Tiếc thương anh Bùi Trọng Liễu
Tiếc thương anh Bùi Trọng Liễu
Nam Dao
Về nhà sau một chuyến đi
xa, có tin nhắn vội qua máy. Nghe rõ
tên anh, nhưng máy rè, không hiểu
tin gì, lòng ngờ ngợ một linh cảm.
Nhấp chuột vào Diễn Đàn, và
chỉ thấy tựa Bùi Trọng Liễu
(1934-2010) thì hiểu. Chưa đọc, lòng
đã đau…
Lần đầu tôi gặp anh Liễu là
vào mùa thu năm 1974. Qua hai nhà toán
học Lê văn Thiêm và Hoàng Xuân
Sính, tôi có số điện thoại
anh Liễu. Nộp luận án và trong khi
chờ đợi, tôi sang Pháp. Lý do
thì nhiều. Paris là nơi “Phong trào”
VKYN có cơ sở vững vàng, có quá
trình tranh đấu, và có những
mối liên lạc sâu sắc với “trong
nước”, cả trước và sau hiệp
định Paris. Paris có cầu Mirabeau, dưới
nước sông Seine, trôi trong một bài
thơ đẹp. Paris vang vang tiếng người
phá ngục Bastille, phất cao ngọn cờ
cách mạng 1789. Paris có Hugo, Balzac… trong
Panthéon, nay còn Sartre, người muốn
làm cái tổng hợp triết thuyết
hiện sinh với chủ nghĩa cộng sản…
Bằng ấy lý do, tôi thành con thiêu
thân bay vào ánh sáng một kinh kỳ
hoa lệ.
Được (bị) gọi là trí thức
(vì chọn làm luận án TS chứ
không đi “bần cùng” hóa
qua Cuba chặt mía như vài anh tiên
tiến học quyển Thời
Dựng Đảng
của Thép Mới), tôi liên lạc với
anh N.N. Trân và anh Liễu. Anh Trân, sớm
mùi quan chức, rất bận, không tiếp.
Ngay buổi tối Paris đầu tiên, ở
một khách sạn trên Boulevard St Michel trông
sang vườn Luxembourg, người đến gặp
tôi ngay là anh Liễu (sau mới biết anh
ở Antony, một vùng ngoại ô xa). Anh
nhỏ nhắn, cặp lông mày xếch trên đôi mắt thật sáng, rất
ân cần, nho nhã, lịch sự crà-vát
vét-tông. Nhưng anh không một chút
thành kiến với một kẻ ngoại hình
“phản chiến à l’Américaine” như
tôi, tóc dài quá gáy, choàng
poncho, vai balô, và bộp chộp có gì
nói nấy. Chúng tôi gặp lại
nhau, thường là ở cái Bistro trên
quảng trường Sorbonne trông ra St Michel, câu
chuyện nào cũng rồi xoay quanh việc thế
nào đóng góp cho đất nước
một mai sẽ hoà bình thống nhất.
Ba năm sau, năm 1977, tôi tham dự Hội
Nghị Toán ở Hà Nội mà anh Liễu
là Trưởng đoàn Việt kiều.
Xin kể dăm câu chuyện nhỏ để
ta thấy một vài tính cách của
anh. Chúng tôi có hân hạnh đến
viếng Lăng Hồ Chủ Tịch, không phải
xếp hàng chờ cả nửa ngày dưới
nắng hè. Cạnh đoàn chúng tôi,
hàng hàng lớp lớp các cháu
học sinh cấp 1 đến từ những tỉnh
chung quanh Thủ Đô. Cổ quàng khăn
đỏ, các em đứa nào đứa
nấy nghiêm trang, có em cảm động
khóc sụt sịt. Khi đi từ dưới
lên Lăng, bỗng một chiến sĩ dong
dỏng, quần áo nghi lễ trắng tinh, đầu
đội mũ cát-két, lưng kiếm
tay súng, tiến đến trước mặt
tôi đang trong khoảng giữa đoàn,
giơ tay chào rồi quát : “ Bỏ
kính xuống ! Không được đeo
kính dâm ! Thất lễ với Bác…”. A, thì ra thế, cái tội “tiến
bộ KHKT”. Kính tôi đeo là kính
cận, nhưng khi ra trời nắng thì nó
sậm lại, như kính dâm, và vào
chỗ dâm, thì nó lại trắng. Tôi
nhanh nhẩu phân trần, nhưng chiến sĩ
quát, giọng hùng dũng hơn, “Bỏ
xuống! Ngay lập tức!”. Chết chưa,
thế thì làm sao thấy được
Bác đây. Còn phân vân, anh Liễu
từ đầu đoàn xuống. Nhìn
tôi, anh bảo nhỏ “Bỏ kính cầm
tay đi, còn nhiều việc, loay hoay là
trễ!”. Tôi vâng, nhưng hậm hực.
