Bạn đang ở: Trang chủ / Nhân vật / VỊ TRÍ QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM LÊ THÀNH KHÔI TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU THỜI KỲ THUỘC ĐỊA Ở VIỆT NAM CỦA MỘT SỬ GIA PHÁP

VỊ TRÍ QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM LÊ THÀNH KHÔI TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU THỜI KỲ THUỘC ĐỊA Ở VIỆT NAM CỦA MỘT SỬ GIA PHÁP

- Charles FOURNIAU / Bửu Ý dịch — published 10/02/2025 19:05, cập nhật lần cuối 11/02/2025 09:29



VỊ TRÍ QUAN TRỌNG CỦA

TÁC PHẨM LÊ THÀNH KHÔI

 TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU

THỜI KỲ THUỘC ĐỊA Ở VIỆT NAM

 CỦA MỘT SỬ GIA PHÁP



Charles FOURNIAU*





   “Tôi biết rằng tôi chẳng biết gì cả”: giống như Socrate, tôi biết như thế, sau hơn bốn chục năm nghiên cứu về sự tiếp xúc thuộc địa Pháp - Việt. Hẳn nhiên tôi thu thập được một số hiểu biết từ phía Pháp về cuộc tiếp xúc ấy, về những biến cố quan trọng, nhưng còn hiểu biết từ phía Việt thì được những gì ? Dĩ nhiên tôi quen biết nhiều, và yêu thích các học giả kháng chiến “của tôi”. Về thời kỳ hiện đại, từ mấy chục năm nay tôi thăm viếng nhiều ngôi làng, mòn gót trên nhiều thành phố thân yêu khắp thế giới, trong đó Hà Nội đứng hàng đầu ; vài người bạn thân nhất của tôi là người Việt. Tuy nhiên, làm sao dám bảo tôi biết Việt Nam ? Đâu phải yêu là đủ để biết. Tôi còn phải cần biết thêm một số kiến thức để tiến hơn trong việc nghiên cứu của mình. Do đó tôi càng dày công đọc, nhìn, tìm hiểu, và giữa bao nhiêu thứ có thể rọi sáng hơn cả, tôi ghi nhận những gì một số nhà trí thức người Việt đem đến cho tôi. Tôi tri ân đặc biệt ba người trong số họ: Nguyễn Khắc Viện, người thầy đầu tiên, bạn Nguyễn Văn Hoàn rất uyên bác, và dĩ nhiên Lê Thành Khôi mà tôi trân trọng gởi tặng bài viết này.

    Làm sao có thể nghiên cứu việc chinh phục và thống trị thuộc địa mà không có người dẫn dắt chính xác và đáng tin về lịch sử và văn minh Việt Nam thời tiền thuộc địa ?

   Trước hết, hãy xét thư tịch. Ta tìm thấy gì về nghiên cứu tổng hợp trước năm 1982, tức là năm ấn hành quyển “Lịch sử Việt Nam, từ nguyên thủy đến 1858” của Lê Thành Khôi? Một số khảo cứu uyên bác, đặc biệt trong tập san BEFEO, như bài của L.M Cadière, “Niên biểu các triều đại An-nam” (1905) hoặc của Bùi Quang Tung “Biểu nhất lãm niên đại Việt Nam” (1963) hoặc “Bản liệt kê các hoàng đế An-nam theo niên đại” (1908).

   Một số sách xưa cổ viết về “ lịch sử An-nam’’ ấn hành từ thời thuộc địa, phần lớn phát xuất từ các nhà truyền giáo. Một trong những tác phẩm đầu tiên là “Ghi chú lịch sử về quốc gia An-nam” của Le Grand de la Liraye, “một trong những người thấu đáo An-nam hơn cả”, theo lời khẳng quyết trong bộ Hồi ký của Hội Hàn Lâm Đông Dương (1879): chắp nối các dữ kiện về “quốc gia An-nam”, “các đại sự tiếp nối nhau từ 4.000 năm”, làm sao đây không phải là sách quý ? Hoặc giả “Lịch sử xưa và nay về An-nam, Tong-King và Cochinchine từ năm 2700 trước công nguyên” (1884) của L.M Adrien Launay, hoặc tập một của bộ “Lược sử An-nam” (1912) của L.M Cadière.

