ASEAN cộng 3
ASEAN cộng 3
Trần Bình
Tháng Tư vừa qua, chúng
tôi tham gia buổi
phỏng
vấn trên Chương trình Việt ngữ Pháp
quốc (RFI) do
biên tập viên Thanh Hà thực hiện,
nhân dịp hội
nghị thường niên của ASEAN họp tại
Hà Nội ngày 8/4/2010 và quỹ
hỗ
trợ tài chánh ASEAN+3 chính thức đi vào
hoạt động
ngày 24/3/2010. Bài viết
này tường thuật và triển khai
nội dung của cuộc phỏng vấn, cập nhật
các dữ liệu
và phân tích hầu
có thể
giúp
chúng ta theo dõi diễn
tiến quan trọng, liên
quan đến tình hình đất nước.
Từ một hiệp hội khiêm tốn,
hoạt động rời rạc
được thành lập năm
1967, ngày nay, ASEAN trở
thành một
liên hiệp có năng lực kinh
tế đáng kể
trên thế giới. Với GDP gộp lại 1500 tỷ
USD năm 2008, "Nếu
xem
ASEAN
là một quốc gia, thì nước này
có khối lượng
mậu dịch lớn thứ 5 trên thế giới, sau Hoa Kỳ, Đức, Trung
quốc,
và Nhật Bản" (1).
Tiến trình phát
triển của ASEAN lồng
trong bối cảnh
của một
Châu
Á ngày một lớn mạnh và hội nhập. Một
thập
niên trước đây, sự
hình thành một liên hiệp kinh
tế Châu Á là một câu
chuyện viển
vông. Song, ngày nay, đây là đề
tài
thảo luận quen thuộc. Các
nhà nghiên cứu nói đến
sự hình thành khối kinh tế Châu
Á như là một tiềm năng, một hiện thực
khả thi. Từ năm 1993, ba cường quốc kinh tế Nhật, Trung Quốc,
và Hàn Quốc được ASEAN mời tham dự hội
nghị hàng
năm với tư cách dự thính. Sự hình
thành của quỹ hỗ
trợ với kinh phí 120 tỷ USD tháng Ba vừa
qua đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong mối quan hệ giữa ASEAN và ba cường quốc
kinh
tế Châu Á trên tiến
trình
hội nhập của các nền
kinh tế khu vực.
Mặt khác, những dị biệt
lớn lao giữa
các hội viện của ASEAN+3, từ
trình độ phát triển, đến thể chế chính
trị, các tranh chấp gây
không
ít ngờ vực về khả năng và mức độ hội
nhập của các nền kinh tế Châu Á.
Từ một góc nhìn
khác, sự
nổi lên
của nền kinh
tế Trung Quốc đảo lộn thế quân bình truyền thống
cán cân mậu dịch của khu vực; ảnh hưởng chi phối của nước
Nhật đang bị
xói mòn, dẫn đến sự cạnh tranh quyền lực kinh tế
và chính trị tại khu vực ASEAN
và Châu Á giữa hai đại cường này.
Sự lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc và sự gia tăng mối quan hệ kinh tế giữa nước này với ASEAN có thể giúp các quốc gia ASEAN cân đối cán cân ngoại thương và đầu tư đang bị giảm dần từ các các đối tác truyền thống Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Song, điều này cũng là mối quan ngại và thách thức đối với ASEAN trong chiến lược cân bằng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị với các cường quốc, đặc biết với khả năng chi phối của Trung Quốc.
1. Tiến Trình Hội Nhập
ASEAN (Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam
Á) được
thành lập tháng 8/1967 với 5 hội
viên không
cộng sản Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines cho
thấy bên cạnh mục tiêu chính
là
hợp tác
phát triển, còn là "nỗi lo sợ chủ nghĩa cộng
sản" trong thời kỳ chiến tranh lạnh (2).
Khi chiến
tranh lạnh chấm
dứt, các nước cộng sản lần lượt gia nhập ASEAN: Việt Nam
(1995), Lào (1997) và Campuchia (1999). Miến
Điện
(Myanmar), Brunei là hai hội viên
khác của ASEAN.
