100 năm trường Bưởi - Chu Văn An
Vào dịp
100 năm
trường
trung học Bưởi - Chu Văn An
Bùi Trọng Liễu
Vào dịp 100 năm trường trung học Bưởi - Chu Văn An, tôi cũng muốn được góp một lời chứng về trường này tuy tôi chỉ là học sinh cũ của trường Chu Văn An ở Hà Nội non ba tháng, vào mùa thu năm 1946, trước khi trường đóng cửa tản cư, vì Toàn quốc kháng chiến. Việc này tôi sẽ kể dưới đây. Nhưng trước hết, xin tóm tắt đôi lời về gốc gác của trường này. Tôi ghi trong chú thích (1) một số mốc thời gian, vì có liên quan đến sự thăng trầm của trường Bưởi - Chu Văn An.
Khởi thuỷ,
dưới thời thuộc Pháp bảo hộ,
ngày 9/12/1908, viên Toàn quyền Đông
Dương A. Klobukowski ký nghị định
thành lập “trường Thành Chung
Bảo hộ” – tên Pháp là
“Collège du Protectorat”
– đặt
tại Hà Nội, từ sự hợp nhất
của trường Thông ngôn Hà Nội,
trường Sư phạm Hà Nội, và
trường Jules Ferry ở Nam Định. Theo văn
bản này, trường gồm 2 cấp : một cấp tiểu học 4 năm, và
một cấp
cao hơn – tiếng Pháp trong văn bản
gọi bằng một tên khá mơ hồ
là “Grand Collège”,
tiếng Việt
Nam (không có trong văn bản chính
thức) gọi là “Thành chung” (?)
– cấp này 5 năm, gồm 3 năm học
chung, và 2 năm cuối được chia
thành 4 ban : sư phạm, hành chính,
kỹ thuật, thương mại, tùy theo
hướng nghề nghiệp của học sinh. Vì
trụ sở của trường được
xây dựng ở vùng Kẻ Bưởi,
ven hồ Tây, nên được quen gọi
là trường
Bưởi. Đến năm
1917 (?) , khoá học Thành chung rút lại
còn 4 năm (2).
Có lẽ vào khoảng năm 1924 (?), bãi
bỏ cấp Tiểu học trong trường, và
mở lớp cao hơn Thành chung (thêm 3 năm
?) để thi bằng Tú tài bản xứ
(tương đương với tú tài
Pháp) , và từ đó được
gọi là “Lycée du
Protectorat” (trường
Trung học Bảo hộ).
Năm 1943, Chiến
tranh thế giới thứ hai lan rộng, do quân
Nhật đang chiếm đóng Đông
Dương, máy bay Đồng Minh (thực chất
là Mỹ) ném bom Hà Nội và một
số thành phố. Các trường học
sơ tán ; các lớp cấp Thành
chung của trường dọn về Phúc Nhạc
(ở Ninh Bình), và các lớp cấp
Tú tài dọn vào Thanh Hoá, và
một bộ phận nhỏ vào Hà Đông.
Sau cuộc đảo
chính 9/3/1945 (quân đội Nhật lật
chính quyền Pháp ở Đông Dương,
và sau khi thành lập chính phủ Trần
Trọng Kim), ngày 12/6/1945, Khâm sai Bắc bộ
Phan Kế Toại ra quyết định đổi
trên trường Trung học Bảo hộ thành
“Quốc lập trung học hiệu Chu Văn
An”, hoàn toàn dạy theo chương
trình và chuyên ngữ tiếng Việt.
Tên trường Chu Văn An bắt đầu
từ đó. Ngôn ngữ thời ấy :
“quốc lập” đây nghĩa là
trường công lập ; “trung học hiệu”
nghĩa là trường trung học.