   Ngoài sách vở của các nhà truyền giáo vừa kể trong thời thuộc địa, mà chủ tâm là phủ nhận thực tế của quốc gia - dân tộc Việt Nam và trà trộn Việt Nam vào khái niệm “ Đông Dương’’, chỉ có một vài tác phẩm với lợi ích hạn chế, như tác phẩm tập thể ấn hành vào dịp Triển lãm thuộc địa 1931 in làm hai tập, do Sylvain Lévi chủ trương, “Đông Dương”, hoặc là, gần như cùng lúc,“Đông Dương, một đế quốc thuộc địa của Pháp” của Georges Maspéro (1930) xuất bản tiếp sau cuốn “ An-nam ngày trước. Luận về cơ chế của An-nam trước khi người Pháp can thiệp”, của toàn quyền Pierre Pasquier (1907), tập hợp mười hai bài diễn thuyết trình bày vào dịp Triển lãm thuộc địa ở Marseille năm 1906. Trước đó, Shreiner đã xuất bản một quyển sách nhỏ nhan đề “Tóm tắt lịch sử An Nam” (1900). Về sau, nhờ Charles Maybon, ta có hai tác phẩm hữu ích nhưng thu hẹp về thời kỳ: “Đọc sử An-nam, kể từ nhà Lê lên ngôi”, loại sách giáo khoa mà tiểu đề nói lên chủ đích của nó: “phụ chú một số khái niệm hành chính sơ đẳng” (1919), kế đó là “Lịch sử hiện đại An-nam, 1592-1820”, cũng với một tiểu đề xác lập quan điểm: “Nghiên cứu những quan hệ bước đầu giữa người Âu và người An-nam và sự thiết lập triều đại nhà Nguyễn” (1920). Sau nữa, pho sách dày hai tập của Taboulet, “Kỳ tích của người Pháp tại Đông Dương” (1955-56). Vẫn biết đây là một công cụ nghiên cứu có ích lợi nhưng hai tập sách này khó có thể được xem là tư liệu dẫn dắt đáng tin cậy giúp ta hiểu nước Việt xưa. Càng không đáng tin cậy hơn nữa là cuốn sách nhỏ và tầm thường “Lịch sử Đông Dương” của André Masson (1950) được kết thúc như thế này: “ Việc ở lại của lực lượng vũ trang Pháp bên cạnh các chính phủ quốc gia Đông Dương không những nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi vật chất của kiều dân chúng ta v.v…” Cuốn sách này được tái bản năm 1960 với một nhan đề khác “Lịch sử Việt Nam” nhưng với một kết luận chẳng khác bao nhiêu.

   Cho nên, kể từ 1955, cuốn “Góp phần nghiên cứu lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam” của Jean Chesneaux và cuốn “Việt Nam, lịch sử và văn hoá” của Lê Thành Khôi mở ra trên đất Pháp một thời kỳ mới cho những công trình nghiên cứu bây giờ mới thoát ra khỏi vòng định kiến của thực dân chủ nghĩa. Tác phẩm sau được tu chỉnh, triển khai và giới hạn vào Việt Nam tiền thuộc địa đã ra mắt năm 1982 dưới nhan đề “Lịch sử Việt Nam, từ khởi thủy đến 1858”. Từ đây cuốn ấy là sách tham khảo. Cho nên hơn hai chục năm nay “cuốn Lê Thành Khôi” luôn luôn nằm trong tay tôi, tôi nhờ ánh sáng của lịch sử Việt Nam xưa trong đó mà soi sáng bước đường nghiên cứu của tôi trong thời kỳ thuộc địa.  

   Mặt khác Lê thành Khôi không chỉ thuần túy là nhà sử học theo nghĩa hẹp. Ông có cái nhìn về Việt Nam của một nhà dân tộc học, ngôn ngữ học, dịch giả, tóm lại là của một nhà nho trong ý nghĩa cao đẹp nhất của từ ngữ thời Việt Nam xưa, thêm vào đó là những tài năng rất hiện đại của môt nhà nhiếp ảnh đáng nể trọng. Do đó, để tiếp cận Việt Nam, một Việt Nam mà tôi muốn gọi là Việt Nam muôn thuở, toàn bộ tác phẩm của Lê Thành Khôi đều đáng được tham khảo, dù đó là những bản dịch một số tác phẩm hàng đầu về thơ bác học hay thơ dân gian, hay dù đó là cuốn "Du hành trong các nền văn hóa Việt Nam", xuất bản năm 2001, hoàn tất một công trình giới thiệu Việt Nam mà chúng tôi không thể thiếu.

   Dĩ nhiên từ toàn bộ EFEO đã được đưa ra nhiều công trình rất thâm sâu, đặc biệt nhằm vào Việt Nam xưa, nhưng đây là những bài trọng điểm, lắm khi quý giá nhưng không cho ta một cái nhìn tổng hợp về thực tế tổng thể của lịch sử và văn minh Việt Nam. Tại Việt Nam, kể từ khi độc lập, một trường phái sử học trẻ trung bắt đầu trước tác, đưa ra hình ảnh Việt Nam mấy nghìn năm lịch sử, trong một tinh thần tất nhiên khác hẳn các nhà viết sử truyền giáo buổi đầu chinh phục. Công trình của trường phái Hà Nội có tính quyết định trong việc đặt nền móng để nghiên cứu lịch sử của dân tộc Việt Nam, do những người Việt yêu nước phác họa, về thời kỳ hiện đại. Nhờ quen biết họ, họ đã giúp tôi rất nhiều trong việc đánh giá đúng sai các nguồn tài liệu thuộc địa. Tuy nhiên, các công trình ấy, thực hiện do những trí thức từ chiến khu về, đầy nhiệt huyết, trong không khí độc lập tái hồi, và chưa được dịch ra tiếng nước ngoài, nên chưa thể đưa ra ngay một tổng hợp vô tư mà tôi, với tư cách là sử gia nước ngoài, đang cần đến. Tổng hợp rộng rãi bằng tiếng Pháp ấy, chúng tôi đã nhờ Lê Thành Khôi mà có ; ông đã sử dụng toàn bộ các nghiên cứu trước đây, kể cả những nghiên cứu của các sử gia đồng thời ở Hà Nội và Sài Gòn. Đàng khác, kể từ vài thập niên gần đây, việc nghiên cứu khoa học nhân văn ở Việt Nam được phong phú hơn nhờ một số lượng rất lớn những công trình về sử học, dân tộc học, nhờ việc ấn hành bổ sung các bản cổ văn Hán Nôm. Tạp chí “Khoa học xã hội” có giới thiệu vài nét, bây giờ chỉ bằng tiếng Anh. Phần chính yếu tất nhiên viết bằng tiếng Việt, cho nên chỉ một số tinh hoa rất nhỏ nhà nghiên cứu phương Tây, nhờ học tiếng Việt, sử dụng được để mở đường khai lối. Đối với những người khác đang nghiên cứu hoặc quan tâm thực sự đến Việt Nam thì Lê Thành Khôi, qua tiếng Pháp, đã cung cấp thông tin cơ bản đầy đủ và vững chắc hơn cả mà chưa ai thay thế được trong bối cảnh Việt Nam học hiện đại qua tiếng Pháp.

