gắn bó với Tây Nguyên : nhà dân tộc học Nguyễn
Văn Huy (bên trái), nhà văn Nguyên Ngoc, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Văn Kư
(ảnh do ông NVK cung cấp)
Đối với Condominas dân tộc học là một loại hình sống toàn vẹn chính nó biện minh cho những sự dấn thân của ông:
● thái độ chống chủ nghĩa thực dân càng quyết liệt hơn vì ông đã từng
tham gia vào nền cai trị thuộc địa (việc ông ký Tuyên ngôn 121 người),
Tuyên ngôn 121 người, với tiêu đề "Tuyên
bố về quyền bất tuân lệnh trong chiến tranh Algérie",
có chữ ký của các trí thức, các giáo sư đại học và nghệ sĩ và được công
bố ngày 6 tháng Chín 1960 trên tạp chí Sự thật-Tự do (từ Jean-Paul
Sartre đến nhà toán học Laurent Schwartz, qua nhà sử học Pierre
Vidal-Naquet...). Nó được hình thành từ hoạt động của nhóm phi chính
thức có tên là "Những người bạn của đường phố St-Benoît" do từ tên của
con đường có ngôi nhà của Marguerite Duras ở Paris. Nhóm này gồm
Maurice Blanchot, Dionys Mascolo, Edgar Morin, Robert Antelme, tất cả
đều là đảng viên cọng sản đã ra khỏi đảng năm 1956. Điều đó cho phép
tập họp những nhân vật thuộc nhiều xu hướng khác nhau trong một tinh
thần tự do và đúng ra là thiên về phía tả. Nó sẽ có tác động quyết định
đến tương lai của phái tả và cực tả ở Pháp. Đặc biệt đây là một cuộc
biểu dương tinh thần và công khai hiếm hoi phản ứng lại quan niệm về
quyền lực của Tướng de Gaulle.
● đấu tranh cho một sự phát triển trong tinh thần tôn trọng đa dạng văn
hóa và do đó tôn trọng đối với mỗi nền văn hóa hợp thành một quốc gia
và một Nhà nước.
● đấu tranh đòi công nhận một di sản phi vật thể toàn thế giới.
Một sự nghiệp được công nhận trên toàn thế giới
Tiếng vang của sự nghiệp của Condominas vượt ra khỏi biên giới của nước
Pháp. Ông đã nhiều lần được mời làm giáo sư thỉnh giảng ở các đại học
Columbia và Yale giữa những năm 1963 và 1969, rồi thành viên của Trung
tâm nghiên cứu tiên tiến về khoa học hành vi ở Palo Alto năm 1971. Ở
Nhật Bản ông được coi là một bậc thầy về dân tộc học và là người nước
ngoài đầu tiên đọc diễn từ trong lễ kỷ niệm 150 năm Nihon Minzoku
Gakkai (Hiệp hội dân tộc học Nhật Bản) ở Tokyo năm 1983. Ông cũng được
mời đến Đại học Quốc gia Úc năm 1987 và đại học Nhật Bản ở Sophia năm
1992.
Cuộc triển lãm "Chúng tôi ăn rừng …: Georges Condominas ở Việt Nam" từ
ngày 19 tháng Sáu đến 17 tháng Chạp năm 2006 nhân dịp khai trương bảo
tàng Quai Branly, năm sau được tổ chức lại tại bảo tàng Dân tộc học ở
Hà Nội với cuốn sách giới thiệu bằng song ngữ đã làm cho tên tuổi của
ông được biết đến trong công chúng rộng rãi. Trong dịp này kho lưu trữ
của bảo tàng Quai Branly đã nhận được một kho tư liệu, sách và ảnh quan
trọng do Condominas trao tặng, từ nay được dành cho các nhà nghiên cứu
sử dụng.
Tháng ba 2010, ông nhận Giải thưởng Văn
hóa Phan Châu Trinh 2009 về Việt học (xem Diễn từ của ông : nguyên tác tiếng
Pháp và bản dịch tiếng Việt)
Ngày 24.3.2010, giải thưởng văn hoá Phan Châu Trinh 2009 đã được trao cho các ông G. Condominas (Việt học), Inrasara Phú Trạm (nghiên cứu), Hồ Ngọc Đại (giáo dục), Phạm Vĩnh Cư và Lê Anh Minh (dịch thuật).
2- Không gian xã hội
Cuốn Không gian
xã hội vùng Đông Nam Á
của G. Condominas (Paris, Flammarion, 1982) đã có bản dịch sang tiếng
Việt, Nxb Văn hóa, 1997, nêu ra một khái niệm quan trọng của ông trong
dân tộc học.
