Bạn đang ở: Trang chủ / Nhân vật / LƯU CÔNG NHÂN

LƯU CÔNG NHÂN

- Nguyễn Tham Thiện Kế — published 20/07/2009 19:00, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:21
nhân ngày giỗ thứ nhì (21.7.2009)


Lưu Công Nhân
người trồng cột cây số của đời mình


Nguyễn Tham Thiện Kế


Lưu Công Nhân sinh 17-8-1931 tại Lâu Thượng, Việt Trì, Phú Thọ, mất 21-7-2007 tại Đà Lạt.

1950-1954 : học hội hoạ danh hoạ Tô Ngọc Vân. Triển lãm tranh quốc tế Berlin (1964), Bucarest (1968), Vienna (1959), Moscow (1958, 1990), Paris (1980), Prague (1960), Bắc Kinh (1957), Warsaw (1958, 1960, 1985). Giải thưởng Nhà nước. Huân chương Lao Động hạng I.



Cánh cổng tre mở hé, mái vòm đan kín lá cành hoa dâm bụt, người đàn ông tóc trắng, da hồng, ngoại sáu mươi kính cổ kiểu John Lennon, sơ-mi cộc ca-rô cổ ngắn vạt dài vạt ngắn buông lõng thõng quá gối, quần soóc túi hộp. Đó đây trên áo quần, bắp tay, ống chân ông là chấm màu mới cũ.

Nụ cười im im đủ để nhếch cái miệng duyên, Lưu Công Nhân như người đạo diễn đang tác nghiệp, nghiêng người mở tay về phía ngõ sâu hút um tùm bóng cây vườn. Giọng trầm, mềm được luyện kỹ thuật cộng minh, hoạ sĩ cong ngón cái chỉ qua vai vu vơ :

- Ơ thế mà đúng giờ đấy nhỉ. Ông vào đi, chị Phụng ở trong nhà. Mình đang dở tay...

Người hoạ sĩ đưa tay gạt những tay tre ngà nhánh cây ổi vươn xoà ngang mặt, cúi cúi bước vội. Cũng lạ, Lưu Công Nhân khom mà trông vẫn khụng khịnh, tự tin khác thường.

Ngón cái chỉ vu vơ, kỹ thuật nhả tiếng, áo quần lôi thôi, ơ thế mà đúng giờ đấy nhỉ... tất cả những thứ ấy toả mùi sân khấu tạo thành show hoàn hảo. Tuy ấm ức việc Lưu Công Nhân tỏ vẻ ngạc nhiên về sự đúng giờ của mình tôi vẫn cười thầm, hẳn hoạ sĩ đang bận vẽ có người mẫu.

Hoa chuối rừng le lói ven lối ngõ không quá hẹp, không quá dài với một căn nhà ba gian xây gạch đỏ, tiện nghi khép kín quay lưng ra con lộ nhựa lên núi Tam Đảo. Vuông sân tráng xi-măng lăn phăn lá khô kê bộ ghế gỗ lửng. Mảnh vườn sỏi hỗn độn đủ loại cây, hình như người trồng chỉ để lấy màu xanh. Buổi sáng trung du bình yên. Đâu đó vẳng lên tiếng gà gô cuối bờ tre mềm mại.

Từ ngày Lưu Công Nhân về mở xưởng vẽ Vĩnh Yên, vợ ông tháng tháng hoặc Đà Lạt hoặc Sài Gòn bay ra mua sắm thực phẩm xếp vào tủ lạnh và tìm thuê người mẫu cho chồng.

Người đàn bà hiền thục lặng lẽ thau ấm, pha nước, đi lại ý tứ, lịch sự mời tôi ngồi đợi. Người đàn bà thì thào ái ngại dường như sợ mình nói hơi to cũng sẽ cản trở đến công việc sáng tác của chồng.

Có lần tôi thắc mắc, tại sao Lưu Công Nhân không về hẳn làng Lâu Thượng cật ruột trên Việt Trì mở studio mà lại chọn ki-lô-mét số 3 Vĩnh Yên - Tam Đảo lửng lơ giữa Việt Trì - Hà Nội, nơi không nhiều họ hàng và bạn. Hoạ sĩ khì một cái nhẹ không, nhấp mấy giọt cognac trong chiếc ly pha lê nặng trĩu. Có lẽ ông thất vọng vì tôi cũng giống như bao người dại khờ khác.