    Hẳn nhiên, cuốn Lịch sử Việt am của ông, đặc biệt ấn bản “Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến 1858” là kho tài liệu chính yếu cho tôi thu thập vô số thông tin cần thiết. Tác phẩm này quan trọng về ba phương diện:

   - Trước tiên đó là sách giáo khoa thuận tiện mà lại chứa đựng nhiều nội dung, rất có ích khi nó giúp ta định vị chính xác một biến cố nào đó của lịch sử Việt Nam hay Đông Á. Ai có thể bỏ qua mười trang dày đặc của Bản niên biểu để có được ngay niên đại chính xác đáp đúng vào một câu viết ra trong một công trình nào đó, hoặc có được ngay phần tham chiếu cho một tên riêng ghi ở bản chú dẫn bằng chữ nho?  Có trong tay một công cụ làm việc tốt là một điều may mắn đáng cho ta tri ân trước tiên.

   - Nhưng tác phẩm của Lê Thành Khôi còn là một cái gì khác hơn thế nữa. Công trình tổng hợp tiên phong này có hai cái quý, một là tổng hợp và hai là cho ta thấy dân tộc Việt Nam được tạo dựng và phát triển như thế nào. Hai khái niệm ấy cần được bảo vệ. Nền sử học Pháp hiện nay có xu hướng quay lưng lại với những gì là tổng hợp vì sợ đi sâu vào vô số đề tài nghiên cứu luôn luôn được đổi mới và cũng là vì sợ – và khước từ nữa – những quan điểm tổng quát bị nghi là nhuốm màu ý thức hệ. Tác phẩm của Lê Thành Khôi, hoàn toàn ngược lại, tạo thành cái khung tổng quát khả dĩ gợi lên hàng loạt nghiên cứu, giúp ích những nghiên cứu khác, và đặt tất cả vào một viễn tượng dài hơi. Dù sao nó vẫn giữ vai trò ấy cho công việc nghiên cứu của tôi. Tất nhiên, cũng như bất cứ tác phẩm khoa học nào, tác phẩm của Lê Thành Khôi có thể bị vượt qua ở một điểm nào đó ; ngày nay ta biết nhiều về triều đại nhà Mạc (thế kỷ XVI) hơn là đoạn ngắn ở trang 247 và 249, hoặc là về những cuộc dấy loạn ở Bắc Bộ những năm 50 của thế kỷ XIX. Những cách nhìn về vương triều nhà Nguyễn trở nên phức hợp và uyển chuyển hơn, v.v… Nhưng đối với tôi, đó là những cành lá đâm chồi từ trên thân cây vững chãi là “cuốn Lê Thành Khôi”, cuốn sách vẫn tiếp tục cung cấp bức tranh tổng quát.

   Giai do cái tổng hợp ấy được tổ chức trên một ý tưởng chủ lực, là thực tế rất lâu đời của dân tộc Việt Nam. Quả tình sự khẳng định này gây tranh cãi. Một mặt vì sự khẳng định này được sử dụng nhiều trong ngôn từ chính trị nên các nhà khoa học có xu hướng không muốn thừa nhận nó, e rằng nó có tính cách bất chợt, vội vã. Mặt khác, phải giải quyết thế nào đối với một vấn đề trở đi trở lại hoài – vấn đề giá trị lịch sử tổng quát của một từ ngữ được xác định đích xác thời điểm lịch sử. Vấn đề này đặt ra cho nước Pháp hoặc các nước Âu châu cũng giống như cho Việt Nam. Ở thời điểm nào ta có thể nói rằng có một dân tộc Pháp ? Có thể áp dụng từ ngữ ấy chăng vào giai đoạn Bouvines, vào giai đoạn Jeanne d’Arc ? Hay là phải chờ đến lúc nó trở thành lá cờ vào thời điểm Cách mạng 1789 ?  Trong những năm mở đầu thế kỷ XIX, khi Fichte đọc “Diễn từ gửi dân tộc Đức”, phải chăng Fichte đi sớm trước thời gian ? Ta không nên lẫn lộn phương pháp làm việc của nhà ngôn ngữ hay nhà triết học với phương pháp của nhà viết sử. Đối với nhà viết sử, đối tượng mà ông đang nghiên cứu có tính cách động và những từ ngữ mà ông dùng không nói lên một tình trạng tĩnh mà là một xu thế đang phát triển. Nghiên cứu cuộc tiếp xúc Pháp-Việt vào thời buổi chinh phục của Pháp, tôi đã đi đến kết luận rằng động cơ của những biến cố thời ấy là phong trào dân tộc Việt Nam, với những rối rắm, những lúc bùng phát cũng như những khuyết điểm của nó. Nhưng sự diễn dịch này, mà tôi nghĩ là đương nhiên nhờ biết chất vấn tư liệu, chỉ có thể chấp nhận được nếu như trước đó ta có thể nhận ra cái thực tế dân tộc Việt Nam, cổ xưa và sinh động, là có thực.