Khái niệm "không gian xã hội" được G. Condominas định nghĩa lại vào đầu
những năm 1980 như sau : "Không
gian xã hội là không gian được xác định bởi tổng thể các hệ thống những
mối quan hệ, đặc trưng cho nhóm người được quan sát"
(Condominas, 1980:14).
Tác giả phân biệt hai loại không gian xã hội mà ông gọi là "những không gian xã hội hẹp" (ví dụ
không gian xã hội của các dân tộc thiểu số) và "những không gian xã hội rộng" (ví
dụ: Việt, Thái)
Khái niệm này đã được sử dụng nhiều trong xã hội học và dân tộc học.
ClaudeLévi-Strauss đã định nghĩa khái niệm đó như sau : " (đấy là) cách thức mà các hiện tượng xã hội được
phân bổ trên bản đồ và những cưỡng buộc nảy sinh từ sự phân bố đó
".
Nhưng điểm đặc sắc trong quan niệm của Condominas là đưa lên hàng đầu
việc nghiên cứu một cách sinh động các quan hệ xã hội và các mạng lưới
bao phủ trên các cấu trúc và các thiết chế hình thức. Cụ thể, trong
trường hợp các nghiên cứu về vùng nông thôn Việt Nam, bác bỏ định đề
giới hạn một cách tiên định đời sống nông thôn trong một không gian
theo lối manichéen "làng /
thế giới ngoại vi", vấn đề đặt ra là có phải biết rằng việc nghiên cứu
một làng được coi như một không gian mở cuối cùng có thể cho phép đi
đến kết luận rằng các hệ thống quan hệ và trao đổi, nảy nở một cách ưu
trội trong lòng xã hội đó, do vậy đem lại cho nó một vai trò nổi bật
trong cơ cấu xã hội ?
Ta biết định nghĩa này đã gây nên nhiều nghiên cứu phê phán, và tổng
quát hơn, là cách tiếp cận có tính khái niệm được đề xuất và ngay cả
trước khi tác phẩm Không
gian xã hội vùng Đông Nam Á ra đời (1980).
Năm 1977, trong một số đặc biệt tập san của CeDRASEMI có tên là Không gian xã hội và phân tích các xã hội
Đông Nam, đã đăng loạt bài và biên bản các tranh luận, tập họp
các ý kiến đồng tình hay phản đối khái niệm do Condominas nêu ra.
Trong một bài điểm sách có cái tên rất khêu gợi "Không gian xã hội; từ làng đến Nhà nước",
J. Matras, nhấn mạnh tính chất khó thao tác vì quá chung, đặc biệt
trong các xã hội có Nhà nước ở đó không gian xã hội – chính trị cuối
cùng lại hòa tan vào chính khái niệm Nhà nước (Matras, 1983).
Mười năm sau, J. Matras và C. Taillard lại nêu lên một số điều dè dặt
ngụ ý nói đến những khó khăn trong việc xác định tiếp cận về mặt khái
niệm toàn cục một cách thỏa đáng và có tính thao tác trong phân tích
các xã hội trong khuôn khổ đa ngành, như dân tộc học và địa lý học.
Liên hệ đến việc Condominas nhấn mạnh đến chiều kích chính trị trong
định nghĩa các không gian xã hội, hai tác giả này nhận xét : "Bị
thu hẹp như vậy vào chiều kích quen thuộc (chiều kích chính trị), không
gian xã hội mất đi một phần quan trọng tính độc đáo và tính riêng biệt
của nó, bị hòa lẫn hoặc với xã hội nhà nước hoặc với xã hội làng"
(Matras-Guin và Taillard, 1992: 9) .
Thử thách trong thực tế thực địa, định nghĩa của Condominas đặt ra hai
vấn đề phụ nữa đối với người quan sát muốn nắm bắt không gian xã hội
trong hai yếu tố sau đây.
1. Thứ nhất là tính phức tạp và đa tạp của các lĩnh vực phải khai phá.
Yêu cầu có một sự phân tích "tổng thể
các hệ thống quan hệ
(…)" đòi hỏi những lĩnh vực đó phải được nắm bắt trong tất cả sự đa
dạng phải có của chúng (kinh tế, chính trị, xã hội, tinh thần), tầm
quan trọng tương ứng của chúng và sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng phải
được đánh giá và sắp xếp thứ hạng theo dòng thời gian và các biến cố
cắt nhịp đời sống của nhóm người, và phải đặt lại chúng trong bối cảnh
các không gian (vật chất, tưởng tượng v.v.) của chúng trong đó chúng
nối kết, nảy nở và biến mất, đặng có thể làm hiển lộ những gì là "đặc trưng của nhóm người được quan sát".
