Bạn đang ở: Trang chủ / Nhân vật / Tổng Đốc Phương

Tổng Đốc Phương

- Nguyễn Đức Hiệp — published 15/03/2015 18:40, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:22
Nhân vật Saigon-Chợ Lớn thời Pháp thuộc

Nhân vật Saigon-Chợ Lớn
thời Pháp thuộc - Tổng Đốc Phương


Nguyễn Đức Hiệp


Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”


Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 là giai đoạn mà xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển mình và thay đổi rất lớn. Đây không phải là một sự lựa chọn mà là sự bắt buộc. Việt Nam bi bắt buộc phải bỏ sự cô lập đứng riêng với tổ chức chính trị kinh tế xã hội đặc thù của mình và bị ép một cách không cân xứng vào hệ thống kinh tế toàn cầu của sự phát triển tư bản phương Tây, lúc bấy giờ là một hệ thống không công bình và khác lạ với con người Việt Nam truyền thống. Việt Nam coi như là một xứ thuộc địa của Pháp: với Nam Kỳ thuộc Pháp trong khi Bắc Kỳ, Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ.

Trong giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc ở Nam Kỳ, nhiều tầng lớp yêu nước khởi nghĩa giúp vua chống lại Pháp, và một số theo Pháp đàn áp khởi nghĩa. Đến cuối thế kỷ 19 thì người Việt Nam nhận ra rằng phải thích ứng với tình thế mới và tìm đường hay phương hướng mới để dành độc lập, phát triển quốc gia. Những người như các ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản... mặc dù hấp thụ văn hóa Pháp và tư tưởng Tây Phương nhưng luôn có cái nhìn muốn canh tân, cải cách đất nước. Họ là những người yêu nước và trong giai đoạn đầu thế kỷ 20, đa số họ thành lập hay tham gia trong phong tào Minh Tân, có liên hệ mật thiết với phong trào Đông Du do Phan Bội Châu và Cường Để khởi xướng.

Nhưng cũng có những người hấp thụ văn hóa Pháp, thích ứng với tình thế và có địa vị trong xã hội, mà không còn nghĩ đến xã hội đất nước trong một phạm vi lớn hơn. Những người như vậy được ưu đãi và có lợi thế qua sự hợp tác của họ với Pháp trong lãnh vực kinh tế, chính trị hay qua vị thế của họ trong xã hội như các thương gia Hoa kiều, các người theo đạo. Một trong những người như vậy là ông Đỗ Hữu Phương, một người Việt gốc Minh Hương ở Chợ Lớn. Bài viết này không có mục đích đánh giá con người mà chỉ mô tả những sự kiện liên hệ đến ông Đỗ Hữu Phương trong bối cảnh xã hội ở đầu thế kỷ 20 qua các tư liệu báo chí Pháp ngữ và Quốc ngữ hiện nay ít được chú ý.

Ông Đỗ Hữu Phương có khác với nhữmg người lúc đầu hợp tác với Pháp là ông rất chuộng văn hóa Pháp. Bắt đầu từ Hội Nghiên cứu Nam Kỳ và Đông Dương (Société des Études Indo-chinoises) là nơi những tầng lớp trí thức và thượng lưu Pháp Việt giao du và học hỏi. Những người Pháp nghiên cứu và có kiến thức rộng về Nam Kỳ và Đông Dương phải kể đến Antoine Landes, Charles Lemire, George Durwell và Việt thì có Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký. Ngoài ra có những thương gia, kỹ nghệ gia Hoa Việt, các quan lại, công chức trong bộ máy cầm quyền Pháp làm việc chung với người Pháp; và qua đó văn hóa Pháp dần dần ảnh hưởng sâu rộng vào xã hội miền Nam, nhất là ở thành thị.

Ngược lại người Pháp ở chính quốc bắt đầu biết đến vùng đất Đông Dương và họ tò mò tìm hiểu về văn hóa ở Viễn Đông, nhất là trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 sau hội chợ thế giới 1889 cho đến thời đại Belle Epoque đầu thế kỷ 20 thì sự hấp dẫn văn hóa Viễn Đông đã có tác động lớn vào giới nghệ sĩ, học thuật ở Paris. Trong giai thoại về cô Cléo de Merode với các ông đốc Phủ, ta có thể đoán rằng ông Phủ có quyền thế và giàu có trong câu chuyện, người ngỏ ý mời cô qua Nam Kỳ đến ở dinh ông ở Saigon, chắc phải là ông Tổng đốc Đỗ Hữu Phương (11). Hội chợ triển lãm thế giới năm 1900 ở Paris đòi hỏi sự tổ chức qui mô, riêng về phần khu triển lãm Đông Dương dưới sự điều hành của Jules Charles-Roux, Pierre Nicolas ở Paris và Paul Doumer ở Hà Nội, ở Nam Kỳ có Ủy ban địa phương Nam Kỳ (Comité local de Cochinchine) trong đó ông Đốc Phủ Sứ Đỗ Hữu Phương là một hội viên và ông Trương Vĩnh Ký là thư ký. Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tầng lớp thượng lưu Hoa Việt ở Nam Kỳ đều chịu ảnh hưởng ảnh hưởng văn hóa Pháp mà ông Phương là một thí dụ nổi bật.


Một vài nét về Đỗ Hữu Phương


Đỗ Hữu Phương sinh ở Chợ Đủi, Saigon năm 1840, mất ngày 5 tháng 5 1915. Ông gốc người Minh Hương. Năm 1861, khi Pháp chiếm thành Saigon và đánh đồn Kỳ Hòa, người Pháp đã thấy tầm quan trọng của thương mại người Hoa ở Chợ Lớn, họ đã mua lương thực, trao đổi hàng hóa với người Hoa ở Chợ Lớn trong thời gian công phá đồn Kỳ Hòa. Ngay sau khi đã phá được đồn Kỳ Hòa, người Pháp tuyên bố Saigon là cảng tự do mở cửa buôn bán với thế giới bên ngoài. Thương mại người Hoa ở Chợ Lớn sau bao nhiêu năm bị ức chế, bế quan tỏa cảng, đã bộc phát và cộng đồng người Hoa và Minh Hương ở Saigon - Chợ Lớn hồ hởi tham gia vào tình hình kinh tế mới.