‒ Thứ nhất tôi thích cái cột cây số ở ven đường. Mỗi khi nhìn cột cây số đơn độc bên đường, tôi biết mình vừa được và vừa bị khấu trừ… Nên mới mua cố lô đất này. Thứ hai là Vĩnh Yên không quá xa Hà Nội, gần sân bay. Khi cần tôi có thể phóng xe máy xuống Hà Nội thăm bạn hoặc bay về trong kia cũng không vất vả, nóng quá thì taxi lên núi. Và nếu có việc lên Việt Trì thăm con cháu hoặc các ông cũng dễ dàng. Người già như tôi gần con cháu quá suốt ngày chỉ có tiếp họ hàng thì làm sao mà làm việc...

Quả thật, khi đất nước chưa đổi mới thì Lưu Công Nhân đã đổi mới. Ông đã nhìn ra chỗ mình cần phải ở để sáng tác tương thích nhất dù chỉ 4 năm như một nhà đầu tư chiến lược.

khoa

Khi thấy tôi quan sát căn nhà được xây chất lượng cao, cho cái sự ở của mình Lưu Công Nhân chỉ gật gù. Kiểu nhà đơn giản, một phòng vẽ, một phòng khách, một phòng ngủ liền kề nhà bếp và khu phụ. Ngồi bất cứ vị trị nào trong căn nhà cũng với tay tới tiện nghi tiêu dùng. Một khoảng tường trống bất kỳ đều có tranh đẹp treo. Ngay cả trước mặt chỗ ngồi đi nặng, đi nhẹ cũng treo bức tranh thuốc nước thiếu nữ khoả thân. Những bức tranh có cây xoan, lô cốt, có lau trắng, có trâu, bò và những cụ ông, cụ bà, gái quê... và những cánh buồm đơn độc... và cột cây số ngu ngơ cạnh khúc cong của con đường thẳm...

Một chút Pháp trong ngoại vi đô thị Việt. Một chút quý tộc Hà thành thuộc địa trong không gian nông dân Bắc bộ. Nhưng tất cả những phong vị ấy lại hoàn nhuyễn không vệt gợn sạn. Quả là Lưu Công Nhân thừa tiền chơi trội.

‒ Thưa, anh chỉ làm việc có bốn năm ở đây, mà sao xây cất kỹ lưỡng thế này cho tốn tiền. Dù anh không thiếu tiền. Sáu mươi mét vuông với ba sào đất là cả một gia tài của người nông dân giàu có ở ta hiện nay...

Đẩy cao chiếc kính 150 năm tuổi gọng vàng của Anh lên sống mũi cho thêm bề cao ngạo, Lưu Công Nhân mở chiếc hộp gỗ Đàn hương nhót ra nửa điếu xì gà La Habana, và rất nhanh sập nắp hộp lại, cắm vào chiếc píp cán ngà, quệt que diêm Thuỵ Điển vào cạnh bàn, hoa hoa vòng tròn ngọn lửa diêm cho nhạt bớt phốt pho. Châm lửa. Ông rít ba hơi vừa vừa, phì khói ra tức thì. Có lẽ hoạ sĩ cũng không nghiện ngập gì.

‒ Đây là thứ thuốc lá Picasso, Hemingway đã từng hút. Sở dĩ nó đắt nhất thế giới, vì nó được lựa từ những tàu lá thuốc tốt nhất, trên cây thuốc tốt nhất của giống thuốc lá tốt nhất…

Lưu Công Nhân ghé sát tôi nói nhỏ vẻ quan trọng rồi hinh hích cười như gã thanh niên mới lớn ‒ Và nó được se cuốn trên những bắp đùi non của những trinh nữ lai da đen vùng Caribe. Ông có cảm nhận được mùi hương trinh nữ ấy qua mồ hôi thấm trong lá thuốc không...

Dường như thấy tôi đã bị nốc-ao, hoạ sĩ mới vê cằm.