   Và chính cái phong trào ấy tôi thấy được dàn bày trong lịch sử Việt Nam của Lê Thành Khôi, không phải tựa vào những khẳng định tiên thiên, mà dựa vào việc nghiên cứu sự phát triển của đất nước. Nếu như, cũng giống như các nhà truyền giáo nói tới 4.000 năm lịch sử An Nam, Lê Thành Khôi trong chương thứ nhất gợi dẫn vương quốc Văn Lang, thì sang tới chương hai, từ trang 89, ông mới đề cập tới “sự hình thành quốc gia Việt Nam”.  Và, phân tích kỹ lưỡng các khía cạnh tiến hóa xã hội như một sử gia, ông xác định ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng: “ Cuộc khởi nghĩa này không phải chỉ có tính cách phong kiến mà là khởi nghĩa của toàn dân, do giới quý tộc lãnh đạo, chống lại đô hộ ngoại bang. Nó mở đầu cho cuộc đấu tranh độc lập trường kỳ, trải qua vô vàn thử thách, sẽ đắc thắng vào thế kỷ thứ X”. Lê Thành Khôi cũng chứng minh sự liên kết chặt chẽ giữa sự hình thành Nhà nước với sự phát triển dân tộc ; đây là một trong những đặc điểm chính yếu của lịch sử Việt Nam, có thể so sánh với lịch sử Pháp, và như thế hoàn toàn không phải là một hiện tượng tổng quát. Như thế, các nhà nho kháng chiến trong phong trào Cần Vương “của tôi” mới mang đúng ý nghĩa thực sự của họ: họ là thành phần của cái mà tôi gọi là quỹ đạo Việt Nam, nghĩa là sự hợp thành của nhiều mâu thuẫn đã gây nên hàng loạt biến cố tiếp nối nhau suốt gần hai chục thế kỷ và bây giờ chính nó giúp ta hiểu được vấn đề qua từng chặng đường phát triển của nó.

   Và trong lịch sử hình thành dân tộc đó, ta có thể theo dõi, từng thời kỳ một, không phải chỉ những biến cố chính trị mà còn luôn cả những tiến hóa xã hội và văn hóa, không phải viết tách riêng ra thành từng chương, mà xen lẫn mật thiết vào nhau. Như thế, trong khuôn khổ các triều đại kế tục nhau, ta theo dõi tiến hóa xã hội, tôn giáo và văn hóa, cái này giải thích cái kia. Sự hình thành Nhà nước, với các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ và chiến tranh ngoại xâm, rõ ràng vừa là kết quả vừa là nguyên nhân, kết hợp với nhau một cách biện chứng, của bao nhiêu biến đổi của xã hội phát sinh từ đấu tranh giai cấp và ảnh hưởng tôn giáo, bấy nhiêu yếu tố đó đúc kết lại, biểu lộ ra trong quá trình phát triển của văn học và nghệ thuật. Và như thế, thời kỳ này sang thời kỳ khác, ta theo dõi sự phát triển song đôi của dân tộc và Nhà nước và, chính thế, sự hình thành rất sớm của ý thức dân tộc. Đọc “cuốn Lê Thành Khôi”, tôi tìm thấy căn rễ hàng thế kỷ của bao nhiêu thứ tôi đã nghiên cứu về hậu bán thế kỷ XIX.

