Phan Huy Đường, Người tư duy tự do
Phan Huy Đường, Người tư duy tự do
Nguyễn Hữu Hồng Minh
I.
Người tư duy tự do chỉ là một ý tôi rút ra từ cái tựa sách của nhà nghiên cứu triết học, dịch giả Phan Huy Đường “Penser librement”. Dịch thoát qua là “Nghĩ thoải mái”. Chữ này tưởng cũ thế mà hóa ra đắt ghê gớm !
Tôi nhớ cái ấn tượng lạ lẫm châm biếm mà trong những lần liên lạc với tôi, khi gửi những thông tin từ website “Ăn mày văn chương” bao giờ ông cũng thòng thêm một câu “cứ thoải mái xem”. Với tư duy của người Việt hình như vẫn quen và thích “cứ thoải mái ăn” chứ chưa quen lắm với “thoải mái xem”! Ngay với đám nhà văn chữ nghĩa cũng thế! Lười đọc. Chậm đọc. Và không đọc! Vì những cái mới lạ là thử thách và khó tiêu. Ăn khó tiêu, nhưng ngon miệng vẫn cứ cố ăn. Đọc khó tiêu một chút là ngại, là bỏ! Vì thế cứ thoải mái xem tưởng sung sướng lắm hóa ra cực hình! Và đó là một chất giễu nhại đầu tiên về cốt cách và thế giới Phan Huy Đường.
*
Chân dung nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu Triết học Phan Huy Đường (1945 - 2019)
Phan Huy Đường là một tên tuổi lớn trong những trí thức sống ở nước ngoài và vẫn làm việc chí cốt với tiếng Việt. Tôi nói “làm việc với tiếng Việt” theo nghĩa đen là có nguyên nhân. Ông là một dịch giả gạo cội và đã chuyển ngữ rất nhiều tác phẩm tương đối có tầm, có tiếng vang của các nhà văn Việt Nam ra tiếng Pháp và sau này là tiếng Anh. Một công việc mà phải nói rõ rằng chỉ có thể làm bằng tình yêu khi xa quê hương bởi ông kể cho tôi hay ông sang Pháp từ những năm 1963, khi vừa 18 tuổi. Có lẽ ông thuộc thế hệ các nhà văn, dịch giả đi học và ở lại để có môi trường được làm việc, cống hiến nhiều hơn chứ không vì biến cố chính trị. Ông có viết một cái biographie khá ấn tượng để trên trạm đọc Ăn mày văn chương do ông tổng chủ như sau:
"Sinh 1945 tại Hà Nội, Việt Nam. Năm có hơn triệu người Việt chết đói.
Còn sống: 2007, Antony, Pháp. Năm có hàng chục triệu trẻ em trên thế giới đang đói. (Thời điểm ông lập trang web và viết những dòng này - Nguyễn Hữu Hồng Minh chú thích).
1963: du học tại Paris, ngành dược. 1965: Bỏ dược vì không thích, không muốn sống chỉ để kiếm tiền và cũng không có khả năng đi xa hơn thế trong ngành này.
Quay sang học kinh tế. Học xong cử nhân, bỏ kinh tế vì không tin. Lỗi tại Karl Marx.
Quay sang học tin học, có vẻ chắc ăn hơn. Quả vậy; vừa thích thú vừa cơm cháo đề huề, chưa bao giờ bị đói. Than ôi!...
Bắt đầu hành hạ tiếng Pháp đầu thập niên 80.
Bắt đầu hành hạ tiếng Việt cuối thập niên 80.
Bắt đầu dịch văn chương Việt Nam qua tiếng Pháp đầu thập niên 90.
Bắt đầu phụ Nina McPherson hành hạ tiếng Mỹ đầu thập niên 90.
Bắt đầu hành hạ chính mình từ lúc nào thì không biết vì chưa bao giờ có nhu cầu.
Dù sao, cho tới chết, trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ biết viết chính mình thôi. Dở quá... Đành vậy!"
Dấu
vân tay, thủ bút của nhà văn Phan Huy Đường
trên website
họa sĩ Phan Nguyên.
