100 năm hội hoạ trừu tượng
100 năm hội hoạ trừu tượng

Magnelli, Explosion lyrique n° 8, 1918
(phong cách trừu tượng trữ tình)
Một trong những bước ngoặt
quan trọng của hội hoạ phương Tây vào những năm đầu của thế kỷ XX, là
sự xuất hiện của những tác phẩm hội hoạ trừu tượng
đầu tiên của : Picabia, Caoutchouc (1909),
Kandinsky, Aquarelle
abstraite (1910) ; Mondrian, Malevitch, Léger, Kupka,
Magnelli
(1911-1920), khẳng định sự tồn tại độc lập của chức năng thẩm
mỹ đối với các chức năng khác của hội hoạ, như :
chức năng thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật cái
đẹp của thiên nhiên và hiện thực
cuộc sống của con người, dưới các góc cạnh lịch sử, xã hội, đạo đức,
tôn giáo, v.v.
Mặt khác, sự ra đời của hội hoạ trừu tượng còn khẳng định bản chất tự do của nghệ thuật, đi đôi với ý thức về vai trò quan trọng của chủ thể sáng tạo là người hoạ sĩ. Nghệ thuật không còn phụ thuộc vào những động cơ chính trị, tôn giáo, hay đạo đức nữa, mà trở thành một hoạt động thuần tuý thẩm mỹ, với những tiêu chuẩn, quy ước, không vượt ra ngoài phạm vi văn hoá.
Cái đẹp trừu tượng

Kandinsky, Première aquarelle abstraite, 1910
Người ta còn nhớ giai thoại kể rằng Kandinsky đã là người đầu tiên phát hiện ra cái đẹp trừu tượng, một lần khi nhìn nghiêng chính một bức tranh tượng hình của mình dựng ở dưới đất, và một lần trên bức tranh « Những đống rơm » của Monet, bị ánh sáng làm cho biến mất hết mọi yếu tố hiện thực, chỉ còn nhìn thấy những mảng màu và ánh sáng . Sự kiện này đã xảy ra vào năm 1885 ở Moskova, tại một cuộc triển lãm tranh của trường phái ấn tượng Pháp.
Thực ra, những tín hiệu
đầu tiên của cái đẹp trừu tượng đã xuất hiện ngay
từ cuối thế kỷ XIX, khi người ta bắt đầu cảm thụ được cái đẹp của sự cách
điệu hoá , của nhịp điệu, như trên các
bức hoạ của : Van Gogh, Les champs de blé aux corbeaux,
hoặc Route aux cyprès et à l’étoile,
1890 ; Cézanne, La Montagne Sainte Victoire,1904,
và Les jardins des Lauves,1906), Munch, Le
Cri, 1893) ; Monet, Les Nymphéas,1910 )
v.v. ; hay cái đẹp xuất thần, tự thân, của những mảng
màu được bố trí một cách khác thường trên các tác phẩm của
Gauguin, Le Cheval blanc, 1898, và Trois
Tahitiennes sur fond jaune, 1899 ; hay của các hoạ
sĩ nhóm dã thú : Sérusier, Le Talisman,
1888 ; Vuillard, Chân dung tự hoạ, 1892,
v.v.
Chắc chắn không phải là một sự tình cờ, mà cái đẹp trừu tượng đã manh nha xuất hiện gần như cùng một lúc trong nhiều phong cách, nhiều trường phái, vào những năm đầu của thế kỷ XX, từ tượng trưng, ấn tượng, biểu hiện, dã thú, vị lai, đến lập thể… nói lên sự khao khát của đa số các hoạ sĩ đương thời muốn thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào đối tượng, vào những lệ luật cũ, và vào thế giới tự nhiên - thế giới của những khái niệm - mà họ thường phải dựa vào để diễn đạt những ý tưởng thẩm mỹ của mình.
Nói tóm lại, hội hoạ trừu tượng muốn dựa vào chính nó để chinh phục cái đẹp và cái gu thẩm mỹ của người đời, vì nó cho rằng cái chức năng chính của nó, là chức năng thẩm mỹ.
Cũng có thể, hiện tượng có nguồn gốc từ cái phản ứng của những người nghệ sĩ đương thời trước những gì đang diễn ra trước mắt họ, trong đời sống thực tế hàng ngày, trước mối đe doạ của cuộc chiến tranh đang sắp xảy ra ?
Từ lập thể đến trừu tượng