Trong năm 1861 biến động lịch sử này, Đỗ Hữu Phương thấy được cơ hội mới, ông đã tiếp xúc và làm việc với người Pháp chân ướt chân ráo cố gắng tuyển dụng người thiết lập một nền hành chánh còn rất sơ khai ở Saigon - Chợ Lớn. Ông được phong ngay làm chức trưởng khu Chợ Lớn (chef de quartier Cholon), sau thành huyện Chợ Lớn.

Năm 1872 ông được phong là Đốc Phủ tỉnh Chợ Lớn và huân chương Legion d'Honneur. Ông về hưu năm 1897. Theo Brébion (1) thì ông đã đi qua Pháp 4 lần; viếng các thủ đô ở Âu châu và đi chuyến vòng quanh thế giới vào năm 1884. Trong danh sách các hành khách đi tàu “Anadyr” từ Saigon đến Marseille ngày 29/04/1889, có tên ông cùng với 2 người con (8). Như vậy ta có thể đoán rằng ông đi chu du nước Pháp trong dịp hội chợ thế giới 1889 kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp.

Ông Phương là người có tiếng hiếu khách tiếp đãi người nước ngoài đến thăm tư gia của ông. Ông toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer, khi có dịp vào Saigon cũng thường đến tư gia của ông Đỗ Hữu Phương. Paul Doumer là người có trách nhiệm thiết kế và giúp đỡ tổ chức khu triển lãm Đông Dương ở Hội chợ quốc tế Paris năm 1900.

Đỗ Hũu Phương giao thiệp rộng rãi và biết rất nhiều các quan chức Pháp ở Saigon. Theo Hứa Hoành (4), ông thường đến nhà hàng khách sạn Continental ở Saigon, và Café de la Paix, nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp Việt thượng lưu trí thức. Nơi đây có các quan chức như ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon), ông Bonnet, ông Morin. Đỗ Hữu Phương đã "Pháp hóa hơn cả người Pháp". Ông Phương gởi 4 người con trai qua Pháp học, trong đó có ông Đỗ Hữu Chẩn và Đỗ Hữu Vị học ở trường võ bị Saint Cyr. Khi khách tới nhà chơi đều được Phương đãi rượu sâm-banh, ăn bánh petits beurres de Nantes và uống cà phê "De La Paix". Café de La Paix là quán cà phê nổi tiếng ở Paris nơi ông Phương đã đến khi qua thăm Paris. Ông đã qua Pháp 4 lần trong đó có lần dự Hội chợ triển lãm 1889.

Theo Hứa Hoành (4) thì ông Nguyễn Văn Vực có nhắc lại hồi đó có một bài ca dao rất phổ thông nói về Đỗ Hữu Phương hay đến nhà hàng Café de la Paix, bài ca dao này được Trương Minh Ký dịch ra Pháp văn, đại khái như sau:

"Các quan lại Pháp thường hay đến tửu quán "Cà phê De La Paix"
...để gặp quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và quan Bonnet đang ngồi tán dóc ở đó
Bạn sẽ gặp ngài Paul Blanchy (Chủ tịch Hội Đồng Quản Hạt), cùng với ngài Morin ở đó nữa..."

Bài này rất phổ thông hồi đầu thế kỷ 20 ở Sài Gòn, nay đã biến mất không còn dấu vết. Dịch giả cùng vài bạn Pháp cũng có đến đó chơi với Ðỗ Hữu Phương. Những người Pháp-Việt hội nhập ở đó, đã nhớ lại vẻ ấm cúng và thú vị của thuộc địa Nam Kỳ, so với bầu trời Paris luôn luôn ảm đạm lạnh lẽo.”

Café de la Paix” này là ở ngay trung tâm thành phố Saigon, vị trí trên đường Nguyễn Huệ ngày nay, địa chỉ số 56-64 Boulevard Charner, ngay góc đường rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi) và Charner (12). Trong lúc ông Đỗ Hữu Phương và các nhân vật giàu có và quan chức trong chính quyền như Paul Blanchy, Morin, Bonnet tụ tập ăn uống, trao đổi nói chuyên thì đối diện bên kia đường, trong dãy phố gần toà hoà giải (Justice de la Paix) mà ngày nay là toà nhà Sun Wah Tower, ông Nguyễn An Khương, một nhân sĩ trong phong trào Minh Tân, có khách sạn và tiệm may và bán vải ở số 49 đường Charner. Và sau đường Charner, gần Chiêu nam Lầu của ông Khương, ở đầu đường Krantz (Hàm Nghi) là khách sạn của ông Trần Chánh Chiếu, cạnh ga xe lửa đầu tiên ở Saigon. Các ông Nguyễn An Khương (con ông là nhà cách mạng Nguyễn An Ninh) và Trần Chánh Chiếu lúc này đang cố gắng lập hội, làm báo (Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn) để canh tân thức tỉnh nước nhà, trong khi bên kia đường ông Phương đang hưởng thụ cuộc sống với các chính khách Pháp.

Cách sống xa hoa và sự hiếu khách của Ðỗ Hữu Phương với người Pháp đã được bá tước Pierre Barthélemy kể lại như sau, khi ông Barthélemy và các bạn của ông đến viếng tư gia của Ðỗ Hữu Phương:

"Khi viếng Chợ Lớn, không thể không có chuyến ghé thăm một ông Phủ giàu có danh tiếng của thành phố này. Đó là điều chúng tôi làm, với sự tháp tùng của vài người bạn Saigon của ông ta. Ông đốc phủ tiếp chúng tôi thật nồng nhiệt Ông là một người An-Nam, tuổi khoảng 50, vẻ mặt thông minh; ông hầu như luôn mặc bộ đồ Tây và không do dự cho các con trai ông được theo học một nền giáo dục Pháp. Một trong các con trai ông hiện là một sĩ quan trong binh đoàn Lê Dương ở Algérie, trong khi một người con khác đang học sắp xong ở Paris.