Sau
Cách mạng tháng 8/1945, trường mang
tên Trường trung học Chu Văn An. Giữa
tháng 9/1945, bộ trưởng Quốc gia Giáo
dục Vũ Đình Hoè ký nghị
định cho phép trường Chu Văn An
hoạt động trở lại ; các bộ
phận tản cư vào Ninh Bình và
Thanh Hoá, cùng với bộ phận ở
Hà Đông hợp lại, cơ sở ở
Hà Đông, và cử ông Nguyễn
Gia Tường làm quyền hiệu trưởng
thay ông Hoàng Cơ Nghị (ông Nghị
là hiệu trưởng từ thời Chính
phủ Trần Trọng Kim). Nhưng mãi đầu
năm 1946, trường mới chuyển về Hà
Nội, và tạm đóng ở Việt
Nam học xá (Đông Dương học xá
cũ, nay là khu Bách Khoa ở Hà Nội).
Và vào mùa thu năm 1946, trường
dọn về trụ sở của trường nữ
trung học Félix Faure cũ ở Hà Nội.
Lúc đó, trường được tổ chức gồm 2 cấp học :
1/ Cấp “Trung học phổ thông” 4 năm cho học sinh đã có bằng Tiểu học (“Trung học phổ thông” là tên gọi thời đó, các lớp này từ thấp lên cao gọi là : đệ nhất phổ thông, đệ nhị phổ thông, đệ tam phổ thông và đệ tứ phổ thông, tương đương với lớp 6, 7, 8, 9 ngày nay ; bằng tốt nghiệp cấp học này mang tên là “bằng Trung học phổ thông”, na ná như bằng Thành chung thuở trước).
2/ Cấp “Trung học chuyên khoa” 3 năm cho học sinh đã có bằng “Trung học phổ thông” (“Trung học chuyên khoa” là tên gọi thời đó, các lớp này từ thấp lên cao gọi là : đệ nhất chuyên khoa, đệ nhị chuyên khoa, và đệ tam chuyên khoa, tương đương với lớp 10, 11, 12 ngày nay; bằng tốt nghiệp cấp học này mang tên là “bằng Trung học chuyên khoa”, cũng như bằng Tú tài trước đó).
Học sinh muốn
vào học, tuỳ theo cấp học, phải
thi tuyển vào đệ nhất phổ thông,
hay đệ nhất chuyên khoa, (thi viết theo
kiểu ra đầu bài, học sinh giải
bằng bài viết; chấm điểm theo cao
thấp, vì số chỗ học sinh giới
hạn, ai được xếp cao trên số
chỗ, thì đỗ). Thí sinh không
trúng tuyển, thì học trường tư
hay tự lo liệu cách nào đó.
Chính vào
thời điểm này, mà tôi vào
học trường Chu Văn An, trong một tình
huống khá đặc biệt. Vốn là
cuối năm học 1946 ở Hà Nội, tôi
thi đỗ bằng Tiểu học của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Giữa
lúc sửa soạn học hè để
tháng 9 thi tuyển vào lớp đệ
nhất Trung học phổ thông, chợt một
cậu bạn đến rủ : có tin trường
Chu Văn An mở một loại lớp thí
điểm mới, gọi là “ Tuyển
trạch hướng dẫn” , tuyển học
sinh theo hồ sơ/học bạ, và với
hai điều kiện là : đỗ bằng
Tiểu học có “hạng” (mention) và
chịu trong hai (?) tháng hè mỗi ngày
một buổi có mặt tại giảng đường
trường Đại học Hà Nội để
làm “cử toạ” (đúng hơn
là làm một thứ “vật thí
điểm”) cho lớp các thày cô
giáo viên toàn quốc được
gọi về học sư phạm đặc biệt
ở trường Đại học – lúc
đó trụ sở đóng ở đường
Lê Thánh Tông ngày nay. Lại được
“tuyên truyền” là đây là
lớp chuyên tuyển, cách học và
cách dạy sẽ theo kiểu mới. Tôi
nghĩ bụng : đằng nào cũng phải
học hè, mà đi thi tuyển làm bài
thi vào lớp phổ thông “thường”,
chắc quái gì đã làm hay hơn
người khác; kinh nghiệm bản thân
lại cho thấy là mấy anh chị em họ
và bạn bè trạc cùng lứa tuổi,
người nào cũng học giỏi cả; họ học bài còn thuộc nhanh hơn
mình, cạnh tranh làm chi cho mệt. Mình
lại ưa cái mới. Vì vậy, nên
tôi xin phép bố mẹ, rồi nộp đơn
ghi tên vào loại lớp “Tuyển
trạch hướng dẫn” này.