Khi đi quá chiến sĩ được dăm
bước, anh thủ thỉ, “... tí nữa
vào Lăng thì lại đeo kính, nhập
gia tuỳ tục mà!”. Vào lăng, ẩm,
lạnh và tối. Tôi đeo kính. Khi
đi qua nhục thể Bác, tôi có cảm
tưởng như đang thăm một Musée
de Cire nào đó bên trời Âu. Thú
thật, tôi thất vọng, và lại bỏ
kính xuống, tự trách mình không
như vài em nhỏ chưa thấy Bác mà
đã khóc những giọt nước
mắt ứa ra chẳng biết từ đâu.
Chuyện thứ hai, cũng vui. Số là đoàn
chúng tôi được mời xem Kịch
Nói ở nhà hát lớn Hà Nội, vở
Người
Đốt Đền, một vở kịch Hy Lạp
được cải biên thành kịch
chống phong kiến quân chủ. Chúng tôi
xếp hàng, và khi vào cửa, bà
kiểm soát nhìn tôi, chỉ tay ra ngoài,
gọn thỏm : “Đi ra! Đứng đấy!”. Vẫn chưa biết tội gì, tôi tuân
thủ cho nhanh. Bà ta nhìn thẳng vào
mắt tôi, rành rọt : “Quần
ống loe, thiếu tác phong văn minh, không
được vào!”. Chết, chết.
Trước khi về nước, tôi đã nhờ một chị trong phong trào túm hộ
cái quần ống từ 22 cm xuống còn
16 cm cho nó đúng lệ làng theo như
báo cáo của Sứ Quán cơ mà.
Làm sao đây. Anh Liễu, lại anh, từ
tốn : loe thì túm lại. Rối anh
đẩy tôi với một anh em khác ra
ngoài. Anh bạn kia giúi vào tay tôi
mấy cái kẹp giấy bằng nhôm. Túm
ống quần lại, tôi hiên ngang mặc
quần ống túm kiểu thập niên 60,
quay trở vào. Bà kiểm soát nhìn
ống quần chứ không nhìn mặt,
thấy nếp sống văn minh đo đếm
hợp lệ, liền khoát tay. Thế là
lọt. Và lại được ngồi trong
giãy ghế danh dự, đàng sau thì
là “nhân dân”, la ó khi đốt
đền, cười nói um sùm, hoan hô
lúc vị Vua (trong vở Kịch) bị đốt…
Và còn những chuyện vui buồn khác,
như Lê Văn Cường suýt bị cắt
tóc trên bờ Hồ, kèm cái gật
gù rất triết gia của một Hoàng
Hải Học phán “Kiêu binh nội phủ
thời Lê-Trịnh”. Như các bạn
bên Đức sau khi phát biểu nhiệt
huyết xây dựng đất nước liền
đặt yêu cầu làm sao… tạo
điều kiện cho anh em kết duyên Tần
Tấn với phụ nữ quốc nội để ổn định đời sống v.v. Anh Liễu
chỉ cười, thông cảm. Anh là một
người nhân đạo. Anh ứng xử
thực dụng, dẫu ở một nhà Toán
Lý Thuyết, mơ mộng (khoa học) là
yếu tính tất có. Nhất là, tôi
xin nhấn mạnh, anh ứng xử như một
người anh lớn.
Chúng tôi giữ liên lạc trong liền 3 thập niên. Mỗi lần ghé Paris, tôi thường điện thoại nếu không thể đến thăm anh và chị Colette. Sau công việc một người đàn ông, luôn có bóng một người đàn bà. Công việc vận động nhân sĩ và khoa học gia của anh Liễu cho đất nước Việt Nam cũng vậy. Bóng chị Colette lừng lững. Chị chia sẻ tất, kể cả niềm thất vọng của anh (đôi khi anh chẳng giấu gì với tôi) về cái đoạn sau 1975 của đất nước chúng ta. Chuyện anh thôi không về nước từ năm 1981 không phải chỉ vì sức khoẻ, như anh nói đâu. Như một số anh em gần gũi anh, tôi cũng biết, nhưng nếu nói những điều này ra, chị Colette mới là người có thẩm quyền. Năm 81, tôi cũng có mặt ở Việt Nam. Năm đó, người ta dẫn tôi đi xem Bảo Tàng trưng bầy tội ác Mỹ-Ngụy, và chỉ cho tôi tờ báo bằng tiếng Pháp do Phong trào bên Pháp xuất bản. Đến năm 1982, chính tôi cũng thành người có vấn đề !!! Ôi thôi, cái kiếp Tìm Trầm Ngậm Ngải (…Hay có nhẽ là hóa thân kiếp cọp/ Ta mất người, rồi người mất ta/ Ven làng cũ ta đêm đêm nhìn trộm/ Và biết về đâu nơi gọi là nhà). Sau năm 90, tôi mất đường về. Chuyện trước mặt của đất nước, cấp bách. Nhưng với một người nhỏ nhoi tầm thường như tôi, thật vô phương. Thôi đành vậy, nhìn sau để ngẫm trước, tôi lao vào viết tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm đầu tay ra mắt ở Paris, anh Liễu đến tham dự. Ít lâu sau, anh gửi cho tôi cuốn tự sự “Chuyện gia đình và ngoài đời”, khiêm nhường ghi…“tôi không là nhà văn, chỉ mong giúp tài liệu một nhà văn, trong công việc về sau…”. Chẳng biết có phải anh nhắn nhủ tôi viết về những kẻ ngậm ngải đến khi hóa cọp rồi mà vẫn không tìm ra trầm không ? (gió vẫn lộng, biển vẫn là vô tận/ không tìm thấy trầm ta lại mất ta/ đêm lừng lững sao trăng rồi cũng tắt/ chỉ tưởng hương trầm mà ta say).
Công việc anh tiếp tục làm
cho đất nước nhiều, nhưng nổi
bật là những bài viết của anh
về ngành giáo dục, nhất là vấn
đề xây dựng một nền đại
học xứng đáng, có thực chất,
và thôi đánh bóng lừa lọc
hư danh. Sau này, anh đề cập rộng
đến vấn đề đạo lý xã
hội, trong đó hành xử cho ra là
con người được quan tâm ở hàng
đầu. Tôi đọc bài Tự
Nguyện,
bài cuối cùng của anh, như những
lời trối trăn. Anh viết : “Khi
người ta tự nguyện để đóng
góp cho một mục đích cao cả trừu
tượng, thì chẳng có gì phải
hối tiếc. Vấn đề chỉ đặt
ra khi mục đích cao cả do một người
hay một nhóm người vạch đường
chỉ lối cho. Nếu họ vô tình hay
cố ý vạch sai mục đích, thì
sao ? Lại càng có vấn đề khi sự
tự nguyện này mang nghĩa tình nguyện
gia nhập vào một đội ngũ để
đạt tới mục đích cao cả được
vạch ra như thế ”.
Vốn thâm trầm và tế nhị, anh
không nói là đội ngũ nào,
nhưng ai đọc tất cũng hiểu. Anh viết
tiếp : “ Ngoài
ra
lại còn vấn đề « chính
thống » (« chính đáng »,
légitimité, legitimacy) nữa.
Nếu thoáng
nhìn lịch sử nước ta qua các
triều đại, thì cũng thấy mở
đầu một triều đại mới, người
lên cầm quyền đều viện cớ
này cớ nọ để chứng tỏ sự
chính thống của mình, đôi khi
kèm theo bằng chứng về sự suy thoái,
biến thể của triều đại trước.
Đầu triều Lý và cuối triều
Lý, đầu triều Trần và cuối
triều Trần, thinh, suy cũng có khác.
Ngay cả Cách mạng tháng 8/1945 với Hồ
Chủ tịch cũng tìm nguồn « chính
thống/chính đáng » của
mình,
đặc biệt là qua cuộc bầu cử
Quốc hội đầu năm 1946 ”.
Từ 46 đến nay, kể cũng 64 năm rồi.
Và đếm thịnh suy mỗi triều đại
từ thời cận đại, có thịnh
thì chẳng quá 5,7 chục năm. Phải
chăng hết thịnh tất đến suy. Và
suy thì sao ? Lý do nào anh ghi một phụ
chú rất dài về chuyện Tái
ông
thất mã ? Anh muốn nhắn nhủ chúng
ta phúc họa rất khó lường trước,
thấy họa xin chớ nản, thấy phúc
đừng “hồ hởi” bệnh tếu
lạc quan ? Nhưng quay về bối cảnh anh
nhấn mạnh “ …vấn
đề chỉ đặt ra khi mục đích
cao cả do một người hay một nhóm
người vạch đường chỉ lối
cho. Nếu họ vô tình hay cố ý
vạch sai mục đích, thì sao ? ”. Thì sao ? Thì chỉ có
một giải pháp : rút ra khỏi cái
đội ngũ đang đi ngược lại
mục đích đã khiến mình tự
nguyện. Và như Tái ông, mất mà
hoá được, được lại rất
có thể là mất. Lòng nhủ lòng,
là chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài (kể
cả tiền tài). Đã nhiều người
trả lại thẻ Đảng. Sẽ còn
nhiều người nữa, nhiều để
thành cả một phong trào, đánh
chuông báo thời điểm đất
nước lâm vào nguy cơ Bắc thuộc
lần thứ ba. Rừng thượng nguồn cho
“thuê”, quả bom bùn đỏ
Bôxít Tây Nguyên, biển Nam Hải,
Trường – Hoàng Sa, và những đập
nước đầu nguồn từ Vân Nam có
khả năng nhận chìm đồng bằng
trong lũ lụt cũng như làm cạn kiệt
sông Hồng, sông Cửu Long… Nguy cơ
này dễ thành hiện thực khi toàn
xã hội bị phá sản về mặt
đạo lý, tham nhũng quyền và lợi
là cơ chế thật ngụy trang bằng
chữ nghĩa lòe loẹt giáo điều,
con người “xã hội chủ nghĩa”
lổm ngổm đủ tứ chi với trí
tuệ và trái tim chỉ còn đủ
để đèo bồng bốn chữ thực
dụng và cơ hội.
Chị Colette quí mến. Xin chia buồn với
chị, mặc dầu tôi biết là nổi
buồn ấy chẳng thể vơi. Những gì
anh Liễu viết về người vợ hiền
của mình trong cuốn sách anh tặng tôi
khiến tôi hiểu, với chị không
gì thay được anh, và ngược
lại, với anh, không gì thay được
chị. Anh đã cất bước đi một chuyến đi xa. Nhưng có đi, mới có
trở về. Và nơi trở về, tôi chắc rồi chị cũng sẽ ở đó,
chờ anh.
Riêng với anh, anh Liễu vô vàn trân quí, tôi chỉ còn một lời tôi mượn cụ Ức Trai khi cụ ở ẩn trên Côn Sơn tránh cái Thăng Long rối rắm u mê chuyện thế quyền. Tôi chắp tay gửi đến vong linh anh nay ở một miền an nhiên, miền dành cho những người đã cống hiến tận tâm tận lực cho những mục đích cao cả :
Bui một tấm lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước
triều dâng
Nam Dao
15-03-2010
Các thao tác trên Tài liệu