Nhà ông là một sự pha trộn lạ kỳ giữa Âu và Á. Sân trong thiết kế theo kiểu Trung Hoa, chung quanh sân là các phòng kiểu An Nam mà một phòng salon ở tận trong rất đáng chú ý. Đối diện với salon này là một biệt thự kiểu Âu. Bàn thờ trong phòng salon An Nam này là một công trình tuyệt diệu nổi tiếng, bàn thờ được cẩn xà cừ. Những cột nhà làm bằng gổ teck rất quí, trụ mái nhà của phòng salon này trông rất thanh tao và trên một bàn làm bằng gỗ quí là những chai rượu absinthe, amer Picon và những sản phẩm của Pháp khác. Ông Phủ thích đãi khách các đồ ăn đặc biệt, và ông ta cũng biết thưởng thức các loại rượu của chúng ta. Nếu phải diễn tả hết tất cả sự giàu sang của nội thất An nam này, thì phải viết rất nhiều trang giấy. Tôi thấy đủ hài lòng để chỉ kể lại buổi ăn trưa mà ông chủ nhà đáng mến sẽ làm cho chúng tôi thưởng thức. Thường thì ông Phủ Chợ Lớn ăn đồ ăn Tây ở nhà, nhưng chúng tôi hôm đó dùng vài món ăn An Nam và kết thúc với các món ăn Tàu. Ông chủ chủ tọa bàn ăn "

..“

Thường thì ông Phủ ở Chợ Lớn đãi thực khách bằng thức ăn Tây, nhưng chúng tôi hôm nay được thưởng thức ăn vài món An nam và ông thêm vào các món Tàu. Chủ nhà chủ tọa ngồi vào bàn ăn, chúng tôi vui vẻ tập dùng đôi đũa để gắp thức ăn vào đủ các dĩa. Thực đơn gồm các món ăn như sau

Cháo tổ yến
Cá kiểu An Nam (với các chén cơm) (cá này có ướp nước mắm)
Thịt heo kiểu An Nam (nước mắm)
Đuông dừa (sâu dừa) nướng
Dưa chua với thịt heo theo kiểu Âu
Trứng chiên với fromage kiểu Âu
Tráng miệng: Vải, xoài, vải nhỏ An Nam, gừng và các trái cây nhiệt đới khác.

Những món ăn này hợp với khẩu vị Âu của chúng ta; duy chỉ có một món làm chúng tôi lo âu, đó là món đuông dừa (sâu dừa). Nhưng chúng tôi biết rằng một món như vậy rất là quí, rất khó tìm các con đuông này. Để có các con đuông, người ta phải chặt nguyên cây dừa và lấy từ ngọn một loại sâu đặc biệt sống ở đó. Một cây bị đốn chết, và vì thế người ta nhận ngay ra là thật tốn kém như vương giả để có một con sâu nướng. Vì thế chúng tôi phải nếm món này như một kiểu ăn mới. Nó nếm giống như sa lách đọt dừa, con sâu ăn rất ngon và chúng tôi không do dự tuyên bố rằng món này thật ngon và xứng đáng là món ăn đặc khẩu thi vị.

Tuy vậy sau buổi ăn thử hút ống pip thuốc phiện thì kém thành công hơn cho các bạn đồng hành không hợp chịu thuốc của tôi và đa số chúng tôi không thể theo kịp được với ông Phủ hút thật tài tình. Ông ta kế đó dẫn chúng tôi viếng toà nhà villa kiểu Âu của ông ta. Một phòng tiếp khách lớn nằm ở trung tâm toà nhà. Ở giữa phòng khách này là một bàn đỡ một cặp ngà voi thật tuyệt đẹp. Chung quanh là các tủ kính chứa đầy các vật bằng ngọc thạch và các đồ mỹ nghệ đắt giá. Lúc này chúng tôi không thể không mỉm cười khi thấy các bức màn và giấy phủ trên tường, mà ý định là bắt chước mode mới nhất ở Paris. Nhưng ta không thể quá khắt khe về việc này và Paris thì quá xa Saigon.

Lúc trở ra, chúng tôi phải chiêm ngưỡng một bộ sưu tập hình thú bằng sành đặt trên hòn non bộ nằm chính giữa mà chung quanh là suối nước chảy: đó là một trong các vật trang trí trong vườn với vài cây nhỏ bé (bonsai) được làm từ Nhật Bản. Ông Phủ rất lấy làm hài lòng dẫn chúng tôi tham quan cơ sở tư dinh của ông ta và chúng tôi từ giã ông rất trễ, sau khi đã cám ơn ông ta nồng nhiệt."


hinh-1
Hình 1 – Một phòng trong dinh Đốc Phủ Đỗ Hữu Phương ở Chợ Lớn
(Nguồn: Báo Le Monde Artiste, Dimanche 27/7/1901)


Toàn quyền Paul Doumer (6), trong hồi ký về Đông Dương, có nói về Nam Kỳ và ông Đỗ Hữu Phương như sau:

Ông Phủ ở Chợ Lớn tiếp khách người Âu trong nhà ông, mời uống rượu Champagne và bánh petits beurres de Nantes, cho khách xem không mệt nghĩ một vài sản phẩm đặc thù lạ kỳ của người An Nam, và tổ chức, theo sự đòi hỏi ước muốn của khách, xem một tuồng hát của người bản xứ (dịch giả: đây chắc là hát bội). Đó là hình ảnh Nam Kỳ, một chút kiểu cách và bóp méo trong cách diễn tả của người ta và được dùng phổ biến, ngay cả những người ngoài cuộc không biết nhiều. Ông Đỗ Hữu Phương đã đến Pháp nhiều lần; ông ta được tiếp đón ân cần và ông trở thành nổi tiếng ở Paris, từ nhà hàng Durand đến Café de la Paix. Ông ta là một trong những người phụng sự cho chúng ta trong những ngày giờ đầu tiên, là học trò ngày xưa của các nhà truyền giáo ky tô, vì thế được chúng ta ban tặng những huân chương và đạt được sự giàu có”

Ông Đỗ Hữu Phương rất được biết trong giới thượng lưu và nghệ sĩ ở Paris. Bạn ông, Charles Lemire có giao thiệp rộng rãi trong giới nghệ sĩ, nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật sân khấu, kịch và opera ở Paris. Vì thế ta sẽ không lạ nếu Cléo de Mérode biết về ông Đốc Phủ Đỗ Hữu Phương.

Nhà hát Đông Dương ở hội chợ Paris, một phần có lẽ là dựa vào kiến trúc bên trong của tư gia ông ở Chợ Lớn. Trong dinh thự của ông ở Chợ Lớn có nhà hát tuồng, có đền thờ tổ theo phong cách Á đông của người Hoa. Mặc dù không có dự Hội chợ 1900 nhưng ông có ảnh hưởng qua sự giao tiếp rộng rãi với nhiều quan chức tổ chức và điều hành khu triển lãm Đông Dương như toàn quyền Paul Doumer, Charles Lemire.

Trong dinh thự ông còn có nhà hát, thỉnh thoảng dùng để diễn các tuồng hát bội. Nhà ông ngày nay trên đường Châu Văn Liêm (trước đó là đường Tổng Đốc Phương) không còn dấu vết gì để lại. Nhưng qua các ảnh để lại ta có thể thấy sự bề thế của dinh thự ông. Một kiến trúc kiểu Tây nhìn từ phía ngoài nhưng bên trong là phong cách Á đông.


hinh-2
Hình 2: Dinh thự của ông Đỗ Hữu Phương dọc Kinh Xếp, Chợ Lớn


Nhà ông Đỗ Hữu Phương ở Chợ Lớn là một toà tư gia to lớn rộng rãi, nằm dọc theo kinh Xếp. Sau này kinh Xếp được lấp đi thành đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm). Theo ông Pimodan (1), người đã viếng thăm nhà ông Phương, một phần tư gia ông Phương được Pimodan mô tả như sau

" Một vài cây số từ Sài Gòn là Chợ Lớn, một thành phố lớn của người bản địa, mà điểm thu hút chính là tư gia của một người An Nam giàu có, ông Đỗ Hữu Phương, mà từ rất lâu đã ủng hộ và là bạn của chúng ta. Ông ta thực hiện một số chức năng hành chính mà chức vụ theo tiếng An Nam là "Phủ" tên mà ông ta được biết đến.

Con trai của ông, một sĩ quan dễ mến của quân đoàn Lê Dương, vừa mới tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr, tiếp đón chúng tôi ở nhà cha, gồm các toà nhà riêng biệt xây xung quanh một sân rộng lớn hình chữ nhật.

Ở sâu trong toà nhà, nơi tiếp khách, trong một loại nhà sảnh lớn là nơi gia đình cư ngụ. Trên một bàn, ngự trị bức tượng Đức Phật, và cạnh đấy là những bức ảnh của các thành viên gia đình, giữa các bình ly và hoa.

Chung quanh là các đồ vật đủ loại rất là khác nhau. Chỗ này là đồ nội thất cẩn xà cừ, cổ xưa và rất đẹp, các đồ mỹ nghệ Âu châu không đáng kể, được mua rẻ tiền trên các kệ của một chợ nào đó; còn có một cái bàn thấp, trên đó có các trái cau, các lá trầu và vôi nhuộm màu hồng, mà người An Nam nhai chúng chung lại với nhau rất thỏa thích.

Trong một góc nhà, có một hộp âm nhạc to lớn phát ra từng nốt các giai điệu Đông Dương lạ kỳ. Các câu, bao gồm bốn hoặc năm nốt, đôi khi nhạt nhẽo, đôi khi kỳ lạ, đôi khi hài hoà, kế tiếp nhau mà không có phối hợp dựa trên một đơn điệu. Nó trông giống như một giai điệu chơi bởi một đàn "orgue de Barbarie" (1) cũ, với các xi lanh mòn xóa đi một số nốt nhất định, thay đổi các giá trị của chúng tương đối với các nốt khác, và chỉ phát ra một cách biếm họa của giai điệu sơ khai.

Lúc này, các con gái của ông "Phủ" đến tham gia với chúng tôi. Đây là những thiếu nữ trẻ tuổi dễ thương, được dạy dỗ tốt bởi các bà sơ và nói tiếng Pháp rất chuẩn. Họ kể cho chúng tôi một cách duyên dáng là họ đi dự, với y phục truyền thống, khiêu vũ của Toàn quyền và than phiền là họ không khiêu vũ được bởi vì đôi giày đế bằng gỗ của họ.

Chúng tôi đã biết chỗ ở, giờ thì chúng tôi đi tham quan dạo quanh những khu vườn trang trí công phu có óc tưởng tượng độc đáo nhất trong các phong cách làm vườn. Một số cây, thoả mãn trong kích thước nhỏ bé của mình, có hình dạng như các lọ bình, các động vật, ngay cả hình cơ thể con người được trang trí với các gương mặt, bàn tay và bàn chân bằng sứ. Những con búp bê như đang đi bộ giữa những con đường mòn dốc của ngọn đồi nhỏ, dưới bóng của các cây sim và cây cam nhỏ lùn phản chiếu trong các hồ nước nhỏ hơn kích thước của chậu nước. Xa hơn một chút, trong một chuồng chim thật lớn, có các con vẹt đang cục tác; cạnh đó, là một con chim hét nói huyên thuyên tiếng Việt. Con chim này rất tốn tiền, giá rất cao và người ta đến coi nó vì tò mò. Còn về các tiết mục của nó, dường như nó có rất nhiều "gia vị", và ngay cả con vẹt Vert-Vert (2) sẽ đỏ mặt nếu nghe nó nói."