Braque, Phong cảnh ở La Roche Guyon, 1908
Có thể nói, giai đoạn lập
thể của Picasso, và nhất là của Braque, vào những năm 1908, là giai
đoạn hội hoạ lập thể đã đi đến gần với hội hoạ trừu tượng nhất.
Trên các bức hoạ lập thể đầu tiên vẽ phong cảnh ở
Estaque và La Roche Guyon (miền nam nước Pháp) của Picasso, Braque, và
Dufy, người ta nhận thấy một sự « cách điệu hoá »
khá triệt để. Các hoạ sĩ hầu như đã gạn lọc đi hết những yếu tố
« tượng hình » - nghĩa là những
yếu tố có thật, mà con mắt ta nhìn thấy - và chỉ giữ lại những nét
chính, đó là cái « nhịp điệu » đặc thù của phong cảnh
ở đây.
Nói một cách khác, người hoạ sĩ xa rời cái đẹp tượng hình của thiên nhiên trước mắt, để chỉ tập trung sáng tạo nên cái đẹp trừu tượng dựa vào một sự cách điệu hoá triệt để, biến toàn bộ cái phong cảnh thật kia thành nhịp điệu trừu tượng.
Nhưng nếu ta cho rằng cái
đẹp trừu tượng bắt nguồn từ sự cách điệu hoá, thì
có lẽ phải đi ngược trở lên đến Greco (thế kỷ XVI), hay xa hơn nữa !
Còn như, nếu ta cho rằng nó bắt nguồn từ cái đẹp của nhịp điệu
hay của ký hiệu, thì lại phải xuất phát ngay từ...
những hiện tượng thiên nhiên, từ cái đẹp của những nhũ đá trong một
thạch động, cho đến cái đẹp của một cây cổ thụ đứng giữa trời, của một
thác nước, hay của những nếp áo...
Lộ trình của hội hoạ trừu tượng

Robert Delaunay, Fenêtres, 1913
Hội hoạ trừu tượng, trải qua nhiều bước thăng trầm kể từ khi ra đời, có thể được phân ra làm ba giai đoạn chính : giai đoạn đầu (1908-1920) với một số hoạ sĩ có thể đếm trên đầu ngón tay : phong cách biểu hiện trừu tượng, có : Kandinsky, Franz Marc ; phong cách lập thể trừu tượng, có : Braque, Fernand Léger, Delaunay, Marcel Duchamp... ; phong cách trừu tượng trữ tình có : Magnelli ; phong cách trừu tượng hình học thuần tuý có : Mondrian, Théo Van Doesburg, Malevitch, Albers... ; phong cách vị lai trừu tượng, có nhóm các hoạ sĩ Ý : Umberto Boccioni, Severini, Balla... ; chuyển từ ấn tượng sang trừu tượng, có nhóm các hoạ sĩ người Nga : Michel Larionov, Natalia Gontcharova, v.v.

