Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / Cuộc vận động tự cường của Trung Quốc / Cuộc vận động tự cường của Trung Quốc (4)

Cuộc vận động tự cường của Trung Quốc (4)

- Hồ Bạch Thảo — published 10/03/2014 18:35, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:19
Tiếp tục học hỏi kỹ thuật Tây phương [1874-1893]



Cuộc vận động tự cường
sau khi liên quân Anh, Pháp
đánh Bắc Kinh



Hồ Bạch Thảo




Chương bốn

Tiếp tục học hỏi kỹ thuật Tây phương
[1874-1893]



lhc

Lý Hồng Chương [1823-1901] (nguồn : wikipedia)




1. Ðồng Trị mất, Từ Hy Thái Hậu lại giữ việc chính trị


Từ Hy nghiêm khắc ít tình cảm, đối Ðồng Trị thiếu mềm mỏng, thường thường la mắng, muốn hoàn toàn tuân theo mình. Ðồng Trị cũng có chút thông minh, tính thích vui chơi ; hai mẹ con trở nên xa cách. Vào năm 1872 Ðồng Trị 17 tuổi, cử hành hôn lễ, tháng 2 năm sau đích thân coi việc chính trị, Từ Hy cảm thấy cô độc. Từ Hy lại không ưa nàng dâu Hoàng hậu, can thiệp vào cuộc sống của vợ chồng, nên Ðồng Trị cảm thấy không vui ; bị bọn tôi tớ thân cận dụ dỗ, lén đi ra ngoài cung cấm, đến các chốn thanh lâu tửu điếm. Tháng 11/1873 Ðồng Trị muốn làm vừa lòng Từ Hy, tuyên bố trùng tu vườn thượng uyển Viên Minh. Lúc bấy giờ nhu cầu lương hướng cho quân lính tại chiến dịch vùng Cam Túc, Tân Cương cần rất nhiều, cuộc hôn lễ của Ðồng Trị cũng tốn đến 2.000 vạn lượng, ngân khố thiếu hụt, quan can gián xin đình hoãn ; Cung Thân vương, Thuần Thân vương, Quân cơ đại thần cũng đồng lên tiếng. Ðồng Trị không chấp nhận, lấy danh nghĩa thị sát Minh viên, lại ra khỏi cung cấm.


Tháng 7/1874, thầy dạy của Ðồng Trị, Lý Hồng Tảo, tiếp tục dâng sớ : hoặc khuyên đọc sách, chăm lo việc chính trị, hoặc lo tiết kiệm, thương dân, hoặc bảo kẻ đốt phá Minh Viên 1 vẫn còn “ Làm sao có thể nghĩ rằng sự việc này sẽ không xẩy ra ? ”. Tất cả những điều này Ðồng Trị đều không muốn nghe.


Lúc này việc giao thiệp với Nhật khẩn cấp, nhóm Cung Thân vương liên danh can gián, nội dung gồm 6 điều :


- Thứ nhất, người Tây phương lưu tại đô thành, mối lo trong gan ruột ; Nhật Bản quấy nhiễu tại Ðài Loan, sợ sinh bất trắc ; cần tăng gia tu tỉnh.


- Thứ hai, mỗi ngày theo thời khóa biểu, triệu các Thần công đến hỏi han ; cần gia tăng kiệm ước.


- Thứ ba, nghe rằng thường cùng Thái giám hát xướng diễn kịch, hoặc thăm vườn Viên Minh ; sự việc không thể không thận trọng.


- Thứ tư, các bản tâu lưu lại không giải quyết kịp thời, lại cự lời can gián.


- Thứ năm, trong triều các khoản tiêu khá lớn, chuyện cũ vườn Viên Minh nói lại thêm đau lòng, sao lại nỡ đến thăm nơi này ! Nay bàn việc khôi phục, dùng 1,2 ngàn vạn cũng không đủ, lấy đâu ra số tiền lớn đó ?


- Thứ sáu, cần tiến tu cầu học, mỗi ngày đến thư phòng, ngoài việc tu tập bản thân còn giúp thông đạt nghĩa lý.


Những lời điều trần nêu trên chẳng khác gì răn dạy, Ðồng Trị xấu hổ, rồi đâm ra giận, trách Cung Thân vương ly gián hai mẹ con, để nắm toàn bộ chính trị. Cung Thân vương bàn luận thêm, không chút nhượng bộ. Ðồng Trị chỉ trích sự hiếp chế, mưu làm điều trái, dọa cách chức và nghiêm trọng xét xử ; cùng truất phế toàn bộ Ðại thần can gián. Từ Hy nghe được việc này, vào ngày sau đó [12/9] cho đình chỉ việc tu sửa vườn Viên Minh, khen thưởng công to của Cung Thân vương từ khi phụ chính đến nay. Từ Hy tuy chẳng ưa gì Cung Thân vương, nhưng trước tình thế khó khăn, không có người khác thay thế.


Ðồng Trị vốn tạng người yếu đuối, mấy năm gần đây đi ra ngoài vui chơi, mắc bệnh ác tật ; nhưng tuyên bố là bị bệnh đậu mùa. Từ Hy đưa lời rằng Ðồng Trị không thể coi việc chính trị, nên cùng với Thái hậu Từ An duyệt đọc tấu biểu, ngày 8/12 buông rèm thính chính 2 lần thứ hai. Vào ngày 12/1/1875 Ðồng Trị mất, không có con nối dõi ; Từ Hy chọn con của người tòng đệ 3, Thuần Thân vương, mới 4 tuổi, tên là Tái Ðiềm lên thay, niên hiệu là Quang Tự. Ngoài mặt thì nói rằng “ còn nhỏ, dễ giáo dục ”, thực chất là muốn kế tục nhiếp chính ; hơn nữa vợ Thuần Thân vương là em ruột Từ Hy, lại càng thân cận và dễ chế ngự. Thuần Thân vương sợ Từ Hy nghi kỵ, tự xin rút lui ; riêng Hoàng hậu vợ Ðồng Trị biết rằng Từ Hy không dung thứ, bèn tự tử.






2. Lập hải quân, huấn luyện lục quân


Năm 1861 dùng S. Osborn [Ha Tư Bản] lập đội thuyền máy, kết quả hoàn toàn thất bại. Tả Tông Ðường chủ trương tự tạo thuyền máy, lập thủy sư , đó là sứ mệnh của xưởng thuyền Phúc Châu [Fuzhou, Phúc Kiến], một trong các nhiệm vụ của Giang Nam chế tạo cục. Ðến năm 1874, chế được 19 chiếc, trọng tải ước lượng 22.000 tấn ; giá thành cao, phẩm chất không địch lại được với tàu thuyền Tây phương ; ngay đối với Nhật Bản cũng thua sút, nên trong vụ căng thẳng tại Ðài Loan phải xuống nước xin hòa. Sau sự việc này, Cung Thân vương phải đau khổ trình bày rằng phương cách tự cường trước đây không có chút thực tế nào, đối với nước nhỏ như Nhật Bản cũng không chế ngự được, nếu mưu thuẫn với các nước Tây phương phát sinh, thì lấy gì để nương dựa ? Trước mắt việc không thể đình hoãn là đề phòng Nhật Bản. Nhật Bản vốn hay nuốt lời hứa, không thể bảo đảm rằng hậu hoạn không xẩy ra ; đến lúc cần đối phó, sợ rằng không có khả năng. Lý Hồng Chương trước kia đã cho rằng Nhật họa đáng lo, nay “ thế nước này càng khuếch trương, chí của họ không nhỏ ”. Cái mà Nhật dựa vào để xâm lăng Trung Quốc là binh giáp kiểu mới, Văn Tường bảo rằng “ Nhật Bản mới tập binh pháp Tây phương, mua được 2 tàu thiết giáp, đã dám lấy cớ gây hấn. Nếu ta lần lữa, để một ngày sinh biến, thì lại càng khó khăn ”. Bởi vậy cần phải mua gấp thiết giáp hạm, pháo thuyền, ứng dụng các loại quân khí; cho dù khó khăn như thế nào, cũng tìm cách liệu biện cho ổn thỏa ; tháng 2/1874, chiếu mệnh Lý Hồng Chương mua các thứ đó.


Tháng 4/1875, Tổng thự theo lời bàn của Robert Hart [Hách Ðức], tập trung mua thuyền, thống nhất chỉ huy, trước hết đính ước mua 4 chiếc pháo thuyền của nước Anh. Tháng 5, cử Thẩm Bảo Trinh làm Tổng đốc Lưỡng Giang, kiêm Nam dương đại thần, cùng Lý Hồng Chương phân chia quản lý Nam, Bắc dương ; đây là thời khởi thủy Trung Quốc tổ chức hải quân kiểu mới. Năm 1876, quan quân Anh đưa 4 chiếc pháo thuyền đến nơi, kiểu tối tân, Lý Hồng Chương rất vừa ý. Năm 1878, lại giao cho Robert Hart mua tiếp tuần dương hạm và pháo thuyền, mỗi thứ 2 chiếc.


Năm 1879, nhân Nhật Bản thôn tính Lưu Cầu, tình hình không lường được, bèn ra lệnh cho Lý Hồng Chương và Thẩm Bảo Trinh mua thiết giáp hạm và thủy lôi. Robert Hart điều trần về việc xin lập nha môn chuyên trách về phòng biển, tự đảm nhiệm tổng tra hải quân, trong 5 năm có thể thành tựu ; dụng ý quyền lực hải quân Trung Quốc không vào tay Ðức hay Mỹ ; nhưng Lý và Thẩm không đồng ý, riêng 4 chiếc pháo thuyền được giao cho Bắc dương đại thần. Không lâu sau đó Thẩm Bảo Trinh mất, chiếu mệnh Lý Hồng Chương quản lý việc mua pháo thuyền ; đặt Thủy sư doanh vụ tại Thiên Tân. Năm 1880, tình hình tại Y Lê và Lưu Cầu biến chuyển gấp, Lý chuyển sang liên lạc với nước Ðức mua 2 thiết giáp thuyền, 1 chiếc bọc gang, đặt tên là Ðịnh Viễn, Trấn Viễn, Tế Viễn ; do Sứ thần tại nước Ðức là Lý Phượng Bao lo liệu, Robert Hart không còn bao biện như trước kia. Năm 1881, phái Ðinh Nhữ Xương giữ chức Thống lãnh Bắc dương hải quân. Năm sau Bắc dương đặt mua 4 ngư lôi đỉnh, năm 1883, Nam dương đặt mua 2 tuần dương hạm, từ năm 1882 đến 1884, tỉnh Quảng Ðông đặt mua 11 ngư lôi đỉnh ; cả ba lần này đều đặt mua của Ðức. Về quân cảng, Lý Hồng Chương lập căn cứ thuyền bè tại Ðại Cô [Dagu, Thiên Tân] ; đặt doanh ngư lôi và kho than tại Lữ Thuận [Lushun, Liêu Ninh].


Nhân tài cho hải quân và quân hạm đều quan trọng như nhau. Nguồn gốc quân hạm đến từ hai đường : mua từ ngoại quốc và tự chế ; Lý Hồng Chương chủ trương mua từ ngoài ; riêng xưởng thuyền Phúc Châu vẫn tiếp tục chi trì, nhưng Giang Nam chế tạo cục cơ hồ đình đốn. Về nguồn gốc nhân tài cũng chia làm 2 nguồn : tự huấn luyện trong nước và huấn luyện từ ngoại quốc. Khi Nhật Bản chưa mua được thiết giáp hạm, thì khả năng thuyền bè hai bên cũng xấp xỉ. Trung Quốc thua Nhật Bản bởi quan quân Nhật biên chế, giáo dục, huấn luyện theo kiểu Âu Mỹ ; người Tây phương nhận xét rằng nếu như hai bên đánh nhau, Nhật Bản sẽ giành phần thắng. Thẩm Bảo Trinh là người đầu tiên chủ trương đem học sinh ra hải quân xuất dương du học. Sau sự kiện Ðài Loan kết thúc, phái 5 học sinh sang Âu Châu du lịch. Năm 1876, chính thức tuyển 20 học sinh sang Anh học về hàng hải, 14 học sinh sang Pháp học chế tạo, 4 học về khoáng sản, 2 học về luật lệ ; năm 1881, lại tiếp tục phái thêm 10 người. Lý Hồng Chương phụ trách tổng quát về hải quân, nhưng học đường về thuyền chính tại Phúc Châu không do họ Lý trực tiếp chỉ huy, nên năm 1880 cho lập riêng Thủy sư học đường tại Thiên Tân, giao cho Nghiêm Tông Quang thuộc toán thứ nhất học tại Anh, làm Tổng giáo tập ; năm sau lại thiết lập Thủy lôi học đường tại Ðại Cô.


Lúc mới bắt đầu mua thuyền, vì chuyên viên về hải quân không đủ, nên không thể không mướn người nước ngoài. Năm 1879, viên Trung tá hải quân người Anh William M. Lang [Lang Uy Lý] đưa 4 chiếc tàu do Trung Quốc đặt mua lần thứ hai đến nơi, Lý Hồng Chương mướn viên này làm Tổng tra Bắc dương hải quân, coi về huấn luyện. William M. Lang có khả năng, tính cần mẫn ; quan binh đều kính sợ, nhờ đó quân dung trở nên nghiêm túc. Thống lãnh Ðinh Nhữ Xương xuất thân từ kỵ mã Hoài quân, tuy từng quản lĩnh thuyền quân trên sông Trường Giang, nhưng kiến thức về hải quân tân tiến biết rất ít, phải nhờ William M. Lang chỉ dẫn.


Kinh phí về hải quân rất lớn, lúc đầu Nam, Bắc dương mỗi năm kinh phí đến 400 vạn lượng, nhưng sự thực chỉ cung cấp được một nửa số. Năm 1877, Sơn Tây, Hà Nam lại bị đói nặng ; chiếu mệnh tạm mượn kinh phí phòng biển để lo chẩn cấp. Năm 1878, có người chủ trương đem toàn bộ kinh phí phòng biển dùng cho lương hướng triều đình, cuối cùng bị sử dụng 70 vạn lượng.


Tính đến năm 1884, thống kê Bắc dương sử dụng 14 chiến thuyền, 8 chiếc mua, số còn lại tự chế ; Nam dương có 17 chiếc, 6 chiếc mua, số còn lại tự chế ; Phúc Kiến có 11 chiếc, 2 chiếc mua, số còn lại tự chế ; Quảng Ðông chỉ có lôi đỉnh, đều mua. Tất cả có 4 hạm đội, không thống nhất chỉ huy ; vận tốc, trang bị, biên chế đều bất nhất.


Các cơ sở đóng tàu lúc bấy giờ phải kể đến Phúc Châu thuyền chính và Giang Nam chế tạo cục.


Phúc Châu thuyền chính do Tổng đốc Mân Chiết [Phúc Kiến Chiết Giang] Tả Tông Đường thiết lập, tại sông Mã Vĩ [Mawei, Phúc Kiến], cách cửa biển 30 km. Lúc khởi đầu cho mời các Công trình sư và Giáo viên Anh, Pháp đến giúp. Tính đến năm Quang Tự thứ 33 [1907] đóng được 40 chiếc tàu gồm các tàu binh bọc sắt, gang, hoặc gỗ ; bị mất 26 chiếc, còn lại 14 chiếc.


Giang Nam chế tạo cục tự tạo các tàu binh. Vào năm Đồng Trị thứ 2 [1863] lập cục tại An Khánh [Anqing, An Huy], không dùng người Tây phương, chế tạo được thuyền máy nhỏ. Vào năm 1865 lập xưởng tại Thượng Hải [Shanghai, Giang Tô]. Vào năm 1879, Tổng đốc Giang Nam Thẩm Bảo Trinh tâu rằng “ Xưởng thuyền Giang Nam mới chế được 5 chiếc thuyền từ 500 mã lực trở xuống, số quân và lương hướng so với sở tạo thuyền Phúc Châu tương đồng ”. Từ năm 1882 trở về sau không chế tạo thêm.


Về lục quân, bắt đầu cải cách trước hải quân. Thời quân Anh chưa triệt thoái ra khỏi Thiên Tân, viên Ðề đốc Anh Charles W. Staveley [Sĩ Dịch Phật Lập] từng huấn luyện giúp 600 quân tại Thiên Tân, Hổ Môn. Kế tiếp tuyển 360 quân Bát kỳ, giao cho người Anh huấn luyện. Ðể bảo vệ Thượng Hải, vào năm 1862, Charles W. Staveley phối hợp với Ðề đốc James Hope yêu cầu đưa 3000 quân để huấn luyện giúp, Lý Hồng Chương giao một nửa số ; lại còn 600 quân do người Pháp huấn luyện. Sau đó Quảng Châu, Phúc Châu tiếp tục bắt chước thi hành ; Anh, Pháp tranh nhau gánh vác, có thể thấy được nội dung không đơn giản.


Hoài quân được huấn luyện theo phương pháp Tây phương sớm nhất, trở thành đạo quân có hiệu quả. Lý Hồng Chương không muốn đem quân Trung quốc giao cho Sĩ quan ngoại quốc luyện tập, sợ bị mất quyền điều khiển ; nhân mướn ngoại quốc huấn luyện, chỉ cho họ đứng vào địa vị khách. Ðến lúc Lý giữ chức Tổng đốc Trực Lệ, quân lính nhất luật sử dụng vũ khí và thao luyện theo lối Tây phương. Các nước đều muốn mưu đồ tham gia huấn luyện ; riêng Anh đã tham gia huấn luyện hải quân, Lý không muốn cho nước này dính líu đến lục quân. Lý nhận định rằng nước Ðức gần đây quân sự chính trị tu sửa sáng sủa, lại không có mâu thuẫn về đất đai, tôn giáo và nha phiến với Trung Quốc, đáng nên liên lạc để trợ quân mưu. Do vậy viên thuế vụ người Ðức tại Thiên Tân, Gustav Destring [Ðức Thôi Lâm] hoạt động mạnh, vào năm 1873 giúp mời Sĩ quan Ðức là Lehmayer [Ðức Lệ Hiệp] làm huấn luyện viên. Lại đưa 7 võ quan sang Ðức học, lúc trở về nước làm huấn luyện viên, dưới quyền người rể của Gustav Destring là Canstantin von Hannaken [Hán Nột Căn] đốc suất. Ðịa vị của Gustav Destring đối với Trung Quốc chẳng khác gì Robert Hart người Anh ; riêng Hannaken người Ðức, đối với lục quân, cũng ảnh hưởng mạnh giống như William M. Lang người Anh, đối với hải quân Trung Quốc vậy.




3. Luân Thuyền Chiêu Thương Cục cạnh tranh hữu hiệu



Thập niên sáu mươi thuộc thế kỷ thứ 19, là giai đoạn đầu cuộc vận động tự cường tại Trung Quốc ; tân chính sách cho việc chế pháo, tạo thuyền là con đường nhanh nhất nhà nước phải lảm. Nhưng nhu khoản quá lớn, chỉ xuất ra mà không nhập, lại không biết chắc đến đâu thì dừng. Thứ đến thế lực tư bản chủ nghĩa Tây phương tại Trung Quốc mỗi ngày một bành trướng, nguồn lợi trong nước bị chiếm đoạt, dọc theo sông Trường Giang việc giao thông, vận thâu bị tác hại càng nhiều.


Sau khi 5 cửa khẩu thông thương, Hương Cảng là trung tâm hàng hải của nước Anh, hoặc lên Thượng Hải, hoặc sang Nam Dương ; thuyền kiểu cũ của Trung Quốc gần như mất hết quyền lợi. Ðến lúc mở các cảng tại Hoa bắc, sông Trường Giang, thuyền máy ngoại quốc càng tăng, khu vực hàng hành càng lớn. Quá khứ thuyền máy công ty JardineMatheson & Co. [Di Hòa Dương Hàng] của nước Anh làm chủ ; sau năm 1862 có các công ty Russell & Co. [Kỳ Xương Thương Hàng], Shanghai Steam Navigation Co. [Thượng Hải Luân thuyền] của nước Mỹ chuyên tải hàng hóa duyên hải và dọc sông Trường Giang. Sau đó các công ty của nước Anh như Hongkong, Canton and Macao Steamboat Co. [Tỉnh Cảng Áo Luân Thuyền], Union Steam Navigation Co. [Công Chính Luân Thuyền], North China Steamer Co. [Bắc Thanh Luân Thuyền] vv…tiếp tục thành lập. Hơn nữa những tàu thuyền mang hàng ngoại quốc được ưu đãi, quan thuế không dám hỏi han khắt khe ; các thuyền Hoa thương cũng nhờ nhà buôn ngoại quốc khai báo. Việc kinh doanh tại các cửa khẩu 90 % nằm trong tay ngoại quốc, sinh nhai của dân duyên hải bị cản trở, thuế má thất thu không ít.


Còn một vấn đề quan trọng là tào vận 4. Tào vận có tệ đoan từ lâu, quan lại thường ăn chặn ; Vận Hà lại thường tắc nghẽn, hàng năm tốn kém một số tiền lớn để nạo vét. Năm 1825, thử dùng loại thuyền lớn chạy buồm gọi là sa thuyền của Chiết Giang để vận tại đường biển, nhưng cước phí quá cao. Năm 1864, Tuần phủ Giang Tô, Ðinh Nhật Xương, xin cho Hoa thương mua thuyền máy ; hai năm sau Tả Tông Ðường lại điều trần điểm lợi của thuyền máy, lúc vô sự dùng để vận tải hàng hóa, lúc hữu sự dùng chở quân, chở lương ; lại nhấn mạnh việc thuyền máy ngoại quốc gây phương hại đến kinh tế trong nước. Từ khi thuyền máy Tây dương được cho phép chở hàng tại phương bắc, giá hàng tăng; nếu thương nhân người Hoa dùng thuyền buồm chở xuống phương nam, hàng nặng thời gian lâu, không thể giảm giá để địch lại thuyền ngoại quốc.


Trong vòng 20 năm có những Dương hàng lắm tiền đầu tư vào các công ty Anh, Mỹ ; nếu như dưới sự chỉ đạo của các quan, cấp cho tiện lợi, thì họ sẽ chuyển hướng. Tổng biện Giang Nam chế tạo cục Phùng Lăng Quang cho rằng “ Muốn làm yếu Tây phương, trước hết phải làm giàu Trung Quốc ; phải tìm cách ép hàng ngoại quốc và tìm cách nâng đỡ lưu thông hàng Trung Quốc ”. Nên chuẩn cho thuyền máy liệu biện thương mại kiêm việc tào vận, nếu như hàng của khách không đủ, cũng có cách bổ cứu. Lý Hồng Chương rất tán đồng, cho rằng nếu như Hoa thương lập công ty, những người sáng suốt liêm chính am hiểu tình hình đảm đang, lại có thương vụ riêng về tào vận, thì ngoại quốc không thể khuynh loát được. Tháng 1/1873 chính thức lập Luân Thuyền Chiêu Thương Cục ; Tổng biện là Ðường Ðình Khu, người đã từng giữ chức Tổng mại biện tại công ty Jardine, Matheson & Co. [Di Hòa Dương Hàng] hơn 10 năm ; Hội biện là Từ Thuận cũng đã giữ chức Tổng mại biện hàng chục năm tại công ty Dent and Co. [Bảo Thuận Dương Hàng], đều là những người rành về kinh doanh và có khả năng. Lúc đầu định cổ phần 200 vạn lượng, nhưng thực thu chỉ được một nửa ; nhà nước ứng trước 200 vạn lượng, cho trả dần bằng cách vận chuyển hàng hóa.


Chiêu Thương Cục lúc đầu chỉ có 3 chiếc thuyền máy, đến năm 1876 tăng đến 12 chiếc, công ty hàng hải ngoại quốc rất đố kỵ. Các công ty Russell & Co. [Kỳ Xương Thương Hàng], JardineMatheson & Co. [Di Hòa Dương Hàng] tiếp tục hạ gíá để cạnh tranh, Chiêu Thương Cục cũng phài giảm theo. Nhân vì chiếm độc quyền tào vận, có thu nhập cố định, nên còn có thể đối phó được. Công ty Russell & Co. phần lớn qua lại Thiên Tân, Yên Ðài ; không cạnh tranh nổi, đem thuyền máy, bến tàu, phòng ốc bán lại cho Chiêu Thương Cục. Các công ty khác cũng bị tổn thất, nên cuối cùng đành thỏa hiệp với Chiêu Thương Cục ; năm 1878 đính ước “ Tề gíá hợp đồng ”, quy định chung giá cả. Hoa thương nghĩ đến đại cuộc, thường đem hàng hoa giao cho Chiêu Thương Cục chuyên chở, nên nghiệp vụ của Chiêu Thương Cục không thua toàn bộ công ty ngoại quốc. Năm 1890 “ Tề giá hợp đồng ” mãn hạn, các công ty ngoại quốc không ký tiếp ; Chiêu Thương Cục nhờ chính phủ hiệp trợ, và sự ủng hộ của Hoa thương nên vẫn có lãi ; nhưng đến giai đoạn Trung, Nhật chiến tranh thì hoàn cảnh trở nên gian nan.


Đại bản doanh thuyền máy Chiêu thương cục tại Thượng Hải, hàng hành trên sông Trường Giang gọi là Giang luân, trên biển gọi là Dương luân. Giang luân có các bến tàu tại Trấn Giang, Nam Kinh thuộc Giang Tô ; Vu Hồ thuộc An Huy, Cửu Giang thuộc Giang Tây, Hán Khẩu thuộc Hồ Bắc. Dương luân có các bến tàu tại Ninh Ba, Ôn Châu thuộc tỉnh Chiết Giang; Phúc Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến ; Sán Đầu, Quảng Châu, Hương Cảng thuộc tỉnh Quảng Đông ; Yên Đài tỉnh Sơn Đông, Đường Cô, Thiên Tân thuộc tỉnh Trực Lệ ; Doanh Khẩu [yingkou] thuộc tỉnh Phụng Thiên [Liêu Ninh]. Giang luân và Dương luân được gọi chung là Đại luân ; ngoài ra còn có thuyền máy nhỏ gọi là tiểu luân, chạy trên sông nhỏ.




4. Than đá, đường sắt, điện tuyến



Tổ chức thứ hai do quan đôn đốc, dân làm là mỏ than Khai Bình. Vào đầu thập niên 60 thuộc thế kỷ thứ 19, người ngoại quốc nhiều lần xin khai mỏ khoáng, hy vọng thuyền máy nhận được than đá từ nơi sở tại, khỏi phải chuyển vận từ Âu Tây. Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Thẩm Bảo Trinh cho than đá là vật cần dùng hàng ngày, lại là nhu liệu của cục thuyền chính, cơ khí, nên đồng ý mướn ngoại quốc khai quật, để Trung Quốc có mối lợi vĩnh viễn. Vào năm bàn lập Chiêu Thương Cục, Phùng Lăng Quang đề cập đến việc nhập than đá, một đôi khi ngoại quốc cố tình gây khan hiếm giả tạo ; nếu như tự khai thác được, ngoại quốc không thể gây ra khó khăn. Lý Hồng Chương bảo rằng “ Thuyền máy, cơ khí, không có thép không thành, không có than không chạy được… các xưởng tại Phúc Kiến, Thượng Hải cần thép và than nhiều… nếu như lúc bị bế quan tỏa cảng, thì công xưởng bị phế ; cho dù đã tạo ra thuyền, nếu không có than đá thì cũng không di chuyển được trong thước tấc.”


Năm 1874, các quan coi biên giới và duyên hải đều nhất trí việc khai mỏ khoáng là chương trình quan trọng. Năm 1876, Lý Hồng Chương mệnh Thịnh Tuyên Hoài khai các mỏ Quảng Tế, Hưng Quốc ; Ðường Ðình Khu điều tra mỏ than Khai Bình tại tỉnh Trực Lệ, mỏ này rất lớn, nên quyết định lập công ty, kêu người góp vốn. Nhân vì lò đúc thép cần vốn lớn, kỹ thuật cao, thép cần dùng chưa cấp bách bằng than, nên chuyên chú về than. Năm 1878 lập Khai Bình khoáng vụ cục, do Ðường Ðình Khu tổng biện, dùng Công trình sư người Anh R. R. Burnett [Bách Ái Ðặc], C. W. Kinger [Kim Ðạt]. Sau khi khai thác trong 3 năm, mỗi tháng sản xuất được 5 hoặc 600 tấn than ; trừ cung cấp cho các xưởng, cục, thuyền máy trong nước và thương thuyền ngoại quốc ; còn có thừa cho dân dùng. Lý Hồng Chương rất vui lòng, bảo rằng “ Từ nay thuyền máy Trung Quốc cùng các xưởng dùng than, không phải mua từ nước ngoài, cái gốc của phú cường đã có điềm báo hiệu.”


Vào năm Quang Tự thứ 8 [1882] Tổng đốc Lưỡng Giang Tả Tông Đường tâu rằng Bắc Dương trù liệu việc phòng thủ, chế tạo thuyền pháo, cùng cơ khí và thuyền máy tại các tỉnh, nên cần nhiều than, sắt ; xin khai mỏ tại Lợi Quốc Dịch, tại Giang Tô ; lại bắt đầu xây đường sắt, nên việc khai thác than, sắt, trở thành cấp bách. Từ đó các tỉnh thi nhau khai thác mỏ than, phần lớn do Tổng đốc đảm trách. Tỉnh Cát Lâm có đến 7 mỏ, tỉnh Hắc Long Giang có 2 mỏ, tỉnh Trực Lệ [Hà Bắc] có các mỏ lớn như Khai Bình, Đường Sơn, và những mỏ khác tại các huyện Nội Khâu [Neiqui], Lâm Thành [Lincheng], Phụ Bình [Fuping], Uyển Bình [Bắc Kinh] và các phủ Tuyên Hoá [Xuanhua], Thừa Đức [Chengde] ; tỉnh Phụng Thiên [Liêu Ninh] khai thác mỏ tại các phủ Hải Long, Cẩm Châu [Jinzhou] và huyện Bản Khê [Benxi] ; tỉnh Sơn Đông khai thác mỏ tại huyện Dịch ; tỉnh Hồ Bắc có mỏ Kinh Môn [Jingmen] ; tỉnh Hà Nam có mỏ Vũ Châu [Yuzhou] ; tỉnh Sơn tây có các mỏ Bình Định [Pingding], Phượng Đài [Fengtai] ; tỉnh Chiết Giang có các mỏ Đồng Lô [Tonglu], Dư Hàng [Yuhang] ; tỉnh Giang Tô các các mỏ Thượng Nguyên [Shangyuan], Câu Dung [Jurong] ; tỉnh Hồ Nam có các mỏ Tương Hương [Xiangxiang], Kỳ Dương [Qiyang] ; tỉnh Quảng Tây có đến 6 mỏ ; tỉnh Thiểm Tây có 7 mỏ.


Về mỏ sắt tại tỉnh Trực Lệ khai thác tại huyện Thiên An [Qian’an], Loan Châu [Luanzhou] ; Hồ Bắc có mỏ Đại Trị ; Quảng Tây tại châu Vĩnh Ninh [Yongning] ; Giang Tây tại huyện Vĩnh Tân [Yongxin] ; Vân Nam tại hai phủ cũ Khai Hoá, Quảng Nam ; Quý Châu tại Thanh Cốc. Riêng tại các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, dân chúng khai thác nhỏ tại nhiều địa điểm nên không thể kê tra hết được.


Luân Thuyền Chiêu Thương Cục là nguyên nhân gần để xúc tiến khai mỏ khoáng ; khai mỏ khoáng lại dẫn đến kinh doanh đường sắt. Nước Anh rất nhiệt tâm đối với việc xây đường sắt tại Trung Quốc, năm 1862 yêu cầu xây dựng đường từ Quảng Ðông đến Giang Tây. Năm sau Thượng Hải Dương Thương yêu cầu xây đường sắt từ Thượng Hải đến Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], lúc bấy giờ Tuần phủ Lý Hồng Chương cho rằng việc này có lợi, nên để cho Trung Quốc tự lo lấy. Năm 1864, Công trình sư đường sắt người Anh nổi tiếng, M. Stephenson [Tư Thê Phân Sinh] đến Trung Quốc, giúp lập kế hoạch xây ; chương trình từ Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] qua phía tây đến Tứ Xuyên, Vân Nam, Miến Ðiện, Ấn Ðộ ; đông đến Thượng Hải ; nam đến Quảng Châu ; từ Thượng Hải, đến Ninh Ba [Ningbo, Chiết Giang], Phúc Châu [Fuzhou, Phúc Kiến]. Lại còn một tuyến từ Trấn Giang [Zhengjiang, Giang Tô] lên phía bắc đến Thiên Tân, Bắc Kinh ; kế hoạch có ý đồ cả hai mặt chính trị và kinh tế. Công sứ Rutherford Alcock [Ha Lễ Quốc] đem trình bày cho Tổng thự, nhưng bị bác.


Năm 1875, Jardine Matheson & Co. [Di Hòa Dương Hàng] tự xây đường sắt từ Hồ Nam đến Thượng Hải, năm sau hoàn thành được một đoạn, trong ngày đầu chạy thử, một người Hoa bị cán chết, gây nên tao động. Ðường sắt đầu tiên của Trung Quốc hoàn thành và được kế tục phát triển phải kể đến đường chở than Khai Bình. Năm 1876, nhân Tuần phủ Phúc Kiến Ðinh Nhật Xương định xây đường sắt tại Ðài Loan, chương trình được chấp thuận ; Ðường Ðình Khu bèn xin Lý Hồng Chương cho xây đường sắt tại Khai Bình. Lý tuy đồng ý, nhưng lo về việc đường sắt Hồ Nam, Thượng Hải bị đình trệ, nên vẫn còn lưỡng lự. Năm 1880, Ðường Ðình Khu châm chước chương trình cũ sửa đổi, từ Lô Thai [Lutaizhen, Hà Bắc] phụ cận Thiên Tân dùng đường thủy theo Vận Hà sang hướng đông đến xã Tư Các [Xuge, Hà Bắc], rồi đường sắt bắt đầu từ Tư Các đến mỏ than tại Ðường Sơn [Tangshan, Hà Bắc], dài 18 dặm Anh. Ðường hoàn thành, lúc đầu do lừa kéo, sau đó chạy bằng đầu máy.


Trong lúc xây đường sắt Tư Các, Ðường Sơn đang tiến hành, lại có việc khẩn cấp tại Y Lê, Lưu Cầu ; Lưu Minh Truyền, một viên tướng thuộc Hoài quân tâu rằng Trung Quốc muốn tự cường cần phải xây gấp đường sắt. Viên này đề nghị lấy Bắc Kinh làm trung tâm, lập thành 4 tuyến phân ra các nơi. Phái phản đối cho rằng đường sắt có 3 điều hại : thứ nhất, người Tây dương dựa vào đó dòm ngó, gây sự yêu cầu ; thứ hai, trở ngại vì phải băng qua ruộng đất, nhà cửa, phần mộ, cầu cống ; thứ ba, đoạt mối lợi của Luân Thuyền Thương Cục. Tuy Lý Hồng Chương vẫn cho rằng đường sắt có nhiều điều hay, nhưng thừa nhận rằng phong tục chưa được khai hóa, trù ngân khoản không dễ, mượn tiền ngoại quốc dễ sinh ra mối tệ, nên việc tu tạo lớn chưa đến thời.


Liệt cường với cặp mắt cú vọ thường chăