Từ lính thợ ZTW 605 đến Phạm Văn Nhận, nhà điện ảnh
LTS. Chương trình sắp tới của câu lạc bộ điện ảnh Yda, ngày thứ bảy 19 tháng 9 tại rạp La Clef ở Paris, sẽ giới thiệu phim tài liệu Lê Bá Đảng – từ Bích La đến Paris của Đặng Nhật Minh (2015) và phim truyện Hai thế giới của Phạm Văn Nhận (1953). Họa sĩ Lê Bá Đảng, vừa mất tháng 3 năm nay ở Paris, và đạo diễn Phạm Văn Nhận, đang sống ở miền Nam nước Pháp, đều xuất thân là lính thợ (ONS) sang Pháp vào năm 1939. Tuổi tác và sức khỏe của ông Phạm Văn Nhân không cho phép ông có mặt ngày 19 này ở La Clef, cho nên Yda đã đến La Grande Motte phỏng vấn nhà đạo diễn đã mở màn dòng phim truyện hiện đại của điện ảnh Việt Nam.
Từ lính
thợ ZTW 605
đến
Phạm Văn Nhận, nhà điện ảnh
Hải Vân
Tuy chính thức khai sinh năm 1921 tại Đông Ngạc (làng Vẽ, ngoại thành Hà Nội), Phạm Văn Nhận năm nay 96 tuổi và đang sống tại La Grande Motte, bên bờ Địa Trung Hải, miền Nam nước Pháp. Gương mặt của ông trở nên quen thuộc đối với những người xem các phim tài liệu Pháp nói về lính thợ Việt Nam – Công binh của Lê Lâm (2012), Asiatiques de France của Laurence Jourdan (2013) – hay tập sách Immigrés de force : Les travailleurs indochinois en France 1939-1952 của Pierre Daum (2009), đặc biệt là bức ảnh căn cước của người lính thợ không tên, chỉ mang số ghi danh ZTW 605.
Ảnh căn cước chụp năm 1939 ; Ảnh chụp năm 2009 tại tư gia (trả lời phỏng vấn của La Provence)
Nhân Trung tâm quốc gia điện ảnh Pháp (CNC) cho phục chế và số hóa những phim truyện ông đã thực hiện ở Pháp vào đầu những năm 1950 – Hai thế giới (1953), Giá hạnh phúc (1953), Vì đâu nên nỗi (1954) –, Phạm Văn Nhận nhớ lại ông đi đến với điện ảnh như thế nào. Hay đúng hơn, điện ảnh đã đến với ông trong những tình huống nào, bởi Phạm Văn Nhận không hề đi học về điện ảnh, và cả sự nghiệp điện ảnh của ông – không chỉ đạo diễn mà còn làm xưởng in tráng phim, sáng chế kỹ thuật và thiết bị chuyển âm… – là sự gặp gỡ của một óc tháo vát, tìm tòi, thông minh thực tiễn với một chuỗi những duyên lành.
Vào năm 1939, chuẩn bị chiến tranh với Đức, chính quyền thực dân điều động nhân công Việt Nam sang lao động trong các nhà máy ở chính quốc, thay thế công nhân Pháp phải ra mặt trận. Với hầu hết nông dân, đây chỉ là một hình thức lao động cưỡng bức, song với một số thanh niên thành thị nó là một cơ hội ra nước ngoài để hiểu biết thêm. Đó là trường hợp của thanh niên Phạm Văn Nhận, học sinh lớp 11 trường trung học Thăng Long (Hà Nội), đã bỏ thi tú tài phần 1 để sang Pháp trong diện gọi là « lính thợ » với tính cách là thông dịch. Đến Pháp, ông đăng ký học hàm thụ ngành điện, vô tuyến và điện thoại, được vài tháng thì Paris đầu hàng. Trong thời gian Đức chiếm đóng, ông chia sẻ số phận chung của lính thợ trong các trại tập trung của chính quyền Pháp và những cuộc đấu tranh của đồng hương chống chế độ hà khắc của ban quản trại. Đồng minh chiến thắng, ông được một hãng của quân đội Mỹ đào tạo thêm về điện và trở thành chuyên viên sửa điện.