‒ Tớ đã bán căn nhà này ngay khi vừa xây xong cùng với toàn bộ thiết bị của nó, trừ những hòm tranh.

Tôi ớ ớ ngớn cổ lên.

‒ Vừa xây xong đã bán ngay, thì anh định bỏ Bắc về Nam à ?

‒ Bỏ là thế nào. Tớ bán với giá thành thực tế, mua đất hết bao nhiêu, xây dựng hết bao nhiêu, trừ tủ lạnh, bếp điện, bếp ga sẽ khấu trừ phần trăm hư hao sau 4 năm sử dụng. Bán nhưng sau 4 năm nữa tớ mới giao nhà, đã thoả thuận có công chứng, tiền tớ nhận đủ ngay, gửi ngay vào nhà băng lấy lãi tiêu hàng tháng ở đây rồi.

Trời đất quả là sự siêu tính kinh tế. Cách bán nhà này thì người mua cũng thích vì sự trượt giá phi mã, người bán cũng lợi, không phải lo bảo trì duy dưỡng hàng ngày, không bị mất gốc, tự dưng được ở không mất tiền. Hơn nữa việc bán nhà đất dù có rẻ ôi lúc cần kíp cũng không dễ. Đúng ngày giờ là đóng thùng tranh, xách va-ly going home. Tôi chỉ còn biết thán phục, xoa xuýt.

‒ Anh khôn thật, đúng là Lưu Công Nhân...

‒ Thì có ai bắt các ông phải ngu lâu đâu nào...

Sao mà ông có lý làm vậy. Chẳng ai bắt chúng ta ngu lâu. Và, ông trở thành Lưu Công Nhân hôm nay chẳng nhờ sự may mắn. Là người luôn biết mình muốn gì, hướng thượng, quảng giao, nhưng tinh lọc, Lưu Công Nhân luôn có nhu cầu bạn bè, hay kiểu đàn em như tôi cũng được đối xử trên tinh thần dân chủ, bình đẳng một cách hợp lý. Nói vậy không có nghĩa là ông không khi nào nhìn xuống. Quá rõ những gì khi nhìn xuống nên ông mới có thể hướng nhìn lên lâu đến thế…

lcna

Studio cây số 3 Vĩnh Yên mỗi lần chỉ đón tiếp từ một đến hai suất khách. Lưu Công Nhân sợ ồn ào. Nhưng khi xuất hiện ở chỗ ồn ào thì bao giờ ông cũng phải trở thành sao thì mới chịu, dù cách này hay cách khác. Lưu Công Nhân không bao giờ mời ai mà không có lý do thoả đáng cho cả hai phía. Tiền và thời gian là hai thứ không bao giờ ông chi phí vô lối. Hơn nữa ông đã mời thì người được mời khó có thể từ chối. Lý do được mời bao giờ cũng rất hấp dẫn, tràn trề đặc ân. Lưu Công Nhân mời kia mà.

Và, hôm tôi được ông mời một mình tới Studio cây số 3 cũng có lý do đặc biệt. Đặc biệt như lời ông nói dõng dạc trước đám đông trong hội truờng của Hội VHNT Vĩnh Phú khi mời tôi.

‒ Cognac Pháp 25 năm tuổi. Trứng cá hồi, pho-mát Hà Lan. Bánh mì đen. Xalát Nga. Ký tặng một cái tranh thuốc nước vẽ Hạ long. Một bản vựng tập tranh mới ra lò, bản đề tặng là bản thứ 68... và một nửa buổi sáng. Đó là những thứ - Tôi - Lưu Công Nhân này có thể mang đến cho ông vào chủ nhật này, Thiện Kế ạ.

Tôi đã nhận lời sốt sắng để không ngu lâu.

Và gì thì gì Lưu Công Nhân cũng đã ra mở cỏng đón tôi rồi vội trở vào phòng vẽ...