Thế là
mùa hè năm đó, tôi cùng
một số bạn, lê la trong giảng đường
trường đại học nghe các thày
cô tập giảng dạy dưới sự chỉ
dẫn của ông Dương Quảng Hàm
(3).
Chả phải chú ý gì, nhưng có
những bài văn bị giảng đi giảng
lại nhiều lần cũng lọt vào tai
đến ngán...(4).
Rồi hết
hè thì vào học. Học sinh “Tuyển
trạch hướng dẫn”, (tương đương
với đệ nhất phổ thông “thường”),
chia làm bốn lớp “Xuân, Hạ, Thu,
Đông” trung bình theo tuổi, trẻ
nhất là Xuân. Tôi ở lớp Hạ.
Bốn lớp học ở một khu riêng, gần
“nhà chơi lớn” (préau), không
học chung với học sinh phổ thông
“thường”. Trên nguyên tắc,
dạy theo kiểu “mới”, với những
hứa hẹn như về môn sử, sẽ
được dẫn đi thăm Cổ Loa,..., về
phương pháp giảng dạy sẽ tạo
điều kiện phát huy “khiếu nhận
xét” của học sinh, sinh ngữ như
tiếng Anh thì vừa học viết vừa
học nghe (tất nhiên thuở ấy chỉ
có một cái “máy hát”
phonographe thỉnh thoảng quay đĩa cho học
sinh cả lớp cùng nghe; nhưng đó
cũng là lần đầu tiên mà tôi
được nghe tiếng Anh phát âm bởi
người Anh; và được biết là
tùy theo đĩa quay chậm hay nhanh mà
tiếng phát ra trầm hay bổng), vv. Nhưng
tình hình Việt-Pháp đang căng
thẳng ; giả thử có muốn thực hiện
phương pháp giảng dạy mới, cũng
chẳng có thì giờ và phương
tiện (5).
(Khi ấy, quân Tàu Tưởng, đã
rút hết khỏi Việt Nam, chỉ còn
quân Pháp đang tìm cách lấn
ta). Học chưa đầy 3 tháng, thì
đầu tháng 12 trường đóng cửa
(đêm 19/12/1946, Kháng chiến toàn quốc
bùng nổ). Trước đó vài
ngày, tôi theo gia đình tản cư về
quê nội ở Ninh Bình. Tôi theo học
trường Trung học Nguyễn Khuyến ở
Yên Mô. Đến năm 1950, tôi trở
lại Hà Nội hơn một tháng rồi
đi Pháp. Tôi không còn có dịp
tiếp xúc với trường Chu Văn An
nữa.
Sau này, đọc
tài liệu, và nghe kể, tôi mới
biết là :
Tại vùng
kháng chiến, ngày 29-5-1947, Bộ trưởng
Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn
Huyên ký nghị định số 143/NĐ
mở tại vùng Việt Bắc một trường
trung học lấy tên Trường trung học
Việt Bắc. Đây chính là ngôi
trường mà nhiều người gọi là
“trường Chu Văn An kháng chiến”,
còn gọi là trường trung học Đào
Giã (Phú Thọ); sau vài năm nghe đâu
chuyển sang khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc)
một thời gian.
Ở Hà
Nội khi đó, trong vùng quân đội
Pháp tạm chiếm, một trường trung
học Chu Văn An được mở lại,
nhưng không ở địa điểm trường
Bưởi cũ, vì Pháp lấy nơi này
làm trại lính. Năm 1954, sau Hiệp định
Genève, một bộ phận trường này
chuyển vào Sài Gòn, vẫn mang tên
là trường Chu Văn An, và tồn tại
đến 1975 (6).