Như vậy có thể thấy ông quay lại bắt đầu hành hạ tiếng Việt cuối thập niên 1980 mà trước đó đầu thập niên là hành hạ tiếng Pháp. Ông nghiên cứu triết học, là chuyên gia về Jean - Paul Sartre, về các tác giả thơ Pháp, về các trào lưu Hiện đại, Hậu hiện đại... Đặc biệt ông viết nhiều cuốn sách bằng tiếng Pháp trong đó có cuốn Penser librement sau này chuyển ngữ tiếng Việt thành “Tư duy tự do” in ở nhà xuất bản Đà Nẵng. Nếu tôi nhớ không lầm trong lần hai anh em gặp nhau và đi chơi ở Paris, anh có kể cuốn sách là một công trình nghiên cứu làm luận án tiến sĩ của anh. Văn bằng này sau đó anh bỏ ngang hay đã bảo vệ xong tôi không còn nhớ nhưng cuốn sách là một “hậu chứng”. Phan Huy Đường là một người rất yêu tự do. Tự do theo nghĩa của thi sĩ Sandor Petofi (Hungary) khắc đá trong một bài thơ nổi tiếng do nhà thơ Xuân Diệu dịch:
Tự
do và ái tình
Vì
các ngươi ta sống
Vì
tình yêu lồng lộng
Tôi
hiến cả đời tôi
Vì
tự do muôn đời
Tôi
hy sinh tình ái.
Tuy nhiên, bản dịch này văn vẻ quá, nhiều chất mơ mộng - duy tình hơn là khẳng định tính chất tự do - duy lý mà theo tôi, Sandor Petofi muốn gửi gắm đề đạt. Có vẻ như “Người tư duy tự do” Phan Huy Đường gần hơn với bản chuyển ngữ sau:
Tôi
chỉ cần hai điều
Tự
do và tình yêu.
Vì
yêu hiến cả đời mình
Vì
tự do nguyện quên tình yêu thương.
Lại nói về trạm đọc hay website “Ăn mày văn chương”. Có thể nói, ông gửi mail mời tôi là một trong những người đầu tiên khi vừa xây dựng xong, công bố rộng rãi trên không gian ảo. Lý do cũng rất đơn giản, ông đọc những bài tôi viết lúc đó trên talawas, một diễn đàn văn học nghệ thuật trí thức nổi tiếng thời điểm ấy. Ông muốn những trao đổi trên bình diện văn hóa ấy cô đặc, tập trung lại dưới một file của một tác giả. Và từ tác giả này sẽ giới thiệu một tác giả khác lồng vào trong file riêng của mình nếu nhận thức bản thân thấy đó là một cá nhân có triển vọng đầy năng lực, năng lượng. Tôi nhìn vào những nhà văn tên tuổi lúc ấy như Mai Ninh, Miêng, Phạm Trọng Luật, Nam Dao, Trần Vũ và ông Phan Huy Đường.
Nhà
văn, dịch giả Phan Huy Đường và Nguyễn Hữu Hồng Minh
trong một quán nhỏ ở khu Đại học La Tinh - Paris. (Ảnh:
Cao Việt Dũng)
Ông cắt nghĩa “chữ ăn mày văn chương” với cái nhìn của một triết gia, hóm hỉnh và trí tuệ. Đó là sự liên đới và bổ túc cho nhau. Người đọc và Nhà văn là một sự gắn bó mật thiết, biện chứng không thể tách rời. Tác phẩm văn chương chỉ hình thành trong quá trình đọc của độc giả. Vì thế nó có khả năng tồn tại trong một không gian và thời gian rộng lớn hơn không gian và thời gian của tác giả. Tôi muốn trích lại trung thực ý ông vì không thể cắt nghĩa hay hơn được nữa:
“Trong văn học, tôi kêu gọi người khác đọc những gì tôi viết vì không có ai đọc thì những gì tôi viết chỉ tồn tại như một mớ giấy lem nhem mực, không thành tác phẩm, không thành văn.
Điều trên cần thiết nhưng không đầy đủ. Nếu người đọc tiếp cận bài vở của Tôi với một tấm lòng bẩn thỉu đầy hận thù, ganh ghen, với đầu óc đầy thành kiến, nghi kỵ, không gợn chút tự do tin người, có đọc nghìn lần đi nữa thì trước tác của Tôi cũng không thành văn được. Chỉ khi nào người ấy đọc trước tác của Tôi với lòng nhân và lý trí tự do của con người, trước tác đó mới có khả năng thành văn, mới có khả năng tồn tại vượt thời gian và thời đại của Tôi. Và đây là điều kiện cuối cùng, cơ bản nhất: trước tác của Tôi phải có khả năng khơi lòng nhân và lý trí tự do nơi người đọc, như thế nó mới có khả năng tìm được người đọc xứng đáng và trở thành văn chương.