   Do đó tôi có chút không đồng tình với mấy trang cuối của cuốn sách khi bàn về “tình trạng bất biến chuyển trí thức ». Tất nhiên tôi biết rằng các nhà nho Cần Vương “của tôi” bị gò bó trong thứ Nho giáo chật hẹp đã thống trị Việt Nam và còn mạnh thêm dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng thiết tưởng nên đưa ra hai nhận định giảm thiểu. Nhận định thứ nhất là, kể từ triều Minh Mạng, nước Đại Việt không thu rút mình lại đến mức như người ta nói. Minh Mạng đã phái tàu thuyền sang tới Ấn Độ, Thiệu Trị đã gởi sứ sang phương Tây, và nếu Nguyễn Trường Tộ đã dâng được sớ lên tới vua là vì ông đã được một số đại thần cao nhất triều đình nâng đỡ và Tự Đức không phải là không nghe ra những tư tưởng ấy. Lý do, và đây là nhận định thứ hai, khiến sự tiến hóa đang chớm nở bỗng bị chận đứng, chính là sự chinh phục của phía Pháp. Làm sao bắt tay vào việc cải tổ thuế khóa một cách sâu rộng trong khi phải trả cho kẻ thù món bồi thường kếch xù là 4 triệu đồng do hiệp ước 1862 bó buộc, do đó mà có những sắc chỉ ban hành những năm 1862, 1869, 1871, 1873 (Dương Kinh Quốc 1988: 55) tăng thuế điền thổ đến nỗi làm tiêu tán làng mạc, dân phải bỏ làng mà đi ? Làm sao Nhà nước có thể hòa hoãn tư tưởng chính thống khi kẻ xâm lăng đòi toàn quyền tự do hành động cho hàng ngũ truyền giáo mà các người truyền giáo thì tự cho mình cái mục đích là triệt tiêu tư tưởng ấy ? Làm sao hòa hoãn ở thời điểm 1873, khi đa số người công giáo ở Bắc kỳ nổi dậy hùa theo Francis Garnier tấn công chiếm thành Hà nội ? Có thể nào nghe theo ý kiến của Nguyễn Hiệp khi ông từ Xiêm trở về năm 1879 chủ trương chính sách ngoại giao chủ động (Lê Thành Khôi 1982: 39 I) trong khi, kể từ 1874, “hiệp ước Philastre” quy định trong điều 3: “Để tỏ lòng tri ân sự bảo trợ (của nước Pháp), Hoàng đế An Nam cam kết rập khuôn đường lối ngoại giao của mình với ngoại giao của Pháp và không thay đổi gì trong các quan hệ ngoại giao hiện thời” ? Còn các lời luận bàn của Phan Liêm năm 1881 nhằm thiết lập các công ty hùn vốn (Lê Thành Khôi 1982: 392) có giá trị gì không khi mà các dự án đánh chiếm Bắc kỳ đã được thảo luận đâu vào đấy về phía Pháp ? Nên chăng phải thấy cho ra mối liên hệ biện chứng cắt nghĩa rằng nếu một bế tắc nào đó trong chính quyền Việt Nam đã làm dễ dàng sự chinh phục của Pháp thì, song song, cuộc chinh phục của Pháp cũng đã làm tắt nghẽn trong nhiều thập kỷ những manh nha tiến hóa phát hiện ngay từ thời Minh Mạng. Vấn đề này rất quan trọng vì nó liên quan đến cái nhìn của ta về nhà Nguyễn, mà các sử gia Việt Nam hiện đại có khuynh hướng đánh giá lại, và cũng liên quan đến cách hiểu của ta về những hậu quả của sự thiết lập nền đô hộ thuộc địa hẳn nhiên đã làm trì trệ nhiều mặt.

   Nhưng, ngược đời thay, sự bế tắc kia – mà nền đô hộ thuộc địa càng làm trầm trọng thêm – đã góp phần giữ vững, trong một thời gian dài, cốt tủy của văn minh truyền thống trong dân chúng nông thôn, nghĩa là trong hầu hết dân chúng. Năm 1915, trong “Đông Dương tạp chí bộ mới”, Phan Kế Bính đăng tải “Việt Nam phong tục” của ông, trong đó ông đưa ra, bằng giọng trách móc, bức tranh gần như không thay đổi của những “Phong tục tập quán Việt Nam”. Như thế, vượt qua dấu ngoặc thuộc địa, nước Việt Nam truyền thống vẫn tiếp tục trường tồn cho đến gần đây, giả như hôm nay có biến mất chăng nữa.  Tôi đã có dịp kể là đã ghi lại, cách đây bốn mươi năm, những kỷ niệm của một bác nông dân già hồi nhỏ mang thương tích trong vụ Pháp chiếm Bắc kỳ, và tôi cũng được nói chuyện lâu với một vị đồ nho đã từng thi hương vào những năm cuối. Thế có nghĩa là người viết sử ngoại quốc nào viết về Việt Nam, bất luận giai đoạn nào, đều phải trực diện với một nước Việt Nam cổ truyền vừa hiện ra trước mắt lại vừa thuộc vào một thế giới rất xa xôi, tuy xa nhưng ông cũng phải cố tìm cách thâm nhập nếu không muốn sa lầy trong cách hiểu giản lược thường thấy nơi những người viết báo và người du lịch. Bởi vậy, trong mấy chục năm nay tôi nhủ đi nhủ lại với mình: tôi biết tôi chẳng biết gì, nhưng vẫn phải cố gắng học cách tiếp cận và đó cũng là lúc tôi đặc biệt cần đến các tác phẩm nhiều mặt của Lê Thành Khôi. Thật vậy, ta tìm thấy trong “Lịch sử Viêt Nam” bước tiến hóa của văn minh gắn liền với lịch sử của xã hội và với các biến cố lịch sử ; mặt khác vai trò dịch giả tinh tế của Lê Thành Khôi cho phép chúng ta tiếp chạm với một số báu phẩm của văn học Việt Nam ; sau cùng, trong vai trò nhiếp ảnh gia đáng trân trọng và người bình luận tinh tế về đời sống thường ngày, ông cho ta thấy, qua “Du hành trong các nền văn hóa Việt Nam” (2001), nước “Việt Nam muôn thuở” trong cái đẹp thâm trầm của nó.