Nhưng sở thích của Phạm Văn Nhận là nhiếp ảnh, và số tiền đầu tiên mà ông dành dụm được khi đặt chân đến Pháp là để mua máy ảnh Lumière Super Eljy. Nhiều bức ảnh về các trại lính thợ Việt Nam mà người ta tìm thấy hiện nay trên mạng là được chụp từ máy này. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pháp năm 1946, Hội ái hữu người Việt giới thiệu ông làm việc cùng với nhà nhiếp ảnh của đoàn Vũ Năng An. Đồng thời, họa sĩ Mai Thứ, người duy nhất trong Hội ái hữu khi đó biết sử dụng máy quay phim, thành lập nhóm điện ảnh có tên Sao Vàng và, trong khuôn khổ đó, Phạm Văn Nhận lần đầu tiên cầm máy 16 ly quay những thước phim tài liệu lịch sử về Hồ Chủ tịch, phái đoàn Phạm Văn Đồng và phong trào Việt kiều.
Qua kinh nghiệm này, Phạm Văn Nhận được nhà làm phim Pháp Léo Joannon – có vợ người Việt – thuê vào làm trong hãng sản xuất máy quay phim ở khâu kiểm tra máy trước khi giao hàng, nhờ đó ông Nhận có điều kiện sử dụng các loại máy quay và ống kính. Về sau, khi làm phim, Léo Joannon lại kêu Phạm Văn Nhận làm trợ lý đạo diễn, nhờ vậy ông đã tìm hiểu những công đoạn trong quá trình quay phim. Năm 1952, Phạm Văn Nhận tự thuê máy quay 35 ly, thực hiện bộ phim truyện đầu tay 30 phút là Một trang nhật ký, nói về tình cảnh của các sinh viên Việt Nam du học ở Pháp phải tư xoay xở để sinh sống khi không còn nhận được tiền chuyển ngân của gia đình trong nước – Phùng Thị Nghiệp và Phạm Trung Vinh giữ những vai chính. Sau khi hoàn thành phần quay, nhờ mối quan hệ gia đình của người vợ Pháp với ông Faidherbe, giám đốc kỹ thuật của hãng hậu kỳ LTC, Phạm văn Nhận có thể vào hãng vừa làm, vừa học các khâu tráng, in, chỉnh sáng, dựng phim. Một trang nhật ký, mặc dù có mặt yếu kém, đã thành công thương mại khi phát hành ở trong nước vào đầu năm 1953, bởi nó là bộ phim truyện đầu tiên do đạo diễn người Việt Nam thực hiện sau độc lập năm 1945 (phát hành cuối năm đó, có phim Bến cũ của Phan Tại và Nguyễn Bá Hùng).
Lê Hùng và Phùng Thị Nghiệp trong phim Hai thế giới
Từ sự thành công về doanh thu này, ngân hàng Franco-chinoise đặt Phạm Văn Nhân thực hiện một phim nối tiếp. Đó là Hai thế giới quay năm 1953, dài 61phút, nói đến nạn lao phổi trong giới sinh viện người Việt du học tại Pháp – diễn viên là Phùng Thị Nghiệp, Lê Hùng, Vũ Ngọc Tuân, Phạm Ngọc Tuấn. Cũng năm 1953, Phạm Văn Nhận làm phim Giá hạnh phúc, dài 78’, quy tựu Vĩnh Huệ, Lê Hùng và Vũ Ngọc Tuân trong một câu chuyện gia đình Việt kiều, ở đó tinh thần nhẫn nại của người vợ hiền đã cảm hóa được người chồng ăn chơi và vũ phu. Tác phẩm thứ tư của Phạm Văn Nhận đánh dấu sự ra đời của hãng Mỹ Phương Phim do bà Hạ Thị Loan thành lập năm 1954 để sản xuất tại Pháp và phát hành ở Việt Nam bộ phim truyện dài 94 phút Vì đâu nên nỗi. Phỏng theo tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh, bộ phim dựng lại tại khu rừng tre Anduze một làng ở đồng bằng sông Cửu Long thời thuộc Pháp, những nhân vật chính trong truyện do Nguyễn Tấn Hớn, Nguyễn Thị Tuyết Vân và Hương Sinh thủ vai. Từ đó, sự nghiệp điện ảnh của ông Nhận gắn với Mỹ Phương Phim.