Vì vậy, khi Tôi đọc văn của người khác, điều đầu tiên Tôi cố gắng làm là quét sạch kiến thức của Tôi để có thể đón nhận một con người khác Tôi, trong tư thế của một con người tự do, bình đẳng và trìu mến.
Đó, với Tôi, là thái độ ăn mày văn chương.
Và cũng chỉ là thái độ văn chương thôi. Còn phải viết sao cho hình thức với nội dung quyện lại thành một, biến thành văn phong trung thực của một con người, biến thành nghệ thuật”.
Rất tiếc là tôi đã không tham gia với ông vào cái Trạm đọc “Ăn mày văn chương” đó. Chỉ vì một lý do, bất ngờ tôi không thấy nhà văn Trần Vũ xuất hiện trong sáu nhân vật điều hành chung cái “Trạm đọc” ấy như ông đã giới thiệu dẫn ra! Sau này tôi mới biết Phan Huy Đường cũng chưa phải “tư duy tự do” cho lắm (!?). Ông cũng khá “thủ cựu”. Có thể vì tuổi tác! Bởi vì không thích Trần Vũ quá lăng xê truyện ngắn Đỗ Hoàng Diệu mà ông “không muốn cho Vũ chơi chung nữa” như một cách ông “đáo để” bảo tôi trong những đêm gặp gỡ hai anh em lang thang Paris. Tất nhiên tôi thừa hiều là còn nhiều chuyện khác. Mà thôi, quan trọng gì đâu! Vì kể chuyện về Vũ thì giọng ông vẫn đầy thương mến như giọng một ông anh Cả đối với một thằng em trai.
Tôi nhận ra tâm hồn ông thật trẻ trung và cách yêu ghét quá mãnh liệt. Tuy vậy, nghe kỹ thì ẩn sâu trong những câu chuyện của ông bàng bạc nỗi tiếc nuối của một người sống lang bạt, xa quê hương quá lâu. Lần gặp gỡ ngắn ngủi ở trời Âu đó ông kể nhiều chuyện về giới văn chương, trí thức, chữ nghĩa, triết học, chuyện vỉa hè Paris…bằng một giọng Bắc 54 đều đều, duyên dáng nhưng sắc cạnh đến từng âm tiết… Càng có tuổi hình như lại càng nhiều thương nhớ!
Sau này, tôi đọc trong tiểu thuyết “Một mối tình ngụ cư” của Phan Huy Đường thật nhiều giằng xé, tâm trạng. Ông viết: “Có nỗi đau cứ vô lý lang thang dưới hình hài tôi, chẳng để làm gì!...”.
Chân
dung nhà văn Phan Huy Đường
(Tư liệu của họa sĩ Nguyễn
Trọng Khôi)
*
* *
II.
Tôi chưa đọc Phan Huy Đường nhiều bằng đọc các bài viết ký tên Trần Đạo. Sau này mới biết hóa ra Trần Đạo, Đơn Hành chính là bút danh của ông. Bên trong con chữ ông giấu kín nỗi đau và tình yêu Tổ quốc nhìn từ xa…
Rất nhiều bài viết của ông trên diễn đàn hướng về đất nước. Nguồn cội có lẽ chưa bao giờ thôi day dứt trong ông. Tôi đặc biệt chú ý loạt bài ông viết đã lâu khi trở về quê hương và có một chuyến đi dọc những miền đất khúc khuỷu quanh co mang hình chữ S. Ông viết và bày tỏ tình yêu của mình bằng những câu hỏi cật vấn, riết róng, thiết tha làm sao để có nhiều “tự do” hơn, nhiều “cải cách” hơn để đời sống con người tốt hơn. Sau loạt bài chất chứa nỗi niềm ấy tôi thấy ông không viết nữa.
Nhà
văn, nhà nghiên cứu triết học, dịch giả Phan Huy Đường
(phải)
và họa sĩ Phan Nguyên
Khi sử dụng tên thật cho những nghiên cứu triết học, ngôn ngữ hay sáng tạo văn chương, những trang viết của ông như có hồn hơn. Có nỗi đau vô lý, vô hình cứ ám ảnh đến chết một cuộc đời. Và chữ nghĩa tha nhân nhìn cách nào đó có khác gì là “một mối tình ngụ cư” giữa cuộc đời viễn mộng.
Nhà văn Albert Camus từng viết “Chỉ có một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc và đó là tự sát. Phán xét liệu cuộc đời có đáng sống hay không cũng giống như trả lời câu hỏi cơ bản của triết học. Tất cả những điều còn lại - thế giới có ba chiều hay không, trí óc có chín hay mười hai hạng mục - đều đi sau đó. Đó là những trò chơi; người ta đầu tiên phải trả lời đã...”.