Ghi chú (1) Orgue de barbarie là một loại đàn máy thường những người hát dạo dùng trên đường phố (2) Vert-Vert là con vẹt trong vở opera Vert-Vert của Offenbach.


hinh-3

Hình 3: Một góc vườn trong dinh tổng đốc Phương, trong hình có
các cây kiểng“bonsai” hình thú đúng với những gì ông Pimodan
và Pierre Barthélemy viết trong sách hồi ký của họ.


Sau khi ông Đỗ Hữu Phương mất không lâu, con trai thứ hai của ông, Đỗ Hữu Vị sinh năm 1884 ở Chợ Lớn, phục vụ trong quân đội Pháp cũng đã hy sinh vào tháng 7 năm 1916 trên chiến trường thung lũng sông Somme trong đệ nhất thế chiến. Đỗ Hữu Vị cũng là một phi công có tiếng, ông là người đầu tiên bay ở Maroc, Bắc Phi. Hiện nay, ở thành phố Casablanca vẫn còn có tên đường mang tên Đỗ Hữu Vị.

Khi toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut nhậm chức, ông Sarraut có mời ông Vị (lúc đó là trung úy không quân) trở lại Đông Dương dẫn đầu toán nghiên cứu các đường thủy, sông ngòi xem xét khả năng có thể dùng thủy phi cơ phát triển vận tải thủy bộ và hàng không. Ông Vị đã đã viết báo cáo rất thú vị về vấn đề này, trước khi ông quay lại Pháp khi chiến tranh thế chiến thứ nhất xảy ra (Echo Annamite, 1920/04/22 (A1,N41). Ông là phi công gốc Việt duy nhất bay trên chiến trường Alsace-Lorraine và sáu phi vụ trên lãnh thổ Đức.


hinh-4
Hình 4 - Đại úy Đỗ Hữu Vị


Qua những tư liệu để lại, ta có thể thấy cả gia đình ông Đỗ Hữu Phương, nhất là các con của ông, hoàn toàn bị ảnh hưởng theo văn hóa Pháp. Năm 1920, thì hài Đỗ Hữu Vị được cải táng, mang về Saigon an táng bên cạnh mộ ông Đỗ Hữu Phương trong khu cánh đồng mả (Plaine de tombeaux). Buổi cải tang có sự tham dự của nhiều người Âu và Việt trong đó có toàn quyền le Gallen và tướng Hirtzmann. Tờ báo “Tiếng Vọng An Nam” (Echo Annamite) số ngày 22/4/1920 có viết và tả cảnh như sau:

Hài cốt của ông Vị, từ cảng Marseille được chở trên tàu Porthos ngày 15 tháng 4 vừa rồi, sẽ đến Saigon vào ngày 9 hay 10 tháng 5. Lễ chôn cất sẽ diễn ra một ngày sau khi tàu cập bến vào lúc 4 giờ chiều.

Chúng tôi được biết là các đội lính danh dự sẽ có mặt dự đám tang của người đồng bào của chúng ta. Các đội lính bản địa An Nam tham dự với các đội lính Pháp. Quan tài sẽ được đặt trên vòng dây danh dự trang trí nghiêm trang với các cờ tam tài.

Đây là lộ trình của đám tang: động quan lúc 4 giờ chiều ở Messageries maritimes (bến nhà rồng ngày nay) - cầu xoay - quai de Belgique (bến Chương Dương) - đường Mac-Mahon (Nam Kỳ Khởi nghĩa) – đường Legrand de la Liraye (Điện Biên Phủ) – Route la Polygone (3 tháng 2) – cánh đồng mã nơi chôn cất gia đình Đỗ Hữu Phương.

Tiểu sử

Đại úy Đỗ Hữu Vị sinh tại Chợ Lớn vào năm 1884 - Con của ông bà ông Đỗ Hữu Phương, Tổng đốc huy chương danh dự bắc đẩu bội tinh (Legion d’honneur).

Ông được giáo dục ban đầu tại một trường tốt là trường Taberd - được gởi sang Pháp ở 8 năm tại Paris tại trường trung học Lycée Janson-de-Sailly, Yvelines và sau đó học tại trường Cao đẳng Collège St. Barbe.

Trúng tuyển thi vào trường võ bị Saint Cyr vào năm 1906. ở hạng khá tốt, ông là sinh viên cấp bậc trung sĩ và ra trường hai năm sau đó với chức vụ thiếu úy.

Tràn đầy sức sống, khinh rẻ các đơn vị đồn trú, ông yêu cầu đi phục vụ tại miền phía Nam Algérie, nơi ông sống sót sau bốn năm trong cuộc chinh phục Ma Rốc, vừa đến ông ngay lập tức yêu cầu đi khỏi thành và đội quân tinh nhuệ Lê Dương (Légion étranger) của ông là một trong những đội đầu tiên tiến vào thành phố Casablanca. Kế đó ông vào đội quân của tướng Brulard (*), nhưng không thấy cuộc sống này đủ sôi nổi, ông gia nhập lực lượng không quân. Ông là sĩ quan không quân đầu tiên của Pháp bay trên nước Ma Rốc.

Trong cuộc chinh phục Ma Rốc, ông đã phụ trách một số nhiệm vụ nguy hiểm bao gồm: liên lạc viên với các quân đoàn Pháp đang bị bao vây ở miền nam Ma-rốc. Chính là từ những chiến dịch này, ông đã nhận được các huy chương ở Casablanca, Ma Rốc v.v...

Rất được quí trọng bởi tướng Lautey, một người bạn của cha mình, Tổng đốc Đỗ Hữu Phương. Trong một thời gian, Lautey đích thân chọn ông làm tùy viên thân cận của mình.

Tuy nhiên, với mong muốn hoàn thiện sự nghiệp hàng không của mình, ông trở về Pháp, ông đã đi khắp nước Pháp bằng máy bay, cùng với Trung úy Ménard.

Ông Albert Sarraut, khi trở thành toàn quyền Đông Dương, đã triệu hồi ông từ Pháp về và đưa cho ông một nhiệm vụ tìm hiểu các tuyến đường thủy ở Đông Dương, để tìm hiểu việc sử dụng các thuỷ phi cơ. Những nghiên cứu này đã dẫn đến một báo cáo rất thú vị của Trung úy Đỗ Hữu Vị.

