Bạn đang ở: Trang chủ / Nhân vật / Nhớ anh, nhớ nụ cười hiền

Nhớ anh, nhớ nụ cười hiền

- Bùi Trân Phượng — published 11/07/2024 15:13, cập nhật lần cuối 11/07/2024 15:13

Tiễn biệt giáo sư Cao Huy Thuần (1937 - 2024)



Nhớ anh, nhớ nụ cười hiền


Bùi Trân Phượng


Tin dữ về sự ra đi của Giáo sư Cao Huy Thuần khiến tôi thẫn thờ. Cách đây mới một năm, tôi còn vui sướng với nụ cười hiền của anh trong không khí ấm áp của cuộc họp mặt bạn bè thân thiết vào cuối chuyến đi dạy học bên Pháp.

Ừ, thì cũng đã có bất thường. Lần đầu bữa ăn này không diễn ra ở nơi quen thuộc của những lần gặp mọi khi, là ngôi nhà của anh chị ở Bourg-La-Reine mà tôi đã đặt tên là “nơi bình yên chim hót”. Anh biết và thích cái tên tôi đặt. Vì mỗi lần có dịp ghé Paris, tôi thường được anh Thuần chị Liên tạo điều kiện gặp lại các bạn thân ở nhà anh chị. Cánh cửa nhỏ, chỉ mấy bậc thang là lên đến vườn nhà. Tùy mùa lạnh hay ấm, có lúc chúng tôi ăn trong nhà, có lúc ngoài sân. Lần nào anh cũng đích thân vào bếp nấu đãi chúng tôi. Lần nào cũng có không khí “bình yên chim hót”, bình yên của thiên nhiên và của lòng người, khi lại được ngồi bên nhau giữa những người từng chia sẻ vui buồn qua nhiều năm dài “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”.

Bất thường có nguyên nhân là từ vài năm qua, do tuổi tác, anh chị đã không còn sống tại nhà riêng mà đã về ở căn hộ chung cư gần gia đình con, để con cháu tiện đi lại thăm nom, chăm sóc. Và cũng chính các con lần này lo giúp bữa cơm tiếp bạn bè. Dẫu biết đó là quy luật, ở tuổi chúng tôi… Tin vẫn bất ngờ, vẫn không khỏi xót xa.

Với xã hội, anh là giáo sư các trường đại học Pháp, là nhà nghiên cứu, là học giả chuyên sâu về Phật giáo, là “người xớ rớ uyên thâm”[1], là tác giả nhiều quyển sách hay cứ đều đặn vài năm lại ra mắt độc giả trong nước, là cây bút chủ lực của Diễn Đàn, của nhiều lần Hội thảo Hè, là nhiều thứ lắm. Với tôi, anh đơn giản là người bạn cao niên (và vong niên, vì tuổi anh ở bậc cha, chú của tôi), người anh hiền từ, thân ái, mà luôn sắc sảo, thâm trầm. Một người anh chưa bao giờ từ chối lời yêu cầu nào của tôi, cô em gái; kể cả khi tôi “quấy quả” nhứt.

Vài năm trước, khi nhận lời mời sang giảng ở Collège de France với chủ đề đâu đó có đụng đến “đa bản sắc trên con đường đi tìm chính mình”, người đầu tiên trong những học giả người Việt sống xa quê mà tôi muốn phỏng vấn tất nhiên là anh. Tôi xin cuộc hẹn qua mạng. Anh trả lời không quen nói chuyện qua mạng, và thích trả lời bằng một bài viết hơn. Thế là không lâu sau, Diễn Đàn có bài viết của anh về Bản sắc. Sau khi chứng minh một cách thuyết phục rằng đó là “một trong những vấn đề phức tạp nhất mà khoa học xã hội từ lâu khó làm sáng tỏ”, anh lần gỡ từng mối dây, diễn giải theo cách của anh, giản dị, cụ thể, trong sáng, đậm đà tình cảm mà luôn lấp lánh trí tuệ thâm trầm, và vì vậy, muôn phần thuyết phục.