Sau những bước đầu khó khăn, Hiệp ước Tự do Mậu dịch ASEAN (AFTA) do Thái Lan chủ xướng, ký kết năm 1991 đánh dấu bước tiến quan trọng trên tiến trình hợp tác phát triển của hiệp hội. Hiệp ước thương mại này mở đầu quá trình xóa bỏ dần quan thuế giữa các thành viên, tiến đến một khu vực tự do mậu dịch.
Trên bình diện
khác, kế
hoạch mở rộng hợp tác giữa ASEAN và tam
cường, Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc, gọi tắt
là ASEAN+3, được Malaysia khởi xướng
vào đầu thập thiên 1990 là biến chuyển
hệ trọng
khác. Dự
thảo này bị thất
bại do sự chống đối mạnh mẽ của Hoa Kỳ
và
Nhật. Tuy nhiên, sau cuộc khủng tài
chánh Châu
Á xảy ra năm 1997, dự kiến ASEAN+3 lại hồi
sinh như một nỗ lực nhằm ngăn chận những rủi ro
tài
chánh tái diễn.
Kế hoạch
mở rộng hợp tác giữa ASEAN và tam cường
ra đời
tháng 5/2000 tại Chiang Mai, Thái
Lan, gọi tắt
là "Sáng kiến Chiang Mai" (Chiang Mai
Initiative
- CMI). Trọng tâm của sáng kiến Chiang Mai là
"nhằm
cung ứng sự hỗ trợ tài
chánh ngắn hạn cho các thành
viên gặp phải
khó khăn về cán cân thanh
toán tổng thể"
(3). Mặc dù gặp phải sự chống đối của Hoa Kỳ, e
ngại rằng kế
hoạch này có thể làm suy
yếu vai trò
của Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF), song ASEAN+3 vẫn từng bước tiến
hành CMI.
Đến
nay, CMI gặt
hái được
thành quả đáng kể, "16
thoả hiệp hoán đổi song phương đã hoàn
tất
thành công trong số tám quốc gia với
tổng
giá trị 90 tỷ USD"
(4). Tháng 2/2009, ASEAN+3 quyết định nâng
cao thoả hiệp hỗ
trợ tài
chánh trên cả phương diện chiều rộng
và
chiều sâu, qua việc hình thành quỹ hỗ
trợ
tài chính, chính thức đi
vào hoạt động
tháng 3/2010, với tổng ngân khoản dự
trữ 120 tỷ USD,
trong đó ASEAN đóng góp 20%, Trung
Quốc và
Nhật mỗi nước 32%, Hàn Quốc 16%.
Trọng điểm của quyết định này là chuyển các thoả hiệp song phương độc lập (bilateral swap arrangements) thành một thoả hiệp đa phương (bilateral swap arrangement) bao gồm 13 quốc gia của ASEAN+3. Mục đích của nó là nhằm "bảo đảm cho các ngân hàng trung ương và các cơ chế tài chính của 13 hội viên có thể tiếp cận được với nguồn ngoại tệ chính trong giao thương, như USD, euros, yen để có thể bảo vệ nội tệ từ nạn đầu cơ làm cạn kiệt nguồn ngoại hối như đã từng xảy ra tại Indonesia, Thái Lan và Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài chánh Á Châu năm 1997-1998" (5).