Sau khi ông Sarraut ra đi, người kế nhiệm tạm thời, ông Van Vollenhoven đánh giá rất cao trung úy của chúng ta, đã dùng ông là sĩ quan tùy tùng thân cận. Trong khi đó chiến tranh đã đến và người đồng hương của chúng ta, coi thường những danh dự danh vọng khác, ông xin có vinh hạnh được tham gia chiến đấu ở Pháp.

Khi ông vừa đến Paris, từ chối ở lại thủ đô, ông đã ngay lập tức đến mặt trận và chứng kiến những trận chiến khủng khiếp ở Flandre, dưới quyền của tướng Foch, nơi ông phục vụ như là một phi công lái máy bay ném bom. Ông liên tục bay ở Bỉ, trong vài tháng.

Sau các trận chiến ở miền Bắc, ông được gửi đến Alsace, nơi ông tham dự tất cả các chiến dịch: Mulhouse, Alkirch, v.v.. Ông là phi công người Việt duy nhất bay trên Alsace-Lorraine, trong 6 tháng ở đó, ông ta đã hoàn thành xuất sắc sáu nhiệm vụ ở Đức. Qua đó ông được tăng cấp chức đại úy (capitain) và huy chương hiệp sĩ bắc đẩu bội tinh (Légion d’honneur) và huy chương thập tự chiến tranh (Croix de Guerre).

Tại thời điểm đó, máy bay Caudron rất mạnh vừa được sáng chế, và lần đầu tiên được cài đặt các khẩu súng máy. Vì tính luôn tìm việc để phục vụ, đại úy Vị xin bay thử máy bay mới. Trong một chuyến bay, chiếc máy bay bị trục trặc ở độ cao 300 mét và rớt. Đại úy Vị đã bị kẹt và bất tỉnh dưới máy bay, và được kéo ra bởi một người phụ nữ sống ở Paris ngẫu nhiên có mặt tại hiện trường xảy ra tai nạn và ngay lập tức ông được vận chuyển bằng ô tô về Paris. Đó là một phép lạ mà ông không bị chết. Vẫn còn bất tỉnh trong vài ngày, chân sọ của ông bị bẹp và hàm dưới bị vỡ thành miếng, ông đã được cứu bởi khoa học Pháp, một hàm nhân tạo đã được chế tạo ra cho ông.

Sau ba tháng hồi phục, chính phủ Pháp đưa ông trở về quê hương của mình. Nhưng đại úy Vị trả lời rằng lúc này chưa phải là thời điểm để trở về, và tất cả mọi người phải ở lại vị trí của mình, bởi vì, như ông đã nói, "Tôi vừa là công dân Pháp và là công dân Việt và vì thế tôi phải làm gấp đôi bổn phận của tôi” (Je suis Francais et Annamite en même temps, je dois faire doublement mon devoir). Những từ cao cả cần được khắc sâu trong mỗi tâm trí.

Không còn có thể được sử dụng trong ngành hàng không, sau tai nạn khủng khiếp của mình, đại úy Vị yêu cầu được trở lại binh đoàn bộ binh cũ của mình. Than ôi!

Khi ông đứng dẫn đầu đội quân của ông, trong các trận đánh lớn khủng khiếp trên chiến trường vùng sông Somme (ở mặt trận miền Tây trong thế chiến thứ nhất) vào tháng Bảy năm 1916, lúc tấn công vào làng Dampierre, đã được phòng thủ mạnh mẽ bởi quân Đức, ông đã bị bắn bởi hàng chục viên đạn ở cự ly gần. Ông đã hi sinh trước chiến tuyến của kẻ thù và được chôn cất tại hiện trường của cuộc chiến. Được chôn ngay trên chiến trường là niềm an ủi lớn nhất của người chiến thắng!

Nhờ lòng tốt của ông Clemenceau, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng, Bộ trưởng Bộ chiến tranh, việc chuyển thi hài về nước đã được chấp thuận bởi một quyền đặc biệt từ các quy tắc thông thường.

Những người An Nam, cũng như gia đình của anh hùng liệt sĩ biết ơn ông Clemenceau qua cử chỉ có ý nghĩa này. Chính là cho đại úy Vị mà hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến người đồng hương của chúng ta, một người xứng đáng của đât nước.

LƯU Ý. - Chúng tôi được gia đình Đỗ Hữu Phương ủy nhiệm để thông báo cho bạn bè của gia đình, các người quen bản địa và người Âu rằng việc chôn cất sẽ diễn ra một ngày sau khi tàu Porthos cập bến, lúc 4 giờ chiều, và không có gửi giấy cáo phó. Thông báo này thay thế cho cáo phó.

B. V. T.

(Bach Van Tham)

(Echo Annamite, Tiếng vọng An Nam, 1920/04/22 (A1,N41)).

(chú thích: (*) Tướng Jean Marie Brulard là vị tướng gan dạ nổi tiếng của Pháp tham dự thế chiến thứ nhất và các trận đánh ở Bắc Phi, eo biển Dardanelles)


hinh-5

Hình 5: Quang cảnh đại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm ngày nay) nhìn từ Bưu điện Chợ Lớn (giữa phía dưới hình). Toà nhà của ông Phương ở phía trái trong lùm cây sau ngã ba đường Đồng Khánh (Trần Hưng Đạo ngày nay) và đại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm).


Trong một bài khác ở Écho Annamite (15/05/1920), đám tang của Đỗ Hữu Vị ở Saigon được tả như sau. Bài viết ký tên B.V.T (Bạch Văn Thắm) lý tưởng hóa con người và sự nghiệp ông Vị, làm người đọc ngày nay nhận ngay ra rằng thật ra ông ta chỉ là người Pháp chứ không còn là người Việt.