Ông vào đó không phải để vẽ tiếp mà là dẫn ra một người mẫu, cao, mảnh, rắn chắc như vận động viên thể dục nghệ thuật, thân thể chỉ có hai mảnh vai che và tấm khăn choàng lụa trắng lượt thượt. Cô người mẫu rơi cái nhìn vô cảm vào tôi một thoáng. Tôi hay một ai khác, trong mắt cô người mẫu ấy cũng chỉ như con chó đá đang ngồi chẫu hẫu dưới khóm hoa giềng kia thôi.

Vợ ông tiến lui bày đồ tiếp khách lên bàn ngoài sân. Tất cả đều đúng y trang như lời mời. Cognac hai ly nhỏ, trứng cá hồi mươi lần nhón, pho mát một hộp, bánh mì đen hai lát, xalát mươi thìa canh. Tùng tiệm và thòm thèm. Tranh thuốc nước, vựng tập...

Nhưng đặc biệt là cách ông ký tặng, bà vợ thì đưa bút, chiếc bút hiệu Waterman, ông đặt cuốn vựng tập lên đùi cặp đùi cô người mẫu vung bút ký trước trong không khí một lượt.

‒ Cái bút này có tuổi bằng tuổi ông và tuổi tôi cộng lại… Đấy ông xem, đồ vật mà mang tính văn hoá, thì ý nghĩa giá trị tinh thần của nó tự nâng nó lên đồng thời nó nâng cả con người sở hữu nó, dùng nó...

‒ Nếu anh không là một Lưu Công Nhân hẳn sẽ là một Vương Hồng Sển...

Ông hứ một tiếng không rõ nghĩa, hơi lườm tôi một cái.

Ông hướng dẫn tôi đi xem tranh. Nhìn sự thoải mái phóng khoáng trên mỗi vết cọ lưu lại trên mặt tranh, đủ để cảm giác về tay nghề thượng thừa, dĩ nhiên để có được điều ấy thì chẳng có ai được bước trên hoa hồng rải lối. Lưu Công Nhân là người lúc nào cũng tổng kết, cũng đúc rút, hy vọng một mình mở một đường, đánh dấu lộ giới, trồng cột cây số báo đường. Dịch chuyển thường xuyên. Đi. Vẽ. Đi. Vẽ. Những đường cong gọi mời nhưng thanh khiết, những sắc màu rực lên huyền ảo nhưng có thật ở vô số người mẫu.

Có lẽ Lưu Công Nhân là một phiên bản của Tô Ngọc Vân về tài hoa trời phú, yêu sự cẩn thận, niêm nót mà vẫn phóng khoáng, điệu đàng nhưng đủ sự quý phái. Ông về tiếp quản trường mỹ thuật Đông Dương đồng thời tiếp nhận và lĩnh hội luôn cái sang trọng quý tộc của tinh hoa hội hoạ Đông Dương thuộc Pháp nhưng lại thổi được chất tưng tửng phơi phới lạc quan ngây thơ thô mộc kháng chiến vào tranh mình giai đoạn đó.

Rồi những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội tinh thần công nông binh lên cao ngút thì ông cũng trở thành ngôi sáng chói của thế hệ mình với một loạt tác phẩm về nông dân trên phông nền thôn quê, trong diện mạo con người mới. Một sự lạc quan đến hồ đồ.

Tôi mê cây xoan gầy run run trong gió nhẹ đủ thổi xiêu ngọn khói. Yêu cột cây số ngu ngơ bên lề đường như đứa trẻ con đang lụi cụi ngồi chơi. Tôi cũng là người, hễ đi tới đâu là thích đứng bên cột cây số để chụp ảnh, nhưng sau biết được mình chỉ là kẻ đi sau Lưu Công Nhân, thì cảm thấy thú đó bỗng nhạt hoẹt.

Chẳng phải vô tình Lưu Công Nhân mê cột cây số. Cột cây số ở trong tranh đã đành. Nhà ở Đà Lạt, ở Vĩnh Yên ông đều lựu chọn ở gần một cột cây số. Gần cột cây số thì dễ chỉ đường cho bạn, và bạn đễ tìm đến nhà. Đến đâu đó thì đứng bên cột cây số nó làm chứng cho sự có mặt của ông. Cột cây số, chỉ số hiển thị những chặng đường ông qua, đã làm gì. Lưu Công Nhân, người đã vẽ và đếm không biết bao nhiêu cột cây số trong suốt mấy chục năm không ngừng nghỉ.