(There is but one truly serious philosophical problem and that is suicide. Judging whether life is or is not worth living amounts to answering the fundamental question of philosophy. All the rest - whether or not the world has three dimensions, whether the mind has nine or twelve categories - comes afterwards. These are games; one must first answer!).
Nhà
văn Albert Camus thời gian viết tiểu thuyết phi lý hiện
sinh nổi tiếng
"L'Étranger" (Kẻ xa lạ), năm 1942
Và cách trả lời của Phan Huy Đường ở trong nhiều bài viết ký tên Trần Đạo, Đơn Hành, những bút hiệu cũng cho thấy lý lẽ tối thượng của một người nghệ sĩ cô đơn, dám tư duy tự do. Và điều đó cũng có nghĩa là đã chọn cho mình một tử huyệt. Như một câu nói nổi tiếng của triết gia Hegel: “Nếu muốn yêu thương anh phải phụng sự. Nếu muốn tự do anh phải chết!” (If you want to love you must serve, if you want freedom you must die).
Phan Huy Đường làm việc khá khoa học và chuyên cần, để lại rất nhiều trước tác. Ông tư duy, sáng tạo, viết lách song cả hai thứ tiếng là Pháp và Việt. Và hẳn nhiên là có nhiều cuốn thực sự có giá trị. Tôi tin thời gian sắp tới đây sẽ được in, giới thiệu ở trong nước. Bạn đọc ham chuộng trí thức và giới trẻ thích nghiên cứu hẳn nhiên là có thêm một nguồn tham khảo khá đắc địa. Những tác phẩm như: “Một hành trình tư duy”, “Vẫy gọi nhau làm người”, “Tư duy tự do”, “Chơi trò Babel”, “Aimer - Mourir - Yêu - Chết”, “Thơ người dị ứng với thơ”, “Một mối tình ngụ cư”, “Nhạc ở tôi”, “Lang thang chữ nghĩa”… Trong đó như tôi đã nhắc có cuốn “Penser librement” nguyên bản bằng tiếng Pháp đã được chính tác giả viết lại bằng tiếng Việt từng được in ở nhà xuất bản Đà Nẵng từ 2004.
Và nếu “Penser librement”, muốn “tư duy tự do” thì phản đề như Hegel, còn phải tập chết trước khi chết thật nhiều lần nữa! Trong cảm thức. Trong phẫn nộ. Trong chọn lựa. Trong tư tưởng.
***
Không chỉ viết mà chính Phan Huy Đường còn dịch. Và điều này mới đáng nói, ông là một cây cầu văn hóa giới thiệu văn chương Việt Nam ra với thế giới qua kênh tiếng Pháp. Và sau này còn là tiếng Anh. Các nhà xuất bản, các kênh như Philippe Picquier, Nina McPherson… đã từng giới thiệu khoảng 50 gương mặt các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam. Ông đã chọn dịch văn Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Trần Vũ, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Khánh Trường…, thơ Lê Đạt, Nguyễn Duy, Bùi Minh Quốc, Lê Bi… Có thi phẩm ông chọn dịch các nhà thơ nữ trẻ Phan Huyền Thư, Phạm Tường Vân, Chinh Lê, Ly Hoàng Ly… và nhiều tác giả khác nữa. Chừng mực nào khá lớn lao, ý nghĩa. Mà cũng có thể gọi là đồ sộ!
Tuy nhiên, khi theo dõi Trạm đọc “Ăn mày văn chương”, tôi bỗng nhận ra một điều khá thú vị, thậm chí trái ngược về công việc dịch thuật của ông. Phan Huy Đường hoàn toàn không đánh giá cao chuyện này. Thậm chí ông còn mỉa mai, dè bỉu nó. Ông gọi công việc của mình là buồn thảm, là Bóng (trong nghĩa cái Bóng). Thảm hại hơn, công việc dịch thuật là “Bóng của một cái Bóng”.
Vậy tại sao lại dịch?
Ờ, thì bởi vì không thể không dịch!
Như thế nào là một tác phẩm? Liệu có phải vì bên ngoài nó có một chiếc bìa vẽ đẹp lộng lẫy, có tên tác giả tên sách, nhà xuất bản, là một khổ giấy 13x19 chẳng hạn. Bên trong là đầy chữ, đựng một câu chuyện, một triết thuyết, hay dễ hiểu hơn dựng một bài thơ, một truyện ngắn, truyện vừa truyện dài hoặc một tiểu thuyết nào đấy?