Ở Hà
Nội, sau ngày giải phóng Thủ đô,
trường Chu Văn An mở lại ở Hà
Nội, nhưng tới đầu năm học
1956, trường Chu Văn An ở Hà Nội
mới trở về địa điểm trường
Bưởi cũ, cho đến ngày nay (7).
Như vậy, tôi chỉ là học sinh trường Chu Văn An có non 3 tháng, cũng vào khoảng mùa thu cách đây đã 62 năm. Lớp “ Tuyển trạch hướng dẫn” hình như hoàn toàn chìm vào lãng quên của mọi người (trừ tôi ?), và trường Chu Văn An đối với tôi chỉ còn là một kỷ niệm ngắn ngủi và xa xăm (8). Tuy nay định cư ở nơi xa, tôi vẫn mong mỏi trường Chu Văn An giữ được truyền thống một trường công lập tổ chức giảng dạy và học hành nghiêm túc, như lịch sử của trường đã cho thấy mặc dù những thăng trầm, những khó khăn, những giới hạn, trong 100 năm trải qua. Hơn thế nữa tôi mong rằng với những phương tiện ngày nay, trường phát triển trong hướng tốt đẹp, góp phần vào việc chấn hưng giáo dục trong thời đại mới.
Tháng 8/2008
Bùi Trọng Liễu
Nguyên giáo sư đại học (Paris, Pháp)
(1) Vài mốc thời gian lịch sử, ảnh hưởng tới trường Bưởi-Chu Văn An:
-1883 va` 1884, triều đình Huế ký hiệp ước nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, và nhường Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa. Đông Dương thuộc Pháp dần dần được tổ chức dưới hình thức 4 xứ bảo hộ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Cao Mên, Lào) và một xứ thuộc địa (Nam kỳ), dưới quyền một viên Toàn quyền.
-1939. Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu ở Âu châu.
-1940. Pháp thua, xin đình chiến với Đức. Chính quyền Pháp ở Đông Dương thuộc chính phủ Pháp của thống chế Pétain theo Đức.
-1941. Nhật thình lình tấn công Pearl Harbour. Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai ở Thái Bình Dương. Nhật đem quân vào Đông Dương, ép Pháp một số điều kiện, nhưng vẫn giữ bộ máy cai trị của Pháp.
-1943. Máy bay Đồng Minh (Mỹ) ném bom Hà Nội và một số thành phố. Một số trường học sơ tán.
-9/3/1945. Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương
-10/3/1945. Nhật tuyên bố giúp Việt Nam thực hiện độc lập (kỳ thật Nhật vẫn nắm thực quyền, và chỉ nhả những gì họ muốn nhả).
-11/3/1945. Triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ hiệp ước 1884 (hiệp ước nhận nền bảo hộ của Pháp) và khôi phục chủ quyền Việt Nam.
-17/4/1945. Thành lập chính phủ Trần Trọng Kim, bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật là ông Hoàng Xuân Hãn. Tổng đốc Phan Kế Toại được cử làm Khâm sai Bắc Bộ.
-14/8/1945: Nhật đầu hàng Đồng Minh. Theo quyết định của Hội nghị Potsdam của tam cuờng (Mỹ, Anh, Liên Xô), thì (ở Việt Nam) nửa trên vĩ tuyến 16 sẽ do quân Trung Quốc (lúc đó còn dưới chế độ của Tưởng Giới Thạch; gọi tắt là Tàu Tưởng) kéo sang, và nửa dưới vĩ tuyến 16 sẽ do quân Anh kéo vào, trên nguyên tắc là để giải giáp quân Nhật.
-19/8/1945, Cách mạng Tháng tám: Mặt trận Việt Minh giành chính quyền.
-23/8/1945. Chính phủ lâm thời được thành lập. Cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch; ông Vũ Đình Hoè làm bộ trưởng Quốc gia Giáo dục.