Hình ảnh anh lính khăn mặt buông vai, mồ hôi ướt đẫm ngồi nghỉ bên lau trắng, đó cũng chính là ông là tôi một thuở, hình ảnh của biết mấy thế hệ thanh niên Việt hiền đẹp suốt ba mươi năm chiến trận. Nhìn người lính đang sống mà thấy nao buồn nghĩ đến lớp lớp người khuất mặt đã nằm yên đâu đó trong đất, trong rừng thẳm, trong sình lầy.

Những năm bảy mươi thế kỷ trước, Lưu Công Nhân được Tỉnh uỷ Yên Bái xây cho cả cái nhà sáng tác ở hòn đảo giữa lòng hồ Thác Bà. Ông Lê Đức Thọ mỗi lần đi đàm phám Paris về cũng nghé lên xem Lưu Công Nhân vẽ tranh trừu tượng, siêu thực, và để nghe hoạ sĩ nói về mĩ thuật. Một lần người cố vấn đặc biệt ấy đã thích thú kêu lên khi xem tranh.

- Ông Nhân ơi, tôi sang Pháp thì tôi cũng chỉ thấy họ vẽ như ông đang vẽ thôi. Bên ta thế mà cũng có kém cạnh gì bọn họ đâu. Chỉ có điều...

Vị cố vấn nói đến đấy thì im, khiến Lưu Công Nhân đến tận bây giờ không biết ông Lê Đức Thọ ấy định nói tiếp câu sau là câu gì ? Nhưng đôi khi ông Lê Đức Thọ ấy cũng mượn một vài bức của Lưu Công Nhân mang đi đâu đó một thời gian rồi lại bất thình mang trả.

Thế nhưng một ngày kia, Lưu Công Nhân lặng lẽ bỏ siêu thực, bỏ trừu tượng. Ai hỏi thì ông lắc đầu đáp nó không phải của ta. Đó cũng như là một lời khuyên của bậc trưởng lão với lớp trẻ. Động rồi tĩnh, ông sử dụng mực tàu vẽ tranh khoả thân, vẽ phong cảnh theo lối thiền. Vợ, con, cháu, bạn, và tất nhiên là cả những người mẫu làm đắm đuối bất kỳ người đàn ông nào.

Và, tất cả những thân yêu quen thuộc của ông lại hiện lên qua sắc màu, hình khối hằn nổi vệt bút với trực giác và bản năng hội hoạ đã được tinh luyện không còn phụ thuộc vào kỹ thuật. Trên tranh tràn trề sự duy mĩ thuần tuý được vẽ từ sâu thẳm bên trong con người ông đã được ý thức đến vô thức như một phản xạ săn mồi khi sư tử thấy linh dương. Và tia mắt sư tử thì lúc nào cũng soi thấu tâm can linh dương.

Một vệt bút một cánh buồn, một vệt bút một bóng cây, một vệt bút một hòn đảo cô độc cao ngạo trên vịnh biển, một vệt bút một con người khòm lưng chờ đợi. Đã hơn một lần ông nhìn tranh của mình và nói.

‒ Chỉ thơ và hội hoạ này là chứa đựng được cả vũ trụ trong một câu, trong một nét vẽ thôi ông Thiện Kế ạ. Mà tranh của tôi có những loại được vẽ bằng thứ sơn dầu hảo hạng của Anh, Pháp, Hà Lan, đến cái đinh cũng được đóng bằng đinh không rỉ nhập khẩu... Ông nghiệm mà xem, không phải ai cũng đủ tự tin để đặt nét vẽ lên tấm toan quý đâu...

Với tranh tĩnh vật thì Lưu Công Nhân dù vẽ cái bình đất nung, bình vôi, bông hoa, con chó đá, vậy mà tôi vẫn thấy ở đám vật tĩnh ấy sống động như có hồn người, đường đi của nét bút như uốn lượn theo đường cong đàn hồi...