Không! Hoàn toàn không phải!
Ai nói như thế? Xin thưa, Jorge Francisco Isidoro Luis Borges!
Luis Borges, là ai mà có thể hồ đồ như vậy?
Vâng, có thể ông hồ đồ vì ngay từ lúc còn sống, ông đã được coi là một tác giả kinh điển của nền văn học thế kỷ XX. Lại nữa, gần như cả đời đã dồn mọi tâm lực vào sáng tác trong cảnh mù lòa, không vợ con. Có thể lắm chứ!
Nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà văn Luis Borges.
Luis Borges, cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Ông là người được đánh giá có kiến văn uyên bác trải từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Các tác phẩm của ông, bao gồm truyện ngắn, tiểu luận, thơ, phê bình văn học và dịch thuật, không ngừng là nguồn cảm hứng to lớn đối với các nhà văn toàn thế giới. Ông có một quan niệm riêng về một tác phẩm, một cuốn sách như sau: "Thật phi lý khi cho rằng một cuốn sách không phải là một cuốn sách. Nó bắt đầu có mặt khi một độc giả mở nó ra!”.
Phan Huy Đường lặng lẽ làm công việc “mở ra những cuốn sách ấy” từ một phía khác. Chuyển ngữ. Ông chỉ đi bên cạnh Luis Borges trong việc “phục sinh” hay “cho nó có mặt” với người đọc bên ngoài thế giới còn bưng thức và tăm tối Việt. Tình nguyện làm cái Bóng của một cái Bóng!
Tôi trích lại nguyên văn dưới đây một đoạn văn ông viết về cái nghề buồn thảm. Dịch thuật. Và kỳ thực, tôi chưa thấy ai viết hay như thế! Trong khi chúng ta còn quá “diêm dúa” tham lam, khoe mẽ với những đòi hỏi “dịch giả là đồng tác giả”, “dịch giả hay hơn tác giả” thì Phan Huy Đường đã bắt được cái Bóng của một cái Bóng ấy! Một tư duy tự do.
Nhà văn Milan Kundera
“Thời còn sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực, có lúc Milan Kundera chỉ viết cho một độc giả duy nhất, dịch giả của mình. Lúc đó, tác phẩm của ông tới độc giả nhờ bản dịch. Nay Kundera đã thành danh quốc tế. Ông vừa cho xuất bản tập tiểu luận Les testaments trahis. Có đoạn ông lên án mãnh liệt khuynh hướng thiếu thủy chung trong thuật dịch văn chương.
Một nhà văn có khả năng và điều kiện làm chủ tác phẩm của mình và những bản dịch là chuyện đáng mừng. Mừng cho nhà văn, mừng cho độc giả. Có nhiều nhà văn lớn rất sành ngoại ngữ, có thể viết thẳng tác phẩm của mình bằng ngoại ngữ. Chẳng mấy khi họ tự dịch. Cũng lạ. Và đáng tiếc. Có lẽ đó là cách duy nhất để có bản dịch "thủy chung", có khi một cách bất ngờ. Như Marx viết lại bản dịch Tư bản luận của Roy, và thản nhiên tuyên bố: bản tiếng Pháp, do ông viết lại, có giá trị khoa học ngang với bản gốc tiếng Ðức. Tới nay, đụng vấn đề, nhiều độc giả điên đầu, không khẳng định nổi bản nào "gốc" hơn bản nào. Cứ như truyện Cửu Âm chân kinh của Kim Dung ấy. Dù sao, thế giới văn chương đã co lại. Chẳng ai sành nhiều ngoại ngữ. Giao lưu văn hoá vẫn cần người dịch văn. Nghệ thuật dịch còn là đề tài đáng suy nghĩ.
Nhà
văn Phan Huy Đường (trái) và nhà thơ Chân Phương.
(Ảnh
trên facebook CP)
Ngày nay, khốn nạn hơn "nghề" dịch văn, hiếm.