-30/8/1945. Vua Bảo Đại thoái vị, và trở thành Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
-2/9/1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.
-Đầu tháng 9/1945 quân Tàu Tưởng bắt đầu tới Hà Nội.
-28/2/1946: Pháp và Tàu Tưởng ký một hiệp ước (một thứ thoả thuận « trên lưng » Việt Nam): Tàu Tưởng nhận để cho quân đội Pháp kéo vào trên vĩ tuyến 16, để thay thế quân Tàu Tưởng đang đóng trên đó.
-2/3/1946: Thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến ở Hà Nội. Chủ tịch: Hồ Chí Minh, bộ trưởng Quốc gia Giáo dục là ông Đặng Thai Mai.
-6/3/1946: Quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng. Cùng ngày ấy, ký Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp.
- Từ tháng 5 cho đến tháng 9, các cuộc đàm phán Việt-Pháp, (hội nghị Đà Lạt chấm dứt vào tháng 5, và hội nghị Fontainebleau chấm dứt vào tháng 9) đều thất bại, vì Pháp muốn chi phối tất cả, và không muốn nhả cho Việt Nam ngay cả những điều tối thiểu.
-Cuối tháng 6/1946, quân Tàu Tưởng rút hết khỏi Việt Nam.
-19/12/1946: Khoảng 20 giờ, nổ súng ở Hà Nội. Toàn quốc Kháng chiến bắt đầu...
-8/5/1954: Chiến thắng Điện Biên phủ.
-21/7/1954: Hội nghị Genève chấm dứt. Trên thực tế, Việt Nam bị chia cắt làm 2 (theo vĩ tuyến 17).
-15/10/1954, Hồ chủ tịch và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở về thủ đô Hà Nội.
-30/4/1975: Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
(2) Trong bản nghị định tiếng Pháp, điều 3, có ghi là “chương trình học [của cấp Thành chung] sẽ được ấn định sau” (le programme sera ultérieurement fixé). Sau, có nguồn lại cho rằng, mặc dù quyết định ghi trong văn bản 9/12/1908, chương trình cấp học “cao” kia, trên thực tế khi thực hiện, gồm 4 năm, thi lấy bằng “Cao đẳng tiểu học” (hình như tên Pháp là “ Diplôme d’Etudes Primaires Supérieures”, thuở ấy người mình gọi tắt là “Đíp-lôm”, đại khái như Brevet élémentaire của Pháp, ngày nay gọi là Brevet des Collèges), và sang năm thứ 5 (?), mới chia thành 4 ban “nhiệm ý” : sư phạm, hành chính, kỹ thuật, thương mại. Hình như năm thứ 5 này, sau đó cũng bỏ, khi Pháp mở trường Cao đẳng ở Hà Nội (có lẽ là vào năm 1917 ?) để tuyển học sinh đã có bằng Thành Chung vào học 3 năm trong các ngành chuyên môn. Sau này, Pháp mới chuyển Cao đẳng thành Đại học (Université de Hanoi), lấy sinh viên có bằng tú tài Pháp vào học. (Tôi không có thì giờ tìm mọi tài liệu, nên viết có thể không chính xác về mọi thời điểm). Hiệu trưởng đầu tiên của trường Bưởi năm 1908, và trong 10 năm, là ông Paul Mus.
Một chi tiết vụn vặt bên lề : Bản nghị định tiếng Pháp mở đầu bằng câu “Le Gouverneur Général de l’Indo-Chine, Officier de la Légion d’Honneur ...”, có tài liệu Việt Nam ngày nay dịch là “Toàn quyền Đông Dương, Huân chương hạng nhất Bắc Đẩu Bội Tinh ...” là dịch sai. Đáng lẽ phải dịch là “Huân chương hạng tư Bắc Đẩu Bội Tinh” mới đúng, vì Légion d’Honneur của Pháp thành lập từ năm 1802 do đề nghị của tướng cộng hòa Bonaparte (Hoàng đế Napoléon I sau này), có 5 hạng, từ thấp lên cao là (3 ordres) Chevalier, Officier, Commandeur, và (2 dignités) Grand Officier, Grand Croix. (Không kể “Grand Maître” là Tổng thống Pháp trong nhiệm kỳ, là người chủ quản; và “Grand Chancelier” giúp “Grand Maître” trong việc “quản lý” huân chương này).
(3) Hình như lúc đó, ông Dương Quảng Hàm chưa là hiệu trưởng Chu Văn An, bởi vì theo Hanoinews, có nghị định của bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Đặng Thai Mai ký ngày 3-8-1946 bổ nhiệm ông Dương Quảng Hàm giữ chức quyền hiệu trưởng.
(4) Sau này, năm 1970, được mời về nước làm việc thí điểm cho việc Việt kiều về nước làm việc ngắn hạn, tôi có làm mấy buổi thuyết trình xê-mi-na tại giảng đường này ; khung cảnh lúc ấy vẫn còn như xưa. Buổi đầu trở lại nơi này, tôi không tránh được bùi ngùi nhớ lại kỷ niệm hai mươi bốn năm trước đó. Tôi có kể chi tiết trong chương 4 của cuốn sách của tôi : “Tự sự của người xa quê hương”, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004, và cũng có trên trang mạng của tôi buitronglieu.
(5) Cũng trong chương 4 của cuốn “Tự sự” nói trên, tôi có kể lại vài chi tiết, kèm theo lời bình của tôi, về cách giảng dạy ở lớp “Tuyển trạch hướng dẫn” thời đó, và liên tưởng đến phương pháp giáo dục ngày nay.
(6) Trong vùng Pháp tạm chiếm, cách gọi các lớp thay đổi ngược lại, thí dụ như từ thấp lên cao thì gọi là đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ, đệ tam , vv. như kiểu Pháp gọi các lớp 6ème, 5ème, 4ème, 3ème , vv.
(7) Ngày nay, tên gọi “ Trung học phổ thông” được “nâng cấp”, bao gồm các lớp 10, 11, 12, trong khi “Trung học phổ thông” thời trước tương đương với “Trung học cơ sở” bây giờ bao gồm các lớp 6, 7, 8, 9.
(8) Nhân dịp kỷ niệm 100 năm trường Bưởi-Chu Văn An, vào mùa Xuân năm 2008 này, tôi có được rủ viết bài tham gia cuốn “Kỷ yếu 100 trường Bưởi-Chu Văn An”, nxb Giáo dục 2008. Vì lý do nào đó, Ban biên tập đã không đăng bài đó của tôi (bài viết về mấy tháng học lớp “Tuyển trạch hướng dẫn” của tôi như một lời chứng của một học sinh cũ). Lẽ ra không đăng cũng chẳng sao ; nhưng mấy vị đã thay vào đó bằng một bài đầu đề là “Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc : nhà tình báo xuất sắc, nhà khoa học uyên thâm”, và ghi tên tôi là tác giả. Bài này không do tôi viết ; nửa sau của bài lại có một đoạn viết là tôi dẫn nguồn từ tên một nhà chuyên môn về công nghệ thông tin (mà thực ra tôi chưa từng biết) viết về anh Nguyễn Đình Ngọc. Nói cho kỹ hơn, quả là tôi có viết bài “Cố nhân” về anh Nguyễn Đình Ngọc, in trong chương 6 của cuốn sách của tôi “Học một sàng khôn”, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, (cũng có trên trang mạng của tôi : buitronglieu, nhưng bài “Cố nhân” không liên quan gì đến cái bài gán cho tôi và đăng trong cuốn Kỷ yếu kể trên. Có thể có một khuynh hướng trọng sự tôn vinh danh nhân ít nhiều liên quan đến trường Chu Văn An, hơn là những lời chứng về cách tổ chức và những sự kiện về trường này ? Sự chính xác là một điểm son khó đạt.
Các thao tác trên Tài liệu