Cứ nhìn khách đến thăm Studio Lưu Công Nhân ở cây số 3 Vĩnh Yên thì cũng đủ biết ông giao tiếp chắt lọc với cả người cùng giới. Đó là những người cùng thế hệ với mình và đã thành danh. Và hầu như cũng như bất kỳ một hoạ sĩ chân chính nào Lưu Công Nhân khoái chơi với cánh nhà văn nhà thơ và nhạc sĩ hơn cả. Trong các câu chuyện thì ông thường nhắc đến các danh họa và các nhà văn nhiều nhất. Chẳng thế mà trong vựng tập của ông có cả đề từ chụp nguyên nét chữ Tô Hoài : Lưu Công Nhân, người của dọc đường kháng chiến và bình yên.

Tôi chứng cho Lưu Công Nhân gặp lại Sao Mai sau 43 năm xa cách. Bốn ba năm của ba cuộc kháng chiến. Cũng hơn một tôi lần nghe họ nói về nhau. Ngỡ cả hai sẽ chầm lấy nhau vồ vập. Tôi đã thất vọng vì không có show đó. Khi thấy nhau, Sao Mai ngồi yên hút thuốc lào, khẽ giơ tay lên chào. Lưu Công Nhân, gật lừ đừ đi vào phòng hạ xuống chiếc ghế người nào đó đã nhường. Ông ngồi như là vừa mới đi ra ngoài mấy phút rồi trở vào. Sao Mai hỏi.

‒ Thế nào…

‒ Chẳng thế nào cả... vì nhìn quanh vẫn thế...

‒ Ư thì tất cả vẫn như vầy vậy thôi...

‒ Vẫn màu một sắc…

Lưu Công Nhân rút bút mở cặp ký hoạ. Mười phút sau một Sao Mai, khắc khổ, ngây ngô như Đông Kihôtê hiện lên giấy. Thuốc lào và cognac. Lưu Công Nhân chẹp miệng.

‒ Đàn ông tôi chỉ chơi với những người tài nhất thế giới. Nếu không thì thà chơi với người đàn bà xấu nhất thế giới họ còn có nhiều thứ để chơi cùng ta hơn...

Đã nói xong câu nói tầm cỡ của một ngôi sao, ngồi loáng thoáng mươi phút Lưu Công Nhân lặng lẽ dắt chiếc xe máy cồng kềnh chằng buộc những túi, những cặp, nháy với ai đó cùng cánh hẩu chuồn ra một cái quán thanh sạch nào đó nhâm nhi vài chai bia Hà Nội. Thường thường nếu ở Việt Trì là tôi (tuy không phải người tài) hoặc Ngô Kim Đỉnh, Quang Thái... Còn ở Vĩnh Yên là Vũ Khánh, Võ Huy Cát, Hoàng Trúc... còn ở...

Tôi biết bất cứ đâu ở nước Việt, Lưu Công Nhân cũng có những người yêu quý một cách hoàn toàn, không vì một lý do gì, ngoài một lý do ông là Lưu Công Nhân. Và, cũng không hiếm lắm người già người trẻ ghen tỵ khó chịu vì thái độ bất cần quá tự tin của ông.

Khi rời hẳn quê trở về Nam, mỗi lần nhớ quê thì ông hay viết thư trên một mảnh ký hoạ bất kỳ, thường thường là hình cái cổng nhà ông ngoại ở Lâu Thượng, gửi cho tôi như là một cái cớ.

“ Bòi Thiện Kế ơi [bòi là từ cổ của Phú Thọ chỉ đàn ông], cố mà đi chơi đi. Chẳng lẽ cứ làm văn nghệ công chức mãi ư. Đất nước này lạm phát dạng văn nghệ ấy rồi. Dọc đường Nam tiến, tới chỗ nào cũng có “tay sai” của tôi đón tiếp ông chu đáo, tính toán gì nữa... ”

Cái chữ tay sai của Lưu Công Nhân hay thật. Nhiều lần đọc thư ông tôi cũng nghĩ thầm : Hừ thì mình cũng là một thứ tay sai mất rồi. Nhưng mỗi lần làm tay sai cho Lưu Công Nhân là một lần tôi nhận ra được một cái mới ở ông.