   Nghiên cứu thời “cận đại”, ta đã rất xa vương quốc Văn Lang hay sự du nhập của Phật giáo vào bán đảo Đông Dương, nhưng ta không thể không biết, tuy khó nghiên cứu sâu trong thư tịch dày đặc, hỗn độn. Đó là một trong những khía cạnh cần thiết của công tác khoa học về lịch sử vốn bó buộc vừa nghiên cứu những tư liệu đầu tay vừa vận dụng các  sách báo viết cùng đề tài. Đó là điều mà Lê Thành Khôi đã cung cấp. Tác phẩm của ông  chuyển giao những điều chính yếu trong khối lượng sách vở bác học Pháp và Việt. Do đó, giữa bao nhiêu thực tại văn hóa cần đề cập khi nghiên cứu Việt Nam, có Phật giáo, vấn đề vô cùng phức tạp, vì tư tưởng, vì bước tiến hóa đa dạng, vì xen lẫn vào nhiều trào lưu lớn về tôn giáo và triết học của Á Châu, vì những biểu hiện trước mắt, chưa kể những phiếm luận trên báo chí hiện nay. Để tiếp cận khởi đầu với vấn đề này, một mặt nên theo dõi trong sách sử của Lê Thành Khôi các chặng đường thâm nhập, quảng bá và phần nào suy giảm của Phật giáo trên đất nước Việt Nam truyền thống – và đây là lời tôi khuyên sinh viên của tôi tìm đọc đầu tiên – và mặt khác cảm nhận những ảnh hưởng phân tán ít nhiều nhưng thường khi là trọng yếu của đạo Phật (tôi nghĩ tới Kim Vân Kiều) trong cái mà tôi gọi là “hồn Việt” vì không biết gọi thế nào cho đúng hơn. Và ở điểm này, tác phẩm “Du hành trong các nền văn hóa Việt Nam” mà Lê Thành Khôi cho ấn hành năm 2001, cho phép ta dạo chơi trong cái đẹp của cảnh sắc, người và vật, đồng thời thâm nhập hiểu sâu đất nước Việt Nam, dù không phải ta bao giờ cũng theo gót tác giả trong một số nhận định nào đó về khía cạnh chính trị hiện thời.

   Tôi dùng tác phẩm này theo hai thì. Đầu tiên là lật trang như anh chàng du lịch ngây người ra trước vẻ đẹp của các tấm ảnh ; các ảnh đó giúp tôi khám phá thêm cái đất nước mà tôi cứ nghĩ là mình đã biết. Bằng những bức ảnh nghệ thuật, ông trình bày dưới mắt độc giả những khuôn mặt khác nhau của một xứ sở, được nhìn và cảm với một đôi mắt và một trí óc tinh tế, giúp khách nước ngoài thấy và hiểu những gì mà khách không thể tự thấy một cách sâu sắc như vậy: đó đâu phải là một đóng góp nhỏ nhoi ! Với tác phẩm này, tôi có kinh nghiệm khá tương tự kinh nghiệm mà Nguyễn Khắc Viện đã cho tôi cách đây đã lâu. Anh Viện đưa tôi đi qua một ngôi làng nào đó chẳng có gì khiến tôi chú ý ; sau đó anh lại đưa tôi đi lần nữa và chỉ cho tôi những gì nên thấy vì là quan trọng và có ý nghĩa để hiểu đời sống người nông dân Việt Nam. Các tấm hình chụp của Lê Thành Khôi, ngoài cái thú thẩm mỹ gợi lên, dẫn dạy cho ta và bắt ta suy nghĩ. Đọc lần thứ hai, cầm bút trên tay, tôi thu lượm được một khối tài liệu phong phú, trước hết hoàn toàn về lịch sử, giúp tôi học thêm những gì đã học được trong “Lịch sử Việt Nam”. Cứ như thế, lần theo trang sách, tôi gặt hái thêm một hiểu biết chính xác về tính xưa cổ trong việc trồng lúa ở Việt Nam bởi vì những khai quật đã đưa ra ánh sáng những hạt lúa gặt cách đây ngót hai nghìn năm (tr.55) hoặc tên ngôi chùa mà, trong đắc thắng, Giám mục Puginier đã triệt hạ để lấy chỗ xây lên nhà thờ lớn Hà Nội, v.v… Thêm vào đó, một phần khá lớn của quyển sách được dành cho các dân tộc thiểu số – các dân tộc đã làm cho Việt Nam thành một quốc gia đa dân tộc nhưng lại có mặt quá ít trong tổng hợp lịch sử chung. 

   Mặt khác, tác phẩm được điểm thêm nơi này nơi kia bằng những bài thơ trích dẫn, vì làm sao nói đến Việt Nam mà không đặt thơ lên hàng đầu, cả thơ bác học lẫn ca dao. Đó là nghệ thuật hàng đầu của Việt Nam. Một số chùa hoặc đình đẹp thật đấy, nhưng Việt Nam cũng không thể nào địch lại về mặt kiến trúc với Angkor của Campuchia, về mặt điêu khắc với nét tráng lệ của Nara ở Nhật. Lê Thành Khôi biết rõ như vậy nên đã đưa ra vô số thí dụ trong tập sách ảnh “Ai yêu cái đẹp” trong đó ông đi tìm cái đẹp trong cùng khắp Viễn Đông. Nhưng riêng về thơ thì Việt Nam có hẳn chỗ đứng trong văn học hoàn cầu. Ấy thế mà thơ, dù viết bằng chữ Hán, Nôm, hay quốc ngữ, chúng tôi chỉ tiếp nhận qua bản dịch. Mà Lê Thành Khôi, cùng với Nguyễn Khắc Viện, là người cung cấp những bản dịch trội hẳn. Chỉ cần so sánh các bản dịch “Chinh phụ ngâm” với bản dịch truyện ấy của Lê Thành Khôi là đủ rõ ; về ca dao cũng vậy. Ai thích đọc thơ đều không thể bỏ qua những tuyệt tác này ; riêng sử gia còn tìm thấy thêm trong đó vật liệu cần thiết để hiểu văn minh Việt Nam. Dân tộc này, cho tới thời kỳ rất gần đây, đã phải đẩy lùi nhiều cuộc xâm lăng, đồng thời tạo lập lãnh thổ bằng cách chinh phục toàn bộ miền Nam, vậy mà không phải chỉ có những khúc quân ca là tác phẩm văn học lớn, còn có khúc ngâm ấy nữa của người chinh phụ. Tìm đâu ra một văn minh nào khác có tác phẩm văn học cao nhất, đối với người có học cũng như đối với người bình dân, kể chuyện một phụ nữ bán mình ? Những tác phẩm lớn như thế đã thuộc vào văn học nhân loại, nhưng phương Tây còn biết quá ít, cho nên công việc dịch những tác phẩm ấy là một đóng góp đáng kể cho văn hóa nói chung và cho người viết sử nước ngoài nói riêng bằng cách cung cấp cho họ những mẩu thông tin cần yếu.