2. Động Lực và Xu thế
Mối quan hệ giữa ASEAN và
khối +3 phát triển theo
xu
hướng
gia tăng giao thương bên trong khu vực
(Intraregional trade)
của các khối kinh tế trên thế giới, đặc
biệt mạnh
mẽ tại khu vực Châu Á với sự vươn
lên của
các nền kinh tế mới nổi, dẫn đầu bởi Trung
Quốc và Ấn Độ. Sự gia tăng hội nhập giữa các nền
kinh tế
Châu Á thể hiện rõ
nét qua con số hiệp
ước tự do mậu dịch và tỷ phần giao thương giữa
các
nước châu Á tăng mạnh. Người
bình luận
trên tờ The Economist
qua bài viết
tháng 3/2010
"Liên hiệp Châu Á chưa bao giờ gần như
bây
giờ" phân tích: "Tỷ
phần giao thương trong vùng của Châu
Á
trên tổng giao thương tăng từ 1/5 sau đệ nhị thế
chiến,
lên 1/3 vào thập niên 80, và
hiện nay vượt 50%. Một thập niên trước
đây,
chỉ hơn một chục hiệp ước tự do mậu dịch trong đó
có
ít nhất một nước Châu Á tham dự. Hiện
nay, khoảng
230 hiệp ước đã ký kết, hay đang chờ
phê duyệt"
(6).
Sự phát triển và thịnh
vượng của Châu
Á
trong những thập niên qua một phần quan trọng nhờ
vào sức cầu của các nước phương
Tây. Theo số
liệu của The Economist, đến
3/5 (60%) hàng
hoá sản
xuất của Châu Á xuất khẩu qua thị trường
Châu
Âu và Hoa Kỳ (7). Song, mức cầu của các
nước
phát triển phương Tây giảm mạnh kể từ khi
cuộc khủng
hoảng kinh tế xãy ra năm 2008, và
các
phân tích cho thấy rằng thị trường truyền
thống này khó có thể trở
lại cao như
thời kỳ tiền khủng hoảng. Điều này khiến cho các
nước
Châu Á phải điều chỉnh chiến lược phát
triển,
không những để đối phó với sự suy thoái
của khủng hoảng trong đoản kỳ, mà
còn cho
sự phát triển trong trường kỳ. Philip Bowring,
trong
bài viết "Châu Á tự
giúp
mình" tháng 5/2009 trên tờ NewYork
Times nhận
định rằng sự ra đời của quỹ hỗ trợ ASEAN+3 là phản
ứng tự
vệ đối với các biến chuyển kinh tế trên thế
giới hơn
là phát sinh từ động lực gọi
là chủ thuyết
Châu Á của người Á (Pan-Asianism), "Rõ
ràng là chiến lược
phát triển dựa vào việc xuất khẩu đến
các nước
giàu có không
còn giá trị nữa.
Trong chiến lược mới, sự phát triển dựa vào sức
cầu nội
địa và giao thương khu vực là điều cần
thiết"
(8).
Song, mặc dù mức độ hội nhập của các nền kinh tế Châu Á không ngừng gia tăng, cũng chỉ giới hạn ở phạm vi sản xuất, người bình luận trên The Economist lưu ý (8). Phân tích của Michael Richardson qua bài viết "Xây dựng mạng lưới an toàn Châu Á" trên tờ The Japan Times tháng 2/2009 cho rằng "Dường như có điều gì đó không bình thường khi 13 nước Châu Á (ASEAN+3) có dự trữ ngoại hối lên đến 3.600 tỷ USD, chiếm 50% tổng số dự trữ trên thế giới, phải mất một thời gian dài mới thành lập hệ thống phòng thủ rủi ro tài chánh". Khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á xảy ra năm 1997-1998, IMF đã hỗ trợ 100 tỷ USD. Song, các nước nhận tài trợ buộc phải cắt giảm chi tiêu, tăng lãi suất, bán các doanh nghiệp nhà nước và chấp nhận các biện pháp thắt lưng buộc bụng khác, điều mà Michael cho rằng "không chính phủ nào trong vùng muốn phải trải nghiệm thêm một lần nữa mối nhục này" (9). Hơn thế nữa, Philip Bowring, NewYork Times, còn nhận định rằng, ngày nay, trong khi IMF vẫn gặp khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm nguồn tài trợ, thì sự ra đời của định chế tài chánh khu vực như quỹ hỗ trợ ASEAN+3 là điều cần thiết (10).
3. Hiện Trạng
Mức độ hội nhập của các
nền kinh tế ASEAN+3 phản ảnh qua hiện
trạng
của mối quan
hệ mật thiết giữa các quốc gia này trong
các hoạt
động
kinh tế. Người bình luận trên tờ The
Japan
Times
tháng 1/2010 qua bài viết "Gia tăng Mậu
dịch" nhận
định rằng "quan
hệ kinh tế giữa
các nước này tiến gần hơn từ hai thập
niên qua phản ảnh thực tế trên doanh
trường -
các công ty vượt qua biên gới quốc gia
để khai
thác các ưu thế cạnh tranh"
(11). Để hiểu
rõ hơn mối quan hệ giữa ASEAN và khối +3,
thử phân tích các dữ
liệu liên quan đến mối giao thương và đầu tư giữa
các quốc gia này trong thập niên qua.
Nhật
Bản
vốn có ảnh hưởng rất lớn đối với các nền
kinh tế
của ASEAN từ nhiều thập niên qua. Song, ảnh hưởng
này đang
bị xói mòn bởi sự lớn mạnh của
nền
kinh tế Trung Quốc. Bài viết "Mức giao thương Nhật
và ASEAN đang trên đà suy giảm" trên tờ The
Japan
Times tháng 11/2007 tường thuật báo
cáo
do đơn vị tình báo (Intelligence Unit)
của tờ The
Economist thực hiện: "Trung
Quốc với mức tăng trưởng mạnh mẽ đã gây ảnh hưởng
sâu sắc cán cân mâu
dịch Châu
Á. Hàng xuất khẩu từ ASEAN đến Trung Quốc
, chủ yếu là
các bán
thành phẩm để lắp ráp và xuất khẩu,
đang tăng nhanh".
Cũng theo phúc trình của The
Economist, ngoại
trừ
Philippines, giao thương của ASEAN với Nhật đang trên
đà
suy giảm; tỷ phần hàng xuất khẩu của ASEAN
qua
Nhật giảm từ 15.3% xuống 13.4% trong giai đoạn 2000-2007.
Tuy nhiên, theo
báo cáo cập nhật của ASEAN, Nhật không
những vẫn
là nước
có mối giao thương lớn nhất với ASEAN, với tỷ phần 11.6 %
(177
tỷ USD) năm 2009, mà còn dẫn xa
các
nước khác về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
chiếm 14%
(25.8 tỷ USD) trên tổng số FDI của ASEAN trong giai đoạn
2006-2008 (12).
Trung Quốc có mức giao thương với ASEAN tăng mạnh, từ tỷ phần 4% năm 2004 tăng lên 10.5% (160 tỷ USD) năm 2009 và khối lượng mậu dịch tăng 6 lần trong giai đoạn 2000-2008, đã vượt qua Hoa Kỳ và bám sát Nhật Bản với thứ hạng thứ ba, sau Nhật và EU. Mặc dù tỷ phần FDI của Trung Quốc trên thế giới vẫn còn rất khiêm tốn, song tăng vọt trong những năm gần đây khi nước này đang ra sức mở rộng ảnh hưởng kinh tế, khai thác giá lao động rẻ, và tăng cường năng lực cạnh tranh khi các doanh nghiệp lớn nhà nước đang mất dần lợi thế độc quyền trong nước. Hiện Trung Quốc là nước có FDI tại ASEAN lớn thứ 5, sau EU, Nhật, Hoa Kỳ, và Hàn Quốc với con số 4 tỷ USD trong giai đoạn 2006-2008.

Hàn
Quốc là
nước có vị trí đặt biệt trong nhóm
ASEAN+3, đóng góp đáng
kể cho quỹ hỗ trợ ASEAN+3 với tỷ phần 16% (19.2 tỷ
USD), đồng
thời cũng là quốc gia nhận tài trợ của
Nhật trong
thập
niên qua. Vị thế của Hàn Quốc tuy vẫn
còn
khiêm tốn so với hai đại cường Nhật và Trung Quốc,
song
với nền kinh tế đứng thứ 15 trên thế giới, 929 tỷ
USD GDP
(14), Hàn Quốc hiện có mối quan hệ kinh tế quan
trọng
đối với ASEAN. Theo phân tích của Maragtas S.V. Amante,
qua
bài
bình luận "Những lợi ích từ mối giai thương giữa ASEAN
và Hàn Quốc" trên tờ JoongAng
Daily
tháng
3/2010, trao đổi mậu dịch giữa các nước
này
tăng nhanh, hơn 7 lần trong giai đoạn 1990-2008, với vị
trí thứ 5 (73 tỷ USD), sau Nhật, EU, Trung Quốc
và
Hoa Kỳ. Khối lượng FDI của Hàn Quốc tại khu vực ASEAN rất
đáng kể, đứng thứ 4 sau EU, Nhật và Hoa
Kỳ với 5.9
tỷ USD giai đoạn 2006-2008 (15).
Hai biểu đồ sau đây giúp phác hoạ bức
tranh tổng
thể quan hệ kinh tế giữa ASEAN với khối +3 và các
nền
kinh tế phát triển phương tây:

4. Triển vọng và Chướng ngại
Với mối quan hệ kinh tế
ngày một gia tăng giữa
các nước của ASEAN+3 và sự tiến triển của
Sáng kiến Chiang Mai qua sự thành lập quỹ hỗ trợ
tài chánh, hầu hết các
nhà bình luận
đều lạc quan về triển vọng hợp tác giữa ASEAN
và các nước Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Song, câu hỏi đặt ra là
liệu ASEAN+3 có thể trở thành một
liên hiệp
kinh tế với mức độ hội nhập cao theo như mô hình
của
Liên hiệp Châu Âu?
Không ít tác giả của các bài bình luận hoài nghi về chiều sâu sự hợp tác của khối ASEAN+3. Các vấn đề thường được nêu lên như là những chướng ngại chính cho một tiến trình hội nhập của ASEAN+3 bao gồm:
-
Trình độ phát triển chênh lệch với mức lợi tức đầu người của Singapore cao gấp 150 lần Myanmar, so với mức chênh lệch giữa nước có lợi tức đầu người cao nhất (Luxemburg) và thấp nhất (Portugal) của Liên hiệp Âu Châu chỉ có 4 lần (16).
-
Thể chế chính trị khác biệt sâu sắc (17), từ những nước có nền dân chủ phát triển và ổn định (Nhật, Hàn Quốc, Singapore), đến các quốc gia đang trải nghiệm nền dân chủ phôi thai, kinh qua nhiều thời kỳ biến động (Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia), và các nước có thể chế chính trị độc tài (Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar).
-
"Sự dị ứng trong việc thực thi các luật định và giao ước" (18) và "sự thiếu vắng các qui định ràng buộc trong cộng đồng ASEAN làm giảm lòng tin rằng đây sẽ là một hiệp hội có khả năng tiến sâu trên con đường hội nhập" (19), theo phân tích của tờ The Economist và NewYork Times.
-
Sự mâu thuẫn và tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc là chướng ngại quan trọng khác, Joel Rathus trên tờ Jakarta Globe tháng 3/2010 phân tích. Joel Rathus cho rằng sự đối kháng giữa hai quốc gia này là nguyên nhân chính của sự thất bại trong các nỗ lực hợp tác đa phương và định chế hoá ASEAN+3 trước đây. Mặc dù Nhật và Trung Quốc đã đạt được sự thoả thuận trong việc thành lập quỹ hỗ trợ ASEAN+3 do áp lực của cuộc khủng hoảng tài chánh, nhưng "sự đối nghịch này khó có thể chấm dứt và sẽ tiếp tục cản trở sự phát huy của Sáng kiến Chiang Mai" (20)
5.
Kết Luận
Quan hệ hợp tác kinh tế
giữa các nước ASEAN+3 không
ngừng phát triển, và những thành
công bước đầu trong việc định chế hoá chính
sách tiền tệ thể hiện qua sự
hình thành quỹ hổ trợ tài chính đánh
dấu cho một giai đoạn mới trên tiến trình hội nhập giữa
các quốc gia này. Song, mặt khác, những
dị biệt và mâu thuẫn giữa các nước ASEAN+3
khiến các
nhà kinh tế dè dặt về khả năng hình
thành khối liên hiệp kinh tế Châu Á.
David Goldman, Asia Times, nhận
định rằng sự thực
hiện quỹ hỗ trợ tài chánh ASEAN+3 có thể "
mất
5 năm, hay hằng thập niên, tiến hành từng
bước thận
trọng, trong bối
cảnh các nhà đầu tư lớn giảm dần sự lệ
thuộc vào thị trường Hoa Kỳ và tạo dựng
các
thị trường tiền tệ riêng".
Ông tiên
đoán vai trò dự trữ của đồng đôla Mỹ sẽ
giảm dần
trong những thập niên tới, tương tự như đồng bảng Anh
đã
mất dần vị trí của đồng tiền dự trữ trên thế giới
trong ba thập niên (21).
Michael
Richardson, The Japan
Times, nhắc nhở rằng "Châu
Âu đã mất 50 năm
mới có thể tiến tới được một
khối liên hiệp tiền tệ, và Châu
Âu đã
không phải vượt qua nhiều khác biệt về
chính trị,
kinh tế và văn hoá như Châu Á".
Một trong những đề nghị có
thể giúp phát
huy hiệu quả của Sáng kiến
Chiang Mai được tờ The
Japan Times
nêu
lên là mở rộng hơn nữa khối liên
hiệp ASEAN+3, bao gồm các nước Ấn Độ và
Úc Đại Lợi.
"các
quốc gia này có khả năng hành
động, đặc biệt về tài chánh, không
những có thể
trút bớt gánh nặng cho Nhật Bản và
Trung Quốc khi khủng hoảng xảy ra, mà
còn có thể
làm dịu bớt sự tranh chấp giữa hai đại cường"
(22).
Úc và Ấn đều có mối quan
hệ giao thương lớn với ASEAN, giữ các vị
trí thứ 6 (47 tỷ USD) và thứ 7 (41 tỷ USD), sau
Hàn Quốc. Hơn thế nữa, hai quốc gia này còn
có tiềm lực kinh tế lớn, Ấn với GDP đứng thứ 11 (1400 tỷ
USD) và Úc với thứ hạng 13 (1086 USD).
Sự mở rộng khối ASEAN+3 còn có ý nghĩa quan trọng về phương diện chính trị. Tờ The Japan Times nhận định rằng, Trung Quốc với vị trí địa lý và sức mạnh kinh tế có khả năng chi phối bất cứ nước nào trong khu vực. "Mối quan ngại này đang thúc đẩy các chính phủ ASEAN mở rộng hợp tác với Úc, Ấn và New Zealand, đồng thời duy trì quan hệ tốt đẹp với Hoa kỳ, nhằm cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc" (23).
Trần Bình 5/2010
(1) From Zero-sum to Positive-sum: ASEAN Turning Weakness Into Strength - Kantathi Suphamongkhon, UCLA.
(2) ASEAN - WikiPedia
(3) An Asian Commodity-Based Currency? - David Goldman, Asia Times
(4) Như (3)
(5) Building an Asian safety net - Michael Richardson, The Japan Times
(6) Asia's never-closer union - The Economist
(7) Như (6)
(8) Asia Helps Itself - Philip Bowring, The NewYork Times
(9) Như (5)
(10) Như (8)
(11) More trade 'noodles' - The Japan Times
(12) ASEAN Statistics - Association of Southeast Asian Nations
(13) ASEAN, Japan, & China - The University of Missipisi
(14) List of countries by GDP - wikipedia
(15) Benefits from Korea and Asean trade - Maragtas S.V. Amante, JoongAng Daily
(16) Như (1)
(17) Như (1)
(18) Như (6)
(19) ASEAN: Leaders address economic slump The NewYork Times
(20) East Asia Forum: Chiang Mai Initiative a Good Start, but Members Beware
(21) Như (3)
(22) Như (20)
(23) Như (11)
Các thao tác trên Tài liệu