Lang thang cùng ông trong các quán còm, nơi chợ quê ven Việt Trì, thì tôi như thằng cha xe ôm còn ông như gã Nhật gã Hàn đi bụi. Chiếc túi đeo trước bụng ông căng phồng như một tổng kho dự trữ tiền lẻ của kho bạc quốc gia. Mua bất cứ thức gì, từ hai chiếc kẹo bột, chiếc bánh đá vừng, chiếc nõ điếu, chiếc chày giã cua gỗ nhãn, chiếc rế bện từ dây rừng, mấy miếng đất nung cho đàn bà nghén ăn giở ông đều có đủ tiền lẻ trả ngay chính xác đến đơn vị xu. Tôi ngạc nhiên. Ông thủng thẳng.

‒ Người nông dân vốn ngay thẳng, họ có thể lấy lãi, nhưng khi đã thuận mua vừa bán thì họ không muốn nợ ai dù một xu. Không trả lại được cho anh một hai xu đó có thể làm họ mất vui...

Dù Lưu Công Nhân cao ngạo tự tin đến đâu nhưng một lần tôi cũng đã khiến ông sợ hãi thực sự. Sau khi xem tranh xong, tôi nhìn quanh gian phòng giống như một phần của cái resort.

‒ Anh không đề phòng sao ? Tranh thì toàn tiền tỉ, trộm mà vào nẫng hết thì dễ ợt ? Tiền thì khỏi nói, nhưng có những bức tranh anh chẳng còn bao giờ vẽ lại được như trước nữa... Anh lạ gì tình trạng mất tranh trên thế giới nữa...

Vốn hồi đó Lưu Công Nhân đã chớm Parkinson. Nghe thấy vậy ông bỗng run lẩy bẩy, kéo vạt áo thấm mồ hôi vã toát kín mặt, hổn hển.

- Lấy thế quái nào được, đã có công an có chính quyền, chính quyền ta rất mạnh, trừng trị nghiêm khắc bọn trộm chứ lỵ..

- Hi hi hi….

Nhưng buổi chiều ấy Lưu Công Nhân huỷ ngay chuyến đi dã ngoại. Mươi hôm sau tôi trở lại thì những bức tranh ông yêu quý nhất đã được đóng hòm sắt gửi máy bay vào Nam. Trên tường chỉ còn những bức thuốc nước. Lưu Công Nhân vẩn vơ đi lại bên khoảng tường trống vắng có lẽ là thương nhớ những bức tranh.

Cách đây không lâu tin trên mạng thất thanh : Lưu Công Nhân bị mất trộm 100 tranh khổ nhỏ tại xưởng vẽ ở 209 bis Nguyễn Văn Thủ, Quận I, Hồ Chí Minh City.

Gọi vào Đà Lạt, Lưu Công Nhân nằm bệt. Bà Phụng vợ ông vui vẻ thông báo. Thất thiệt thôi. Tại anh Nhân dạo này lãng trí, thi thoảng sắp xếp lại tranh vào các thùng sắt khác nhau, tranh thì nhiều không bán, số thùng này lẫn với số thùng kia, tưởng mất nên anh đã kêu khóc rầm rĩ em à.

Không có lẽ chàng Hoàng tử của lớp Mỹ thuật Kháng chiến đã đến độ ấy ư ? Những người bạn của ông ở ngoài Bắc, Tô Hoài cũng đã bước run, đi chầm chậm. Sao Mai ngồi yên lặng một chỗ nơi góc rừng, thấy khách đến khách về là nước mắt rơi rơi. Với một người sớm trở thành nhân vật của báo chí, hào hoa lịch duyệt do học thức, duyên dáng cao lớn do cha mẹ, thông minh và tài hội hoạ trời cho, lao động nghề như một nông phu, không phụ thuộc tiền bạc, Lưu Công Nhân có quá nhiều cơ hội lựa chọn tương lai.

Vậy mà Lưu Công Nhân chỉ chọn bản thân mình. Chọn sự chơi rong nhọc nhằn. Làm và chơi. Đùa mà thật. Ruổi rong vẽ tự do. Tụ do mà trói buộc cả đời vào cái đẹp. Giao tiếp với chính khách. Thù tạc bạn bè, vỗ về đàn em. Quả thật hiếm có người hoạ sĩ nào ở Việt Nam trong thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI lại hội tụ đủ tất cả những điều kiện để trở thành danh hoạ tầm cỡ thế giới như Lưu Công Nhân. Vẽ tranh để chơi, để mình ngắm chơi sau cất kĩ và thi thoảng cho thiên hạ ngắm chơi không phải bán và không cần bán...

trau

Về vẽ ở quê Lưu Công Nhân cũng có ý định xây dựng bảo tàng tranh riêng tại Việt Trì, nhưng rồi không hiểu sao ông không còn tha thiết. Có lẽ ông là người luôn được người ta tìm đến, mà nay lại phải tìm đến những cánh cửa khác nhau gõ còng cọc xin xỏ quả là một thách thức quá lớn. Hy vọng rằng, ý định tốt đẹp này bây giờ vẫn còn chưa nguôi trong ông...

Một lần mải xem ông vẽ tôi buột miệng dại dột của một kẻ ngoại đạo.

‒ Đáng lẽ ra Lưu Công Nhân phải được tất cả các hoạ sĩ và những người yêu hội hoạ trên thế giới biết đến. Tại sao Lưu Công Nhân không có những bức tranh vĩ đại khái quát đời sống Việt với nhiều thành phần nhân vật nhỉ...

Buột rơi bút ông nhìn tôi cười nhếch. Phải chăng tôi mắc bệnh kì vọng quá nhiều về người mình yêu quý nhỉ. Mỗi tài năng, mỗi con người đều đã được số phận khoanh định vùng miền với lằn ranh du di không lớn. Thực ra ông đã làm được quá nhiều cho hội hoạ nước nhà. Thử hình dung xem, nếu trong nền hội hoạ kháng chiến, rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội công nông binh làm chủ, mở cửa đổi mới không có một Lưu Công Nhân như Lưu Công Nhân cống hiến, như con người Lưu Công Nhân đã từng sống thì nền hội hoạ ấy ra sao. Vị trí trưởng thượng ngất ngưởng của Lưu Công Nhân không thể thay thế, không thể đắp bù trong nền hội hoạ Việt Nam hiện đại. Ông là một trong những người có công làm sang trọng, thăng hoa và mềm mại nền hội hoạ cách mạng và phần nào cho nó được phong phú, đậm đặc thêm cá tính bằng cách chiếm một chỗ trang trọng đặt dấu ấn cá tính của chính mình.

Trước khi rời quê lần chót, một chiều sậm tối, Lưu Công Nhân đèo vợ trên xe máy dừng trước cổng nhà tôi. Đêm đó vợ chồng ông nghỉ lại trong gian phòng khách, sàn gỗ cập kênh. Bốn giờ sáng vợ chồng ông đã thu màn, gấp chăn, chằng buộc sau xe. Tôi hầu trà ông ngoài sân dưới gốc khế mà chẳng thể nói thêm điều gì. Một già. Một trẻ. Tiếng muỗi bay. Ông trầm ngâm, nhưng không tĩnh lặng.

Mấy hôm sau nhận thư ông tôi biết. Ông đưa vợ đi thăm lại nơi xưa đã từng học thầy Tô Ngọc Vân ở thủ đô Văn nghệ kháng chiến khu 10. Thăm lại những nơi đã in dấu chân ông và bạn bè trong lớp mỹ thuật hơn sáu mươi năm trước. Thăm lại những cây cột số ông đã từng đứng bên chụp ảnh, từng vẽ vào tranh...

Bây giờ thì ông đau ốm nơi xa, chắc ông vẫn mơ về những cột cây số và những cột cây số cũng vẫn mơ và chờ đợi ông trở lại trên mỗi cung đường...

Tháng 5 năm 2007

Nguyễn Tham Thiện Kế




NGUỒN : bản do tác giả gửi nhân ngày giỗ lần thứ nhì của hoạ sĩ
(một bản không đầy đủ đã đăng trên Tiền Phong cuối tuần
một tháng trước khi Lưu Công Nhân mất)



Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us