Chẳng hạn, đây là cách của anh. Anh viết : “Ý thức về bản sắc chẳng bao giờ rõ ràng cả để có thể mô tả, phát biểu ra thành lời lẽ phân minh. (…) Tôi thử gỡ cái mớ bòng bong bằng một khái niệm đơn giản, cốt là có cái mốc để tập trung vào vài câu hỏi căn bản mà chị đặt ra. Khái niệm ấy là "kẻ thù". Không phải tôi muốn giết ai, chỉ là muốn chống lại những gì đe dọa. (…) Vậy thì đâu là "kẻ thù" của bản sắc Việt Nam? Đâu là đe dọa? Trăm người như một, ai cũng cảm thấy từ trong máu cái hiểm họa xuyên suốt lịch sử đến từ phương Bắc. (…) Chính sách đồng hóa của ông [Tây cũng] đích thị là "kẻ thù". (…) Việt Nam là hòa mà không đồng, ngàn năm lệ thuộc Tàu mà không thành Tàu, chuyện hy hữu trong lịch sử, có lẽ cái hãnh diện này là phương thuốc giữ nước trường tồn mà tổ tiên để lại cho con cháu. Bởi vậy có lúc tôi lấy làm lo, sợ ông Tây làm giỏi hơn ông Tàu, biến "Cochinchine française" thành Tây thiệt. (…) May quá, (…) Nam Kỳ quốc vẫn là Việt Nam, vọng cổ có Âu hóa với cây ghi ta, sáu câu vẫn ngọt lịm đồng bằng Nam bộ. Ông Tây tưởng có thể đồng hóa ta với mẫu tự la tinh; ta chuyển cái khí cụ ngoại thuộc ấy thành chữ Quốc ngữ chống ngoại thuộc mà giới sĩ phu tân tiến hưởng ứng nhiệt tình.”

Yêu nước, yêu dân tộc mình, nhưng người trí thức trong anh không hề nhân nhượng, dễ dãi, mà nghiêm túc “ tự vấn lương tâm : ta có raciste không, có kỳ thị chủng tộc chăng, có phân biệt màu da ? ”. Sự tự vấn của anh tinh tế, mà xác đáng : “ Hồi chiến tranh, có ai chống chiến tranh mà không hát Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn ? Ai mà chẳng đau lòng, nhỏ lệ với “Người con gái Việt Nam da vàng?” Màu da bị đe dọa? Phải xem da trắng là đối thủ, là kẻ thù ? Tôi nghĩ chàng nhạc sĩ của chúng ta không hề có ý ấy. Bài hát chỉ chống chiến tranh. Chỉ chống ngoại thuộc. Chỉ tiếp nối cái uất ức nô lệ Tây của các sĩ phu ngày trước kêu gọi Á châu vùng lên như Nhật thắng Nga.

“ Cùng một giống da vàng máu đỏ ”, các cụ kêu lên như thế, mà sao ta cam chịu làm kiếp tôi đòi ? Từ trong thâm tâm, ta không có cái thù da trắng. Tây thực dân đi rồi, Tây ba lô đến viếng, ta mở rộng cả hai cánh tay. Mỹ đi rồi, Mỹ trở lại thăm vết tích bom đạn, ta “Hello! hello! Welcome!”. Thấu lý đạt tình, nhưng không dễ dãi, xuê xoa. Anh thừa nhận : “ Cũng tự hỏi trong thâm tâm, nói vậy mà không phải vậy, e rằng ta cũng raciste đấy. Nơi những người có học, ta yêu văn hóa Tây phương hơn là văn hóa Ả Rập tuy chẳng hề tiếp xúc với văn hóa Ả Rập. Đồng bào định cư của ta ở Mỹ không mấy mặn mà với phong trào chống kỳ thị của người da đen. Thậm chí kỳ thị với cả ông tổng thống vì cái tội không phải da trắng. Ta là con Rồng cháu Tiên, đâu có gần gũi được với “bọn Mễ”, bọn la-ti-nô. Mà cũng lạ, cũng không gần được các ông Tàu, du khách hay đặc khu, dù các ông là da vàng chính hiệu. Thế thì không phải chỉ vì cái màu da, vì nhiều yếu tố khác. Cái cảm tưởng nó khác ta, cái khác ấy đủ để làm ta đặt nó vào vị thế "kẻ thù", hạ nó xuống ”.