Đám tang khởi động

Thi hài được mang xuống từ tàu Porthos hôm qua lúc 10 giờ sáng dưới sự hiện diện của cả gia đình, và một sĩ quan cảnh sát; quan tài được đặt trong một nhà nguyện.

Vào đúng 16 giờ bắt đầu lễ tang; đám tang di chuyển ở giữa dòng dân tụ tập về đông đúc đáng kể. Một bàn thờ di động trên đó được đặt một chiếc máy bay nhỏ với hình phi công Đỗ Hữu Vị, dẫn đường. Tiếp sau là các bàn thờ khác và một chuỗi dài các vòng hoa điếu tang gửi bởi rất nhiều hội đoàn của các hội bản địa, trong số đó có gia đình Hoàng Phú Trọng, các quan của tỉnh Hà Đông, gia đình Đào Hương Mai v.v .. đã hùng hồn thể hiện sự tham gia của chúng ta trong lễ tang gia đình.

Đó là các cống hiến nhỏ tỏ lòng kính trọng, mà xã hội An Nam mang đến cho một trong những người tham gia vào công trình cứu độ giải thoát và giải phóng của chúng ta.

Đoàn đại biểu từ tất cả các trường ở Sài Gòn đi ngay trước xe tang lễ, đó là một xe kéo đại bác của pháo binh, xe được choàng hoa với đầy các cây xanh, hoa, và được trang trí cao cả nhất bằng các lá cờ tam tài. Cỗ quan tài biến mất dưới các vòng hoa điếu và hoa tự nhiên. Khi nhìn thấy quan tài, chứa di hài còn lại của người mà chúng ta biết đầy sức sống và nhiệt tình, gợi lại trong tâm hồn chúng ta về sự hy sinh vô lượng mà chúng ta đã trả giá trong năm năm chiến tranh.

Sự vinh quang thừa nhận sự bất tử của những anh hùng của chúng ta, đều được làm bằng nước mắt và máu.

Tất cả mọi người đứng cúi đầu khi xe tang đi ngang qua. Gia đình Đỗ Hữu Phương, đại diện bởi Đại tá Chan (Đỗ Hữu Chẩn), chủ tịch Tri (Đỗ Hữu Trí) và ông Thinh (Đỗ Hữu Thịnh), người chi phí tài chánh cho đám tang, đi theo ngay sau xe tang, với một cam chịu nhẫn nhục cao quý với đấng Tạo hóa, đi trên con đường đau khổ nhưng đầy vinh quang, con đường mà người anh của họ được trở về với quê hương, đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Chính quyền dân sự và quân sự được đại diện bởi ông Thống đốc Le Gallen và tướng Hirlzmann: nhiều phái đoàn của đủ loại các tổ chức, hội người An Nam, các Hội đồng dân cử, các quan chức đến từ miệt xa, và một đám đông người châu Âu và người bản địa cũng đến dự đám tang để làm nghĩa vụ cuối cùng của họ với người đồng bào của chúng ta.

Các ban nhạc chơi các bài hát tang lễ, các binh lính của đoàn bộ binh thuộc địa và dân quân địa phương đi kèm hai bên đoàn lễ tang, làm hàng rào danh dự cho người có một vị trí với huy chương danh dự quân sự rất cao. Bên trên đám đông, trong bầu trời trong xanh, hai chiếc máy bay của phi đội Sài Gòn của chúng ta, thao diễn trong ánh sáng rực rỡ, nhắc nhở rằng người đồng hương của chúng ta là một trong những phi công quân sự đầu tiên, đã phục vụ nước Pháp.

Lộ trình từ bến tàu đến nơi chôn cất gia đình Đỗ Hữu Phương ở trong cánh đồng mã (Plaine des tombeaux) mà đám tang đi qua, ở tốc độ chậm của sáu con ngựa kéo chiếc xe tang, lâu hơn một tiếng đồng hồ.

Tại mỗi nút giao lộ, đều có một đám đông kính cẩn và cuối chào; người ta đến cánh đồng an nghĩ bao quanh bởi cây cối xanh tươi, nơi có một đội cảnh sát nghiêm trang giữ những người tò mò trong một trật tự thật hoàn hảo.

Cỗ quan tài mang trên hai đòn hỗ trợ; nó được bao bọc bởi cờ tam tài (cờ Pháp), vải đẹp nhất mà có thể bao phủ trên thi hài của một người yêu nước, lúc này là lúc ông Le Gallen phát biểu.

Đó là những gì ít ỏi còn lại của người chiến sĩ Đỗ Hữu-Vi. Nhưng linh hồn vĩ đại của mình, ngọn lửa ấm lòng yêu nước của ông và cho ông hoàn thành hai nhiệm vụ của mình cho hai quê hương, đang lượn bất tử trên đám tang lớn mà Pháp và Đông Dương đang cử hành làm cho ông.

Đại úy Guyomar sau đó đi lên đọc diễn văn, và với đầy hứng khởi về những hy vọng chung và một tinh thần hy sinh quên mình của những người quân nhân như ông và đại úy Vị, ông tuyên bố lời vĩnh biệt cao quý mà người dự đều cảm nhận được sự hy sinh anh dũng của những người đấu tranh trên chiến trường vĩnh hằng chống lại các cám dỗ vật chất vô thường và các kẻ thù .

Người hùng biện thứ hai là tướng Hirtzmann, với giọng nói đầy nam tính dõng dạc, kể lại sự nghiệp của người chiến sĩ thanh cao của chúng ta. Thật là đẹp, tình huynh đệ trong các binh chủng quân đội!. Một đại úy được một tướng lảnh ca ngợi thán phục! Sự nghiệp sáng chói của một người đồng bào của chúng ta đã được phát họa lại trong tất cả mọi chi tiết ngoại vi nhỏ nhất và trong mọi tình huống đã nói lên tinh thần anh dũng của người anh hùng. Trước tiên là ở Nam Algerie, những chiến dịch ở Maroc, những công tác ở Đông Dương , sau đó sau tuyên chiến chiến tranh thế giới thứ nhất, những trận đánh kinh khủng mà tính khí anh dũng của đại úy Đỗ Hữu Vị thích ứng rất tự nhiên.

Lúc đó là thời điểm long trọng, cần có sự cống hiến của tất cả các người con của đất nước, để đi nhanh ra đến chiến trường. Đó là chiến trường danh dự cho những ai đã ngã xuống. Hôm nay chúng ta nhặt những gì còn lại của thi thể ông đã trở thành thiêng liêng vì sự chết cho chính nghĩa ở nơi đất thiêng liêng ấy. Và qua sự tiếp xúc của hài cốt, với vùng đất sinh thành của mình, vùng đất này cũng trở thành kính trọng. Đó là, theo chúng tôi biết, ý nghĩa của diễn văn của tướng Hirstmann.

Ông Le Gallen, trong một vài lời nhanh ngắn mang ra ánh sáng cho ta thấy về những công lao của gia đình cao quý Đỗ Hữu Phương, gởi đến Đại tá Chấn, người đại diện dòng nam gia đình họ Đỗ. Bắt đầu từ người em út, Đỗ Hữu Vị, sự nghiệp quân sự, mà đại tá Chấn may mắn đã được cái chết tha cho, hôm nay mang lại một hào quang vẽ vang, tuôn phát ra từ quan tài này. Sự bất tử được hứa hẹn cho những ai ngã xuống vì chính nghĩa. Lời phát ngôn đầy hy vọng này chắc làm giảm đi sự khổ đau của gia đình, vì lòng tin này mà máu của những người ngã xuống là hạt giống sinh sản dồi dào cho cuộc sống.

Sau sự tỏ lòng thương tiếc thành kính, và lời vĩnh biệt của người đại diện chính quyền, kính cẩn chào Đỗ Hữu Vị, và với cử chí có ý nghĩa, mỗi người tham dự nghiêng người kính cẩn, rút đi trái tim đau buồn, với lòng đầy biết ơn và hy vọng trong tương lai đất nước của chúng ta mà Đỗ Hữu Vị đã cống hiến nhiều để nó trở thành hạnh phúc và tự do hơn.

B. V. T.

(Bạch Văn Thắm)

Gia đình Đỗ Hữu Phương cũng không quên gốc gác Minh Hương của mình. Hội quán Nghĩa Nhuật ở Chợ Lớn được xây dựng với sự giúp đỡ của gia đình ông. Ngày nay không còn dấu tích gì về phần mộ gia đình Đỗ Hữu Phương và toà nhà biệt thự sang trọng to lớn của ông và gia đình ở Chợ Lớn trên con đường mang tên ông một thời, tất cả đều không còn. Gần đó ngay trong khu trung tâm phố xưa của Chợ Lớn ngày nay có một con đường mang tên người cùng thời với ông, cũng có quốc tịch Pháp như ông, nhưng khác với ông, đã bỏ hết tâm trí, tài sản sự nghiệp cho công cuộc canh tân con người và đất nước Việt Nam, mặc dầu phải trả giá rất đắt và nhiều tai họa cho bản thân vào thời đó nhưng đã được lịch sử ghi nhớ và kính phục: ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, chủ bút hai tờ báo Nông Cổ Mín ĐàmLục Tỉnh Tân Văn, những tờ báo quốc ngữ đầu tiên đầu thể 20 có mục đích canh tân con người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp giao thời giữa Cựu trào và Tân trào.


2
hinh-6b

Hình 6 – Biệt thự của Đốc phủ sứ Đỗ Hữu Phương đầu thế kỷ 20
và cùng vị trí ngày nay (2014), ảnh Tim Doling


Nguyễn Đức Hiệp



Tham khảo:


  1. Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française / A. Brebion ; publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, Société d'éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris),: 1935

  2. Pimodan, Claude de Rarécourt de la Vallée (1859-1923 ; comte de), Promenades en Extréme-Orient (1895-1898) : de Marseille à Yokohama, Japon, Formose, îles Pescadores, Tonkin, Yézo, Sibérie, Corée, Chine / Le Commandant de Pimodan, H. Champion (Paris), 1900.

  3. Théophile de Lamathière, Panthéon de la Légion d'honneur. Editeur : E. Dentu (Paris), 1905

  4. Hứa Hoành, Các giai thoại Nam Kỳ lục tỉnh, http://sachxua.net/forum/index.php?topic=10090.0;wap2

  5. Pierre Nicolas, Notices sur l'Indo-Chine, Cochinchine, Cambodge, Annam, Tonkin, Laos, Kouang-Tchéou-Ouan, publiées à l'occasion de l'Exposition Universelle de 1900 sous la direction de M. Pierre Nicolas, commissaire de l'Indo-Chine, impr. de Alcan-Lévy (Paris), 1900

  6. Paul Doumer, Indo-Chine française (souvenirs), Vuibert et Nony (Paris), 1905

  7. Pierre Barthélemy, En Indo-Chine 1894-1895: Cambodge, Cochinchine, Laos, Siam méridional, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899.

  8. Saigon Republicain, 1/5/1889, A2, N102.

  9. Écho Annamite, 22/04/1920 (A1,N41)

  10. Écho Annamite, 15/05/1920 (A1,N50)

  11. Nguyễn Lê Tuyên, Nguyễn Đức Hiệp, Quan hệ văn hoá Pháp-Việt đầu thế kỷ 20 qua sự kiện Triển lãm Toàn cầu 1900, http://khoahocnet.com/2015/01/03/nguyen-le-tuyen-nguyen-duc-hiep-quan-he-van-hoa-phap-viet-dau-the-ky-20-qua-su-kien-trien-lam-toan-cau-1900/

  12. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.



Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Indochine: 70 ans après les Accords de Genève 21/11/2024 16:00 - 18:00 — BnF site François-Mitterrand, Quai François Mauriac, 75706 Paris Cedex 13
Yda: Un court-métrage Hanoi - Warszawa 29/11/2024 19:00 - 21:00 — Médiathèque Jean-Pierre Melville, 79 rue Nationale, Paris 75013, M° Olympiades
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us