2. Vấn đề thứ hai nằm chính trong việc lựa chọn nhóm người cần quan
sát. Việc đó đòi hỏi nắm bắt các cộng đồng nông thôn không chỉ trong
tương quan của chúng với lãnh địa chúng chiếm cứ và khai thác, mà còn
như những nhóm người mà bản chất và tầm vóc có thể thay đổi và phát
triển tùy thuộc vào loại hình quan hệ được người quan sát soi rọi, việc
xác định nhóm người chỉ đến sau đó, khi sự phân tích đã hoàn thành. Nói
cách khác, có một sự nhập nhằng ngay giữa cách phát biểu khái niệm
"nhóm người cần quan sát" tức đã giả định một sự lựa chọn từ trước
trong khi đúng ra nó chỉ được xác định sau đó, như là kết quả của một
thao tác hậu suy, khi đã kết thúc sự phân tích.
Tuy nhiên, mặc dầu có những phê phán và dè dặt, hai chiều kích của khái
niệm (do Condominas nêu ra) vẫn đặc biệt thích đáng để đổi mới cách
nhìn của chúng ta đối với xã hội nông thôn Việt Nam và trong thực tế đã
có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác thực địa của chúng ta.
1. Thứ nhất, "không gian" mang cùng một lúc hai chiều kích không gian
và thời gian: về bản chất nó mang tính phát triển, vật thể (vật chất)
hay tưởng tượng (ý niệm), có ranh giới xác định rõ rệt hay mờ ảo, liên
tục hay gián đoạn. Việc chấp nhận không gian đó cho phép vượt qua sự
tiếp nhận bao gộp và toàn trị đối với làng ở đó tất cả các lĩnh vực xã
hội, chính trị và kinh tế chỉ còn thu lại trong các giới hạn lãnh thổ
của nó cũng như các quy chiếu có ý nghĩa căn cước tạo nên cảm giác về
tính thân thuộc (sự gắn bó với đất đai của tổ tiên, nhà thờ họ, v.v.)
2. Mặt khác, chú trọng đến chiều kích các "quan hệ" như là yếu tố đặc
trưng của nhóm người được quan sát, tức là nhấn mạnh đến các mạng quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau và liên thông với nhau, đến tính năng động của
các trao đổi hơn là cấu trúc xã hội và các thiết chế hình thức. Từ góc
độ quan sát này, cái nhìn của chúng ta sẽ hướng về sự uyển chuyển của
các liên hệ, của các quan hệ ổn định hay chỉ thoáng qua vốn vượt ra
khỏi các loại hạng khái niệm được xác định trước đã suy thoái thành các
cặp tương phản (nội/ ngoại; làng/ xã hội ngoại vi; quyền lực địa
phương/quyền lực trung ương; dòng họ mạnh/ dòng họ yếu; truyền thống/
hiện đại) hay lập nên những cầu nối giữa những gì thoạt trông không thể
dung hợp được với nhau. Nói cách khác, việc nghiên cứu cái nội dung
được coi trọng hơn là cái vỏ bọc, hay đúng hơn cái vỏ bọc được xác định
và gọi tên không phải là cái khung biểu hiện duy nhất của một nội dung
xã hội, như vẫn thường thấy trong các mô tả về "ngôi làng truyền thống"
(nhà cộng đồng, dòng họ, các hiệp hội và phường hội nghề nghiệp, v.v.).
Tóm lại, khái niệm được Condominas xem xét lại là một cách đưa vào thực
hành nguyên lý, theo cách nói của P. Bourdieu, chú trọng đến "cái đứt
gãy", bằng cách du nhập các yếu tố gây nhiễu, các liên hệ bất ngờ vào
giữa các nhân tố và các đối tượng của cuộc khảo sát: "Sự
lĩnh hội một sự kiện bất ngờ ít ra cũng giả định là phải quan tâm một
cách có phương pháp đến cái cái bất ngờ và ý nghĩa phát hiện của nó phụ
thuộc vào sự thích đáng và tính cố kết của các hệ thống vấn đề mà nó
đặt thành vấn đề" (P. Bourdieu và al, 1968 : 37).
Các thao tác trên Tài liệu