   Sau cùng, viết sử đâu phải chỉ có nghiên cứu chính trị, kinh tế hoặc các thứ khác, mà còn phải thâm nhập những gì mà ngày nay ta gọi là tâm tính (mentalité). Từ ngữ này cố nhiên là mơ hồ ; nó bao gồm tín ngưỡng và luôn cả những tập quán trong cuộc sống hàng ngày, y phục, v.v... Bảng mục lục cuốn “Du hành trong các nền văn hóa Việt Nam” đáp ứng những yêu cầu ấy : “con người, gia đình, xã hội“, “nghệ thuật sống nghèo“, v.v... Tất nhiên có cả một thư tịch lớn về các đề tài ấy, nhưng công trạng của tác phẩm Lê Thành Khôi gồm hai mặt : một mặt là tạo nền tảng vững chắc để đề cập, và cho phép bình phẩm, loại thư tịch ấy, và mặt khác là đề cập các vấn đề kia một cách bén nhạy, cho phép tôi tìm lại và tha hồ bổ sung những gì tôi đã ghi chép trong những chuyến viếng thăm làng xã, nhờ thế có được một vốn liếng kiến thức, nhạy cảm chứ không khô khan nặng nề.

   Bởi vì, để đưa chúng ta dạo chơi trong các nền văn hóa của Việt Nam – một cuộc du hành có thể bề bộn và nhắm vào cái đẹp, cái lạ địa phương – Lê Thành Khôi quả tình có cái tài của nhà văn, điều này làm cho tác phẩm trở nên rất thích đọc và nhất là có hiệu quả vì chỉ có cái văn tài mới có thể nói và làm cảm được những gì không phải chỉ nằm ở vật chất hay ở bề mặt. Ngay trang đầu, cạnh một tấm hình cực đẹp chụp nơi tiếp giáp giữa châu thổ và trườn đồi trung du, tôi được đưa vào duyên dáng mê hồn của đất nước Việt Nam do mấy dòng này: “Thoang thoảng đâu đó tiếng vạc kêu, tiếng con diều vi vu, tiếng nước ao tù động mình ; thỉnh thoảng từ chòi cao vang vọng và rền lâu như từ thời xa xưa vọng về tiếng tù và của người lính canh một mình một bóng. Một không khí thiêng liêng vây phủ cả bầu trời lúc bấy giờ, đó là lúc vạn vật dường như lắng mình vào một cõi cộng thông sâu thẳm giữa người với đời, là lúc núi sông đều phảng phất sự có mặt của đất nước nghìn năm!”. Thiết nghĩ cũng cần cảm nhận phần nào sự cộng thông ấy, được diễn cảm tinh tế đến như thế kia, để ta có thể tiếp tục làm việc hữu ích trên mớ văn khố khô khan và theo đuổi công việc hợp tác giữa đất nước mình với Việt Nam.

   Về khoản này, sử gia người Pháp đặc hưởng một lợi thế ngoại hạng, đó là nhờ những người mà tôi gọi là “người dẫn dắt vượt biên” giữa Pháp và Việt Nam. Do bối cảnh thuộc địa, họ được đào tạo qua hai lớp văn hóa Pháp Việt, và nhờ tài năng, họ thực sự là những nhà văn Pháp, Lê Thành Khôi, cũng như Nguyễn Khắc Viện, cũng như nhà thơ Cù Huy Cận và vài người khác, họ cho chúng ta gần như thẳng mạch tiến vào văn hóa Việt Nam, hay nói đúng hơn, cho chúng ta tiến những bước đầu tiên để lấy sức cần thiết và dài hơi tìm cách thâm nhập. Một nghịch lý đáng nói là sự xâm lược thuộc địa của người Pháp tại Việt Nam đã làm trổi dậy, tuy khá trễ, một thế hệ các nhà trí thức Việt Nam sở đắc hai hoặc ba văn hóa, mang lại cho nước Việt Nam độc lập vốn liếng sở đắc của họ và duy trì mối liên lạc phi vật chất với nước Pháp hậu thuộc địa. Điều này được thể hiện đặc biệt  qua sự có mặt của Việt Nam trong khối cộng đồng Pháp ngữ. Về phía mình, nước Pháp trong thời thuộc địa trước đây đã không biết tìm hiểu sự phong phú tinh thần có thể bật ra từ tiếp xúc ấy. Từ khi hàng rào cai trị thuộc địa sụp đổ, nước Pháp có phần để ý hơn đến sự phong phú đó, nhưng còn quá nhiều việc phải làm, và nay là lúc không còn nữa những điều kiện thuận lợi như thời của những người « dẫn dắt vượt biên » nói trên. Lê Thành Khôi là một trong những người cuối cùng này ; do đó, đặc biệt, tác phẩm của ông đáng quý và đặt cho ta một vấn đề nghiêm trọng : làm thế nào để đừng đứt đoạn mối dây tế nhị giữa hai nền văn hóa chúng ta, huống nữa hai nền văn hóa hiện đang chuyển vận và chỉ có thể sinh tồn trong đổi mới nếu vẫn là quá khứ triển khai trong hiện tại.