Larionov, Lumières de rue, 1911

Jackson Pollock, Bức hoạ số 3, 1949
Luật chơi và những thoả hiệp
Trong hội hoạ tượng hình, từ xưa đến nay, cái tiêu chuẩn đầu tiên dựa trên đó người ta vẫn đánh giá cái đẹp, hay cái đạt của một tác phẩm, là tính chất " hiện thực " của nó, hoặc chỉ đơn giản là sự « giống như thật » của đối tượng được vẽ trên tranh. Xét cho cùng, ngôn ngữ của hội hoạ tượng hình không phải là ngôn ngữ tạo hình (theo nghĩa tưởng tượng ra mà sáng tạo), mà là một ngôn ngữ thể hiện, chủ yếu là sao chép đối tượng, hoặc cách điệu hoá nó, nhưng dẫu sao cũng sử dụng các yếu tố có tên gọi, có ngữ nghĩa, để diễn đạt.
Hội hoạ, trong nhiều thời đại, đã từng có những chức năng như : giao tiếp, thông tin, thậm chí tuyên truyền, hoặc giáo dục. Khi người ta đánh giá một bức hoạ với đề tài tôn giáo, hay lịch sử, người ta thường xét xem nó có tính thuyết phục hay không : cách thể hiện có thật, có khéo, có sinh động hay không. Cũng như, khi đánh giá một bức chân dung, hay một bức tĩnh vật, người ta thường đánh giá trước tiên trên sự « giống như thật » của nó, v.v.
Trong hội hoạ trừu
tượng, không còn cái tiêu chuẩn hiện thực
đó nữa. Ngược lại, ở đây, tiêu chuẩn quan trọng nhất chỉ có thể là cái
đẹp thẩm mỹ, nhưng cái đẹp thẩm mỹ thì lại rất khó thẩm định,
bởi nó dựa trên rất nhiều tiêu chuẩn và quy ước đôi khi chồng chéo lên
nhau, và nhất là vì nó tuỳ thuộc ở trình độ hiểu biết về thẩm
mỹ, ở cái gu của mỗi người.
Cũng vì những lẽ ấy, mà trong hội hoạ trừu tượng, luật chơi
tưởng như đơn giản, vì nó khá tự do, chỉ cần đáp
ứng hai điều kiện : trừu tượng và đẹp,
nhưng thực ra điều kiện đẹp trong hội hoạ trừu
tượng lại khá phức tạp, vì những tiêu chuẩn, quy ước để thẩm định cái
đẹp trừu tượng rất khó xác định. Do đó, tính chất chủ
quan của sự thẩm định lại càng cao hơn, so với hội hoạ tượng
hình !
Nhưng có lẽ chính đó lại là cái điều mà người hoạ sĩ mong muốn chăng ? Hoặc giả, bối cảnh chung của xã hội đã đưa đẩy họ đến cái tâm thức ấy ? Có phải vì con người thời nay khao khát những cái gì mà họ không có được trong cuộc sống bon chen hàng ngày, trong một xã hội mà luật chơi ngày càng gò bó, khắc nghiệt, hoặc vượt khỏi tầm kiểm soát của họ ? Hay chỉ đơn giản vì họ ngày càng ý thức được vai trò của cái tôi, tức của chủ thể trong nghệ thuật, cũng như họ đã ý thức được sự cần thiết phải có một không gian tự do cho nghệ thuật và nói chung cho mỗi cá nhân trong cuộc sống ?
Luật chơi trong hội hoạ trừu tượng là tuyệt đối không thể hiện những hình tượng gợi nhắc đến những khái niệm đã có tên gọi, ví dụ như : cái bàn, đám mây, mặt trăng, v.v., nói chung, những sự vật có thật trong thiên nhiên và trong cuộc sống của con người. Tuy nhiên, trong phong cách trừu tượng hình học, chẳng hạn, người ta vẫn chấp nhận một cách thoải mái những khái niệm có tên gọi, như : đường thẳng, đường cong, hình chữ nhật, hình tam giác, hình tròn, v.v. Hiện tượng này rõ ràng nói lên một sự mâu thuẫn. Song chắc hẳn người ta cũng đã phải chấp nhận một thoả hiệp nào đó trên định nghĩa của khái niệm trừu tượng ? Có lẽ nên hiểu trừu tượng là không bao gồm những hình tượng phản ánh thế giới tự nhiên và con người ? Nhưng các hình thể hình học đều là do óc sáng tạo của con người mà ra cả. Phải chăng hình học đã được coi như là một ngoại lệ ?