Ai thích làm giàu, nên tránh xa. Ở Pháp, đó là một nghề khốn khổ. Người được Giải dịch thuật quốc gia năm 1992 ở Pháp, vì đã dịch toàn bộ tác phẩm của một nhà văn lớn của Bồ Ðào Nha, đã thổ lộ trong báo Le Monde: tính theo giờ, lương không bằng lương người quét dọn thuê (femme de ménage). Ðúng thế. Giá công đoàn (tarif syndical) hiện nay ở Pháp là 87 FF một trang 1500 ký hiệu. Người dịch giỏi, dịch cho nhà xuất bản lớn, dịch sách ăn khách, có thể hy vọng 130 FF một trang. Dịch cho "ra hồn" văn một tác phẩm hai, ba trăm trang có thể mất hơn cả năm. Dịch xong, có khi nhà xuất bản không thích bản dịch, hoặc không còn khả năng xuất bản văn chương ngoại quốc. Lúc đó, có thể toi công, ít nhất một phần lớn. Muốn thu hoạch khá, đều đặn, và đảm bảo hơn, nên quét dọn thuê. Chí ít cũng lợi cho mình, cho người.
Bìa
cuốn "Thiên sứ" - "La messagère de cristal"
của nhà văn Phạm Thị Hoài
do dịch giả Phan Huy Đường
chuyển ngữ
Ai thích an phận, càng nên xa chuyện dịch văn. Trớ trêu như "nghề" này, hiếm. Thành tâm đến mấy, cẩn trọng đến mấy, cũng trở thành kẻ phản bội, đối với một số độc giả, có khi đối với chính nhà văn. Xưa, khi Baudelaire công bố tác phẩm của Edgar Poe, thiên hạ liền nhao nhao lên án. Ngày nay, có nhiều bản dịch Edgar Poe khác, không mấy ai lẫn lộn Baudelaire với Edgar Poe. Tuy vậy độc giả Pháp vẫn thích đọc Edgar Poe qua bản dịch của Baudelaire…”
(Trích Trạm đọc “Ăn mày văn chương).
***
Khi đọc tin anh Phan Huy Đường mất, tôi hơi choáng. Thực ra cõi người đến lúc lá rụng về cội thôi. Một người sống xa tổ quốc như anh từ năm 18 tuổi thì việc sống chết cũng hiển nhiên, bình thường. Nhưng như thế từ nay các bạn văn hay yêu văn chương chữ nghĩa khi đến Paris sẽ không còn một ông anh tâm tình như thế, chí tình như thế! Được ở bên anh, nghe anh nói chuyện học hỏi thêm được biết bao nhiêu điều hay về cõi đời, cõi văn thú vị!…
*
* *
III.
Lại nhớ lần qua Pháp cùng nhà văn dịch giả trẻ Cao Việt Dũng, chúng tôi được nhà văn, dịch giả Phan Huy Đường đón tiếp nồng hậu ở cà phê Les Deux Magots. Sau đó ông giới thiệu Café de Flore, một thời là địa điểm lui tới của các nhà văn hiện sinh nổi tiếng như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… cùng nhiều nhóm trí thức văn nghệ sĩ tiên phong lừng lẫy một thời, trong đó có cả nhà triết học Trần Đức Thảo.
Buổi sáng cuối tuần ở Paris, chúng tôi hẹn nhau đến đây uống cà phê. Thong thả nhìn ngắm những bức hình ngày xưa. Nghe ông kể lại chuyện Trần Đức Thảo từng gặp Jean Paul Sartre ở đây như thế nào? Trong cái lạnh tuyết giá bắt đầu rơi ở Pháp giữa tháng mười một, chúng tôi đã có những tranh luận thú vị về văn học, văn chương Việt Nam. Tôi nhớ Cao Việt Dũng đã “cãi” nhau với Phan Huy Đường rất hăng! Còn học giả uyên thâm tên tuổi chỉ cười. Nụ cười có sức mạnh hiền triết “giải chấp” tất cả.
Chân
dung Nhà văn, Nhà nghiên cứu Triết học,
Dịch giả Phan
Huy Đường
Oil painting 8 x 10 - Họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi
Sau đó, Phan Huy Đường còn lấy xe hơi chở tôi đi khám phá nhiều quán cà phê khác ở Paris. Tôi nhớ quán cà phê ở khu La-Tinh hay còn gọi là khu đại học Paris, không gian của quán đặc biệt và có sức quyến rũ đến nỗi câu chuyện chúng tôi kéo dài đến tận… 3 giờ khuya!
Café de Flore lịch sử ở Paris Pháp, nơi gặp gỡ nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… Trong đó có cả nhà triết học Trần Đức Thảo. Đây cũng là nơi khởi nguồn cho nhiều cuộc tranh luận quan điềm, nghệ thuật...