Xa hơn, anh nhận ra toàn cầu hóa cũng là một đe dọa, mà nhiều dân tộc lớn mạnh hơn ta cũng không dám coi thường. Song “ con dao giải phẫu ” của anh vẫn len lỏi, sắc và sâu, điểm trúng huyệt : “ Cái đe dọa thực sự đến từ chỗ văn hóa, đạo đức của ta suy đồi đến mức mà ai cũng kêu cứu. Khi văn hóa của ta bây giờ không còn cái hồn nữa, thì nói chuyện bản sắc làm gì ? Cả thế giới bây giờ đều bị đe doạ bởi cái giả, tin giả, truyền thông giả, trí thức giả, tiến sĩ giả, cả con người cũng giả, không chừng con người sẽ làm nô lệ cho rôbốt, vậy thì có gì lạ khi cái giả mai phục khắp nơi trong cái đầu vô tư của ta? Ta chưa định nghĩa được bản sắc của ta là gì, mà cái giả tràn lan, tín ngưỡng giả, lễ hội giả, thầy bà giả, không chừng "kẻ thù" nó gán toàn cái giả vào bản lai diện mục của ta, khiến ta giả cả với ta.

Một tính cách rất Cao Huy Thuần khác mà tôi học ở anh, học hoài chưa thuộc. Đâu đó tôi thi thoảng vẫn nhân danh cái “ bản sắc ” thẳng thắn, thật thà Nam Bộ của mình để cố chấp nói cho bằng được điều mình muốn nói, bằng giọng của mình. Vẫn với nụ cười hiền, anh là người giúp tôi sửa một chút thôi, cho nó dễ lọt tai người khác, mà tôi vẫn không nhân nhượng chút nào trong chứng lý và lập luận của mình, nên tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục, và càng yêu quý nụ cười hiền của anh. Nhớ nhứt lần anh đưa tôi ra Huế, bảo tôi nói về Phan Bội Châu và vấn đề phụ nữ. Vì đã chuyên tâm đi sâu vào vấn đề, nên tôi có xác tín vững chắc rằng cụ Phan là một trong những nhà nữ quyền tiên phong của Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 20. Nhưng nói “ thẳng thừng ” như vậy ở xứ Huế cổ kính, lại là trong khuôn khổ Tuần lễ Văn hóa ngay tại một Trung tâm Văn hóa Phật giáo, thì thật là không phải đạo. Anh mỉm cười đặt giúp tôi nhan đề bài tham luận là “ Ông già Bến Ngự và nữ giới ”. Vậy là tôi có thể nói, viết mọi điều tôi nghĩ mà không làm mất lòng ai.

Tôi quý anh khi anh cười, càng thương và quý anh khi anh khóc. Anh khóc, cũng rất giản dị, chân thành, đau thấu tâm can, day dứt không quên được. Bởi vì tiếng khóc nghẹn ấy là từ trái tim yêu thương, đau xót, phẫn uất, và cũng từ cái đầu sáng suốt, học và suy nghĩ từ các nhà tư tưởng, các bậc hiền nhân Đông Tây kim cổ. Tôi còn nhớ hoài lời anh tối 24.3.2017 trong diễn từ khi nhận giải Phan Chu Trinh Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục.

Đó là lời con tim yêu thương : “ Người ở xa cảm thấy mình là Việt Nam hơn lúc ở gần. Ở xa thì thường xuyên thấy mình khác với xung quanh. Chính cái khác đó tạo ra cái mà ta gọi là bản sắc, bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc. Người ở xa không phải chỉ tha thiết với bản sắc như một khái niệm trừu tượng. Người ở xa thấy mình ăn, mặc, thương, ghét, nói, cười với cái bản sắc ấy cụ thể như cái bóng đi theo cái hình.”

Cũng là con tim xót đau, phẫn uất : “ Câu hỏi ấy cũng cần chảy máu trong lòng một dân tộc khi dân tộc ấy vọng ngoại. Khi dân tộc ấy không còn thấy cần thiết phải đặt ra câu hỏi “ tôi là ai ?”. Khi dân tộc ấy không biết mình là khác. Khi dân tộc ấy nhập nhằng giữa tôi và người. Tôi khác anh : bản sắc bắt đầu tự định nghĩa với khẳng định quyết liệt ấy. Với chữ “ khác ”. Khác ! [2]. Như một tiếng quát. Quát vào mặt kẻ nào muốn đồng hóa. Như một tiếng sấm. Sấm trong lịch sử.

Con tim ấy nóng hổi trong lời biện bác hùng hồn, đẫm tình yêu quê hương, xứ sở, con người : “ Cái gì là cốt lõi trong cái “ khác ” đó? Văn hiến. Văn hóa. Và cái gì là cốt lõi trong văn hóa ? Phong tục. Anh đừng đem Khổng Mạnh ra để nói với tôi rằng tôi giống hệt anh, tôi là con đẻ của anh. Văn hóa của tôi không phải là văn hóa của anh bởi vì phong tục của tôi không phải là phong tục của anh. Và thế nào là phong tục? Là cách sống. Văn hóa là cách sống. Là cách ăn cách mặc. Là nước mắm. Là tiếng ru em. Là ca dao. Là lễ hội. Là chùa chiền. Là làng xóm. Là thói quen. Là ký ức chung. Là ý thức tập thể. Là tất cả những gì liên quan đến đời sống của một dân tộc, vật chất cũng như tinh thần. Nói "phong tục" là lấy cái khác nhất của Đại Việt so với chàng kia mà nói, chứ “ phong tục ” chính là “ văn hiến ” đã đại cáo ở trên. Và văn hiến ấy, Đại Việt ta đây đã có “ từ lâu ”, nghĩa là đã đi vào lịch sử, nghĩa là đã truyền lại đời này qua đời kia, truyền từ khi nhà ngươi tưởng đã nuốt sống ta trong ngót ngàn năm dằng dặc.” Phong tục chính là văn hiến, một văn hiến đã lâu (lời Nguyễn Trãi). Không chỉ là biện bác hùng hồn, đây còn là xác quyết mới mẻ, soi rọi nội hàm văn hiến Việt Nam dưới góc nhìn độc đáo.

Không cần kiểu tự hào huênh hoang, rỗng tuếch nào, tác giả Cao Huy Thuần tự tin khẳng định : “ Trên thế giới, không có một nước nào so được với Đại Việt về cái rễ văn hóa sâu thẳm ấy. (…) Có nước nào trong các bạn [ở Âu, Mỹ] đẻ ra được, duy trì được, củng cố được, truyền thừa được, ấp ủ được một cái trứng văn hóa trong suốt ngàn năm đồng hóa trước khi có bờ cõi ? Bản sắc là cái gì nếu không phải là cái trứng kỳ lạ ấy? Cho đến thế kỷ 18, các bạn ở châu Âu mới thấy xuất hiện cái tư tưởng rằng văn hóa là cái “ tinh yếu ” (“ essence ”) dính chặt vào một dân tộc, và từ đó mỗi dân tộc có một “ thần khí ” (génie) riêng biệt, khác với các dân tộc khác. Nhưng lúc đó các bạn đã có bờ cõi, đã thành lập xong cái mà lịch sử gọi là Etat-Nation, dân tộc nào có Nhà nước ấy. Trong bờ cõi đã phân chia ranh giới địa dư, các bạn mới xây dựng dân tộc văn hóa song song với dân tộc chính trị. Dân tộc nào có bờ cõi ấydân tộc nào có văn hóa ấy, hai tư tưởng đó củng cố lẫn nhau. Nghĩa là lúc đó các bạn chưa có một văn hóa dân tộc, các bạn phải lần hồi xây dựng văn hóa đó, khác với Đại Việt đã có cái trứng văn hóa từ lâu trước khi nở ra thành rồng Thăng Long. Cho nên chúng tôi không phải đợi cho đến thế kỷ 18, 19 mới quan niệm, như các tư tưởng gia ở Đức, văn hóa là cái hồn ” của mỗi dân tộc, là Volksgeist.


Uyên bác mà vẫn giản dị, sáng tỏ, trong vắt như nước nguồn, Cao Huy Thuần lý giải : “ Định nghĩa chính xác cái “ hồn ấy là gì, đúng là khó. Nhưng khó, không có nghĩa là phủ nhận cái “ hồn. Bởi vì không có hai dân tộc nào cùng có một văn hóa giống hệt nhau. Nếu có tình trạng đó thì cả hai chỉ có thể hợp thành một dân tộc. Vì vậy, vì mỗi văn hóa có một sắc thái đặc biệt, văn hóa quyết định bản sắc của mỗi dân tộc. “ Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc – nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó – tức là giết chết dân tộc đó ”. (M. Kundera).


Anh thống thiết : “ Với cái " hồn ” ấy, tôi hiện hữu, tôi là tôi. Tôi nhận máu huyết từ trong đó. Tôi thở với hơi thở ấy.” Nhưng tỉnh táo : “ Cái đầu của tôi dạy rằng văn hóa là một khái niệm động, vừa như thế, vừa biến chuyển với thời gian. Không văn hóa nào sống biệt lập, tách biệt với các văn hóa khác. Chung đụng, tiếp xúc với nhau, các nền văn hóa ảnh hưởng lên nhau, mỗi cái “ tôi ” của văn hóa này phải vừa canh chừng để đừng bị “ cái khác ” làm biến chất, lại vừa bị quyến rũ bởi “ cái khác ” khi nhận ra “ cái khác ” có những ưu điểm mà mình không có, cái “ tôi ” của mình có những nhược điểm mà mình cứ gối đầu lên ngủ, bất kể nhục vinh. Và như vậy, tôi vừa là con cháu của Nguyễn Trãi, vừa là con cháu của Phan Châu Trinh.”

Nhận giải Phan Chu Trinh, anh nghe sang sảng nhà chí sĩ họ Phan, mà anh đồng tình với nhận xét của Vĩnh Sính : “ So với những trí thức cùng thời, (...) tinh thần yêu nước của Phan Châu Trinh có điểm nổi bật là rất bén nhạy về điều hay cái lạ ở nước ngoài cũng như về những nhược điểm về văn hóa và xã hội mà con người Việt Nam cần khắc phục. Từ đó mà bật ra phương châm “ dân khí ”, “ dân trí ”. Và dân chủ. Và dân chủ. Phan Châu Trinh là sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền.” Không chỉ Phan Chu Trinh, anh còn “ nghe sang sảng bên tai những Lư Thoa, những Mạnh Đức Tư Cưu, những Vạn Lý Tinh Pháp, những Khai Sáng Thế Kỷ, những Tuyên Ngôn Nhân Quyền. những tư tưởng mới làm choáng ngợp cái đầu rạng đông của Phan Tây Hồ.

Cũng như anh nghe E. Renan và định nghĩa bất hủ của nhà sử học về thế nào là dân tộc : “ Một cuộc bỏ phiếu hồ hởi hằng ngày ”. “ Un plébiscite de chaque jour ” : lịch sử nước Pháp ghi khắc câu nói ấy. Lịch sử của các nước tiến  bộ văn minh cũng ghi khắc câu nói ấy. Bởi vì câu nói ấy chứa đựng tất cả tinh túy của một văn hóa, một văn minh không riêng của một dân tộc nào mà chung cho cả mọi dân tộc.” Độc giả biết tiếng Pháp đều hiểu “ hồ hởi ” là sắc thái Việt trong phong cách diễn đạt duy tình của người dịch Renan. Vì anh đang nhắc “ lời thống thiết kêu gọi phải thắp sáng cái đầu của người dân ”, cái khát vọng cháy bỏng từ thời Phan Tây Hồ.

Bằng cả sự chặt chẽ duy lý Pháp và tình tự dân tộc Việt, nhà trí thức thấm nhuần hai nền văn hóa lý giải đanh thép : “ Cái nguyên tắc mà Renan gọi là “ tâm linh ” (“ spirituel ”) không có gì là siêu hình cả, trái lại rất cụ thể. Đó là người dân. Mỗi người dân. Mọi người dân. Mỗi người dân nắm vận mệnh của mình và của dân tộc mình. Bằng thỏa thuận. Như thỏa thuận khi ký một hợp đồng. Dân tộc là linh thiêng, bởi vì trong lòng mỗi người dân đều có cái “ hồn ” của tổ tiên, nhưng dân tộc chỉ trường tồn trong hiện tại, trong tương lai, khi chính người dân, chứ không phải một ai khác trên cao xanh, cùng nhau thỏa thuận về vận mệnh của đất nước. (…) Chữ “ plébiscite ” của Renan không có nghĩa tầm thường của một cuộc trưng cầu dân ý. (…) “ Plébiscite ”, trong cái nghĩa của Renan, không phải đo bằng con số. Đo trong lòng người, người dân nào cũng biết đo và đo rất chính xác, trung thực.”


Rồi anh trăn trở : “ Nếu ai có chút tiền đều muốn đưa con ra ngoài để học rồi để ở lại, thì tim đâu để máu chảy về ? Thì đâu còn định nghĩa được tôi là ai ? Thì lấy người khác làm mình. Thì đâu là “ dân khí ” ? Cái “ hồn ” nằm ở đâu ? ” Anh nóng lòng, thôi thúc : “ Vì chỉ cần ta định nghĩa ta là Phan Châu Trinh, ta có cái đầu văn hóa mở ra với những chân trời khác, những bình minh khác cùng sáng lên hai chữ “ dân quyền ”. Chỉ cần thế thôi, một bước ấy thôi, dân tộc chờ đợi từ thời Phan Châu Trinh. (…) Một bước. Cả vận mệnh nằm trong một bước. Bước đi ! Cái “ tôi ” của ngày nay, cái “ ta ” kiêu hùng, cả tổ tiên nằm trong một bước.

Anh kết luận, vẫn là phong cách Cao Huy Thuần, giản dị, trong như nước : “ Trung thành với đạo Phật của tôi, trung thành với dân tộc của tôi, tất cả những gì tôi viết, dù là nước mắm, dù là tương chao, dù là văn hóa, dù là giáo dục, đều nhắm đến một lý tưởng, lý tưởng của Phan Châu Trinh : Tiến Bộ.” Kinh Pháp Hoa hiến cho anh một hình ảnh đẹp : “ Viên ngọc giấu trong áo cũ. Áo cũ phải thay, viên ngọc vẫn giữ.”

Chắc chắn không chỉ mình tôi, mà mấy trăm người trong khán phòng hôm đó, ngày 24 tháng 3 năm 2017, đều lặng đi, nghẹn ngào cùng lời cuối của anh : “ Tôi là ai ? Dân tộc tôi là ai ? Là gì ? Là thế nào ? (…) Tôi không phải như thế này, tôi đáng lẽ phải là thế khác. Dân tộc tôi xứng đáng hơn thế này. Dân tộc tôi, nghẹn ngào mà nói, chưa xứng đáng với tổ tiên.”

Và bây giờ, anh đi. Nhiều người nhắc anh với những hình ảnh minh triết như “ lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh ”, hay “ chia tay mà không biệt ly ”. Có lẽ tôi chưa đạt cảnh giới đó. Nhớ anh, tôi da diết nhớ nụ cười, tiếng khóc, nhớ lời anh “ nghẹn ngào mà nói ”. Kính tiễn anh, tôi nhớ nụ cười hiền !


Sài Gòn, tối 9.7.2024.


Bùi Trân Phượng




[1] Chữ dùng của Nguyên Ngọc chỉ Cao Huy Thuần


[2] Trước đoạn này, tác giả Cao Huy Thuần vừa dẫn lại Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo: “…cõi bờ sông núi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác.”


NGUỒN : Người Đô Thị


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us