Charles FOURNIAU

bản dịch của BỬU Ý

NGUỒN TỪ ĐÔNG SANG TÂY, nhà xuất bản Đà Nẵng, 2005

* Nhà sử học, Trường Cao học về Khoa học xã hội (EHESS), Marseille, Pháp



Thư mục

CADIÈRE et PERREAUX, 1912, Abrégé de l'histoire d'Annam, première partie, jusqu'en 1802, par le P. Cadière ; Imprimerie de Quinhon.

CHESNEAUX, Jean, 1955, Contribution à l'histoire de la nation vietnamienne, Paris, Editions Sociales.

Dương Kinh Quốc, 1988, Chính quyền thuộc địa  trước cách mạng tháng 8-1945.  Hanoi, cité par Tạ Thị Thuý, Les concessions agricoles françaises au Tonkin de 1884 à 1918, à paraître aux Editions "Les Indes Savantes".

LAUNAY, (Père Adrien.), 1884, Histoire ancienne et moderne de l'Annam, Tong King et Cochinchine, Paris, Challamel.

LE GRAND DE LA LIRAYE, s; d. (1875-76), Notes historiques sur la nation vietnamienne.

Lê Thành Khôi, 1955, Le Viet-Nam, histoire et civilisation, Paris, Les Editions de Minuit.

Lê Thành Khôi, 1968, Chant de la femme du combattant, Paris, Gallimard.

Lê Thành Khôi, 1982, Histoire du Viet-Nam, des origines à 1858, Paris, Sudestasie.

Lê Thành Khôi, 1995, Aigrettes sur la rizière, Chants et poèmes du Viêt-Nam, choisis, présentés et traduits du vietnamien, Paris, Gallimard.

Lê Thành Khôi, 2000, Un désir de beauté, Paris, Horizons du monde.

Lê Thành Khôi, 2001, Voyage dans les cultures du Viet Nam, Paris, Horizons du monde.

LEVI, Sylvain, 1931, Indochine, Exposition coloniale internationale de Paris, Commissariat général,
Paris, Société d'Edition géographique, maritime et coloniale, 2 volumes.

MASPÉRO, Georges, 1930, Un empire colonial français, l'Indochine, Paris, Van Oest, 2 volumes.

MASSON, André, 1950, Histoire de l'Indochine, PUF, Que Sais-je, réédité en 1960, sous le titre Histoire du Vietnam, PUF, Que Sais-Je.

MAYBON, Charles, 1919, Lectures sur l'histoire d'Annam, depuis l'avènement des Lê, suivies de notions élémentaires d'Administration.  Hanoi, IDEO.

MAYBON, Charles, 1920, Histoire moderne du pays d'Annam, 1592-1820. Etude sur les premiers rapports des Européens et des Annamites et sur l'établissement de la dynastie des Nguyên, Paris, Plon.

PASQUIER, Pierre, 1907 réédité en 1930, L'Annam d'autrefois. Essai sur la constitution de l'Annam avant l'intervention française.  Paris, Challamel.

SCHREINER, A., 1900, Abrégé d'histoire d'Annam, Saigon.

TABOULET, Georges, 1956, La geste française en Indochine, Histoire par les textes de la France en Indochine, des origines à 1914. Paris, Maisonneuve, 2 volumes.

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
Nguyễn Hồng Anh: Saigon Kiss 24/01/2025 - 25/04/2025 — Arte
Trung Tâm Đổi Mới Sáng Tạo: Webminars 22/02/2025 - 22/03/2025 — via ZOOM
Guimet Exposition: Marc Riboud 05/03/2025 - 12/05/2025 — Musée Guimet - Iéna, 6, place d'Iéna - 75116 Paris
Ici Vietnam Festival: La Place - Paris 29/03/2025 19:30 - 02:00 — La Place - 10 Pass. de la Canopée, 75001 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures - La génération des néologismes sino-vietnamiens dans la circulation culturelle de la sphère sino-graphique sous l’influence de l’Occident au tournant du XXe siècle 03/04/2025 16:30 - 18:00 — via ZOOM
France-Vietnam : un portail entre les cultures - Sujets et séjournants. Une nouvelle histoire des indochinois en France 15/05/2025 16:30 - 18:00 — via ZOOM
Tiếng Tơ Đồng - GALA 25 ans 31/05/2025 15:00 - 19:00 — Théâtre l'Agoreine - 63B Bld du Maréchal Joffre - 92340 Bourg-la-Reine
France-Vietnam : un portail entre les cultures - Transferts du modèle français à la description de la grammaire vietnamienne 05/06/2025 16:30 - 20:00 — BnF site François-Mitterrand | Salle 70 ou via ZOOM
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us