Mondrian, Bố cục với 4 màu xanh, đỏ, đen, vàng (1921)
Dẫu sao, mâu thuẫn trong nghệ thuật cũng
không phải là một chuyện gì to tát, đôi khi người ta vẫn phải chấp nhận
nó như một sự thoả hiệp,
cũng như người ta đã phải chấp nhận khái niệm tuyệt đối với một
cái nghĩa rất tương đối,
để có được một sự đồng
thuận, hoặc để phục vụ cho một lợi ích xã hội
thiết thực nào đó. Một ví dụ là, có thể nói, chỉ riêng phong cách trừu
tượng hình học của những Mondrian, Théo
Van Doesburg, Malévitch, Ben Nicholson, Herbin, v.v. cho đến tận ngày
nay vẫn có một ảnh hưởng quyết định lên thẩm mỹ hiện đại, đặc biệt là
lên nghệ thuật design áp dụng vào trong công nghiệp, thương nghiệp, và
nói chung, trong đời sống hàng ngày.
Nhìn chung, không thể nào có một khái niệm trừu tượng tuyệt
đối được. Một nét cọ, một mảng màu, đã là một khái niệm rồi,
và gần như là bao giờ cũng gợi nhắc đến một cái gì cụ thể trong thế
giới ta đang sống. Do đó, có những hoạ sĩ, vì lý do thuần tuý thẩm mỹ,
đã không nề hà, kết hợp thoải mái những yếu tố tượng hình với những yếu
tố trừu tượng trên cùng một bức hoạ. Chỉ cần đi xem một cuộc triển lãm
về hội hoạ trừu tượng gần đây nhất, như triển lãm Réalités Nouvelles
2008 ở Parc Floral, Paris, là ta thấy rõ điều đó. Và đây cũng là một
thoả hiệp khác đối với luật chơi đã được đặt ra.
Hội hoạ trừu tượng trước sau cũng chỉ là một hoạt
động tinh thần của con người, một hoạt động văn hoá,
và nó cũng chỉ đáp ứng một nhu cầu duy nhất, nhu cầu thẩm mỹ
thuần tuý, một nhu cầu bản năng của con người.
Cái
đẹp cụ thể
Ý niệm về cái đẹp trong đầu óc của mỗi người chúng ta, là một cái gì rất chủ quan, và rất mơ hồ, lại không thể nào truyền đạt từ người này sang người khác được, bởi vì đó chỉ là một ý niệm ảo, đôi khi chưa định hình rõ rệt, cho nên chính mắt ta còn không trông thấy được, huống chi là mắt người khác !
Bởi vậy cho nên cái đẹp chỉ có thể tồn tại ở ngoài ta, thông qua những sự vật cụ thể, mà con mắt của ta và con mắt của người khác đều cùng nhìn thấy được, để nếu có một sự đồng cảm nào đó, thì giữa ta và họ mới có thể đi đến một sự đồng thuận trên cái đẹp đó.
Cũng bởi vậy cho nên trong nghệ thuật, ta chỉ có thể đánh giá được cái
đẹp qua các tác phẩm cụ
thể, mà mắt ta nhìn thấy được. Do đó, đối với người sáng tạo
cũng như đối với người thưởng thức, cần có những cuộc triển lãm công
cộng, những phòng tranh, những viện bảo tàng, và ở thời đại ngày nay,
cần có những tài liệu điện ảnh, những cuộc thảo luận công khai về nghệ
thuật, thông qua những phương tiện truyền thông hiện đại.
Quả vậy, làm sao một hoạ sĩ, với sự đánh giá tất nhiên chủ
quan của mình, mà có thể biết được rằng tác phẩm của mình
đẹp, hay xấu, nếu không có con mắt thẩm định của người khác ?
Nhưng ngay cả với con mắt và ý kiến của người khác, cùng lắm thì người
ta cũng chỉ đi đến được một sự đồng thuận nào đó mà
thôi, không thể nào có được một sự đánh giá có tính chất tuyệt
đối, vì ý kiến của người khác về cái đẹp hay cái xấu
của tác phẩm cũng chỉ là chủ quan, vì nó
tuỳ thuộc vào cái gu của mỗi người, mà cơ sở của cái
gu thì cũng chỉ có một phần được coi là khách quan,
đó là những hiểu biết về nghệ thuật, đặc
biệt là về lịch sử nghệ thuật, về các tiêu chuẩn quy ước, các kỹ thuật
thực hiện một bức tranh, các quy luật vật lý thông thường về các vật
liệu, chất liệu, về màu sắc và ánh sáng,v.v. Chính trên những hiểu
biết có tính chất khách quan này, mà ít
ra người ta cũng có thể có được sự đồng thuận trên
một số khía cạnh của tác phẩm. Còn cái gu thì vô
cùng, nhất là khi nói đến màu sắc, người này thích màu này, người kia
nhạy cảm với màu kia, khó có thể tranh cãi trên một cơ sở nào
được cả, vì nó tuỳ
thuộc vào sở
thích và vào những yếu tố sinh lý, văn hoá, giáo dục, đặc thù
của mỗi con gnười.
Do đó, hội hoạ trừu tượng,
mặc dầu đã giải thoát người hoạ sĩ
khỏi quỹ đạo của các đối tượng có thực trong thế
giới tự nhiên, nhưng vẫn đặt y đứng trước những luật chơi mới,
những thử thách mới, và cuộc săn tìm cái đẹp trong một nền hội
hoạ không có đối tượng nào khác ngoài cái đẹp trừu tượng này, dù cho có
gian khổ đến đâu,
cũng cho phép y thể hiện được cho tới cùng cái tiềm
năng
sáng tạo và cái bản sắc của mình.
Văn Ngọc
Các thao tác trên Tài liệu