Sau Hiệp định Genève kết thúc chiến tranh Pháp - Việt, hãng phim chuyển hoạt động sản xuất về nước và Lòng nhân đạo là tác phẩm đầu tiên của Phạm Văn Nhận thực hiện ở Sài Gòn năm 1955. Dựa vào truyện của Phú Đức, phim kể chuyện một bác sĩ giàu sang, sống ích kỷ được cô y tá cảm hóa, đưa đến chữa bệnh nhân nghèo ở xóm lao động – những vai chính do các nghệ sĩ sân khấu Kim Cương, Trần Văn Trạch và diễn viên Hà Minh Tây đảm nhận. Năm 1956, ông Nhận cho ra đời Giọt máu rơi, song phim không qua được kiểm duyệt của bộ thông tin vì diễn tả xung đột giữa giới lao động nghèo và những nhà tư sản nhiều thế lực. Chí ít đó là lý do chính thức, bởi thật ra, theo ông Nhận, phim không được phép phát hành vì Mỹ Phương Phim không chấp nhận hối lộ người cấp giấy phép. Sau kinh nghiệm cay đắng này, ông Nhận và hãng phim rút ra kết luận không thể làm phim trong những điều kiện đó. Giọt máu rơi, tác phẩm bị cấm chiếu của đạo diễn Phạm Văn Nhận, cũng là bộ phim cuối cùng của ông.
Một cảnh trong Hai thế giới
: (từ trái sang phải) Phạm
Ngọc Tuấn, Lê Hùng, Vũ Ngọc Tuân
Từ năm 1957 trở đi, Mỹ Phương Phim chuyển hoạt động điện ảnh sang lãnh vực thuần kỹ thuật, xây phim trường tại quận Phú Nhuận cùng với xưởng in tráng phim, xưởng lồng tiếng và chuyển âm phim. Nhờ có kiến thức về điện và khéo léo về tay nghề, ông Nhận đã sáng chế một kỹ thuật chuyển âm ít tốn kém, dùng băng từ để ghi âm rồi dán lên phim nhựa. Một bản phim do Mỹ Phương Phim chuyển âm như vậy có đến ba đường tiếng : ngoài đường tiếng quang học gốc, có hai đường tiếng từ tính, tiếng Việt và cả tiếng Hoa cho các rạp chiếu bóng ở Chợ Lớn. Cùng với phát minh kỹ thuật này, ông Nhận còn thiết chế máy cắt-dán băng từ, máy chiếu có đầu từ đọc phim chuyển âm. Công nghệ của Mỹ Phương Phim được xuất khẩu sang Cam Bốt khi ở Phnom Pênh hình thành một hãng chuyển âm phim. Ông Nhận cho biết đã có những lúc hầu hết các phim chuyển âm chiếu tại Sài Gòn - Chợ Lớn xuất phát từ Mỹ Phương Phim – không chỉ phim Ấn Độ, mà cả phim Nhật, Mỹ, Pháp. Song, do không bảo vệ được quyền sở hữu trí tuệ, Mỹ Phương Phim về sau phải chịu sự cạnh tranh của những hãng sao chép kỹ thuật chuyển âm này. Ông Nhận còn sáng chế một kỹ thuật phụ đề phim ít tốn kém, nhưng không được sử dụng nhiều vì giá thành vẫn cao hơn kỹ thuật chuyển âm.
Vào năm 1965, những chuyển biến chính trị và quân sự tại miền Nam Việt Nam khiến ông Nhận quyết định chấm dứt mọi hoạt động điện ảnh ở trong nước và trở sang Pháp sinh sống với gia đình. Trước khi nghỉ hưu tại La Grande Motte, ông có nhiều hoạt động khác, không liên quan với điện ảnh – kể cả làm trang trại chăn nuôi trừu tại vùng Poitou - Charente. Tên tuổi ông chỉ xuất hiện lại trên sách báo và màn ảnh sau khi tác phẩm của Pierre Daum năm 2009 gây tiếng vang trong dư luận Pháp và được nối tiếp bởi những trang mạng dành cho lính thợ, những cuộc triển lãm lưu động, những lễ ghi nhận công lao lính thợ ở Arles và các thị xã khác, những buổi chiếu và thảo luận phim của Lê Lâm ở khắp nước Pháp, buổi truyền hình phim tài liệu của Laurence Jourdan trên đài France 5… Song, đối với nhà đạo diễn Việt Nam 96 tuổi, có ý nghĩa nhất vẫn là sáng kiến của Lưu trữ phim Pháp (Archives françaises du film – hiện bảo quản ba bộ phim dài do ông thực hiện ở Pháp) phục chế bản phim Hai thế giới, và quyết định của viện phim Cinémathèque française giới thiệu bộ phim này tháng 6 năm 2014 trong chương trình Toàn cảnh điện ảnh Việt Nam.
Hải Vân
Các thao tác trên Tài liệu