Nhà nghiên cứu Triết học Trần Đức Thảo (1917 - 1993) thời gian ở Pháp
Lần khác, ông lấy xe chở tôi đi ăn trong khu phố China Town quận 13. Rồi tiếp tục lang thang đến một quán ăn Ả Rập, mà ông nhỏ nhẻ giới thiệu rằng nhà riêng của tổng thống Pháp Francois Mitterrand ở gần đây thôi! “Tổng thống Pháp cũng thích ăn cơm với thịt trừu và uống vang đấy”. Ông hóm hỉnh giễu nhại. Mà thật! Cái mùi thịt trừu (cừu non) nướng bốc khói trong sương lạnh với những câu chuyện văn chương nhớ đâu kể đó, lan man không đầu không cuối thật là quyến rũ. Tôi nhận thấy tâm hồn ông thật trẻ trung. Hoàn toàn không có những biên giới hay khoảng cách tuổi tác. Dấu vết thời gian có chăng ở đuôi mắt nhiều vết chân chim. Thi thoảng giữa câu chuyện có chút gợn buồn vì những mong ước từ thời trẻ đến hôm nay, như nhạc sĩ Phạm Duy viết là vẫn “tôi đang mơ giấc mộng dài/ Đừng lay tôi nhé cuộc đời xung quanh”. Nhiều chuyện giữa trí thức trong - ngoài nước vẫn cộm lên, dày thêm những bức tường thành, chuyện hòa hợp hòa giải dường như vẫn còn quá xa mới như ngày nào từ Pháp ông cũng góp lên một ánh lửa tranh đấu cho Việt Nam hòa bình. Giờ tuổi đã cao và bao nhiệt huyết, giấc mơ đã trở thành hoài niệm. Cuộc đời quá ngắn cho mọi việc, mọi chuyện. “Vẫy gọi nhau làm người” cuối cùng hóa ra là là cú vẫy của hư ảo. Như thi sĩ Phạm Hầu đã từng viết trong “Vọng Hải đài”: “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Không biết xa lòng có những ai?…”.
Vẫn có những tri âm vẫy lại ông đó chứ! Ví như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã viết về “Tư duy Tự do” cuốn sách quan trọng tối thượng của nhà nghiên cứu Triết học Phan Huy Đường như sau:
Bìa
cuốn sách "Tư duy Tự do" của Phan Huy Đường
do
nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành
“Tự do của con người được tác giả xem xét trong quan hệ của nó với vật chất, trong quan hệ của nó với sự sống và trong quan hệ của nó với “tha nhân và với chính mình”. Từ ba quan hệ này có ba hình thái của tự do. Hình thái thứ nhất đòi hỏi sự hiểu biết vật chất một cách chính xác, tức là kiến thức khoa học, hoặc nói một cách bao quát, đó là “tính tất yếu được nhận thức”. Hình thái thứ hai đòi hỏi “tình yêu sự sống”. Hình thái thứ ba đòi hỏi “tình đoàn kết giữa người với người”. Đoàn kết là “nhận thấy mình ở tha nhân và tha nhân ở mình trong quan hệ với người khác, với chính mình”. Hiểu như vậy, “đoàn kết là hình thái tối cao, là chân trời của tự do”…
Dù ít ỏi nhưng đó không phải là những tín hiệu của hư vô.
***
Tạm biệt nước Pháp và Paris, ông gửi tặng tôi mấy tập thơ của Paul Éluard và Pablo Neruda bản tiếng Pháp. Cũng bởi xung quanh những câu chuyện chúng tôi nói ở Paris chỉ như mở ra chưa bao giờ khép lại. Và Phan Huy Đường cho thấy ông là một người rất sành về thơ. Sau này tôi mới đọc được các bài viết của ông về Thơ trên “Ăn mày văn chương”. Đặc biệt ông còn dịch nhiều thơ của các nhà thơ trẻ Việt Nam mà ông thích qua tiếng Pháp và tiếng Anh.
Nhà thơ Pablo Neruda (1904 - 1973)
Trong mấy lần gặp gỡ ngắn ngủi của chúng tôi ở Paris, ông có nói về bài thơ “Tự do” của Paul Éluard cũng như “Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng” của Pablo Neruda. Ông nói, thơ thực thụ không chỉ mới mẻ về hình thức mà còn phải hàm chứa những suy luận triết lý. Dấu ấn siêu thực thể hiện đậm nét ở cách quan niệm bí ẩn, siêu hình về mối tương quan hữu cơ giữa các mặt đối lập trong thực tế như sống - chết, thực - ảo, cái có thực - cái tưởng tượng, cái cao cả - cái thấp hèn, cái quá khứ - cái tương lai… Ông cho đó là những bài thơ chiến đấu và có tính dân tộc rất lớn. Đã là một thi sĩ thì không thể không biết đến những bài thơ trác tuyệt như thế. Sau này, tìm hiểu thêm, tôi mới biết cả hai thi sĩ Paul Éluard (Pháp) và Pablo Neruda (Chi Lê) đều là những nhà thơ từng yêu lý tưởng người Cộng sản.
Bìa
cuốn sách có hai mặt "Yêu" và "Chết" -
Một tác phẩm của Phan Huy Đường
do họa sĩ Nguyễn
Trọng Khôi trình bày
Tôi muốn giới thiệu lại bài thơ “Liberté” của Paul Éluard mà anh Phan Huy Đường rất thích. Cũng có thể qua đó, thấy một phần nào ánh sáng tâm hồn anh, người “Tư duy tự do” đã từng nghĩ về tự do!
Bài thơ sau là bản dịch của Tế Hanh. Trong các bài thơ chuyển ngữ từ tiếng Pháp, tôi thích các bản dịch của Tế Hanh hơn cả.
Thi sĩ Paul Éluard (1895-1952), tác giả bài thơ Liberté - Tự do nổi tiếng
Bài thơ Tự Do - Liberté - Paul Éluard
Trên
những trang vở học sinh
Trên bàn học trên cây
xanh
Trên đất cát và trên tuyết
Tôi viết tên
em
Trên những trang sách đã đọc.
Trên
những trang trắng chưa dung
Đá máu giấy hoặc tro
tàn
Tôi viết tên em
Trên hình ảnh rực vàng
son
Trên gươm đao người lính chiến
Trên mũ
áo các vua quan
Tôi viết tên em
Trên sa mạc
trên rừng hoang
Trên tổ chim trên hoa trái
Trên
thời thơ ấu âm vang
Tôi viết tên em
Trên
điều huyền diệu đêm đêm
Trên khoanh bánh trắng
hằng ngày
Trên các mùa cùng gắn bó
Tôi viết
tên em
Trên những mảnh trời trong xanh
Trên
ao mật trời ẩm mốc
Trên hồ vầng trăng lung
linh
Tôi viết tên em
Trên mỗi khoảnh khắc
hừng đông
Trên đại dương trên tàu thuyền
Trên
vùng núi non điên dại
Tôi viết tên em
Trên
áng mây trôi bềnh bồng
Trên nhễ nhại cơn bão
dông
Trên hạt mưa rào nhạt thếch
Tôi viết tên
em
Trên cây đến vừa thắp sang
Trên cây đèn
đang lụi dần
Trên cả họ hàng quây quần
Tôi
viết tên em
Trên nơi trú ẩn tan hoang
Trên
ngọn hải đăng đổ nát
Trên mấy bức tường ngao
ngán
Tôi viết tên em
Trên sức khoẻ được
phục hồi
Trên hiểm nguy đã tan biến
Trên hi
vọng chẳng vấn vương
Tôi viết tên em
Và
bằng phép màu một tiếng
Tôi bắt đầu lại cuộc
đời
Tôi sinh ra để biết em
Để gọi tên em
(Tế Hanh dịch)
Trong một mail trao đổi giữa ông và tôi khá lâu (2007) ông viết như sau về ý thức quan trọng như thế nào trước cám dỗ sa lầy hay sa đọa văn chương. Một cảnh báo trước cái Ác nhân danh mỹ miều sa-lon nghệ thuật:
"Khi nhà văn mô tả con người bị ép sống như thú vật, văn phong càng trong sáng bao nhiêu càng khiến độc giả thương cảm thân phận làm người bấy nhiêu!
Khi nhà văn đội lốt người cho thú vật để thăng hoa nếp sống cầm thú với nhau trong nhân giới, văn phong càng mỹ miều bao nhiêu càng trơ trẽn bấy nhiêu!…".
Tiễn biệt ông, Nhà văn, Nhà nghiên cứu Triết học, Dịch giả Phan Huy Đường.
Hay ngắn gọn, đầy đủ nhất, tiễn biệt một Người tư duy Tự do!
Để biết thế giới luôn rộng mở và những chân trời chưa bao giờ đóng lại…
Sài Gòn, chiều 24/10/2019.
Nguyễn Hữu Hồng Minh
Nguồn : Duyên Dáng Việt Nam
Các thao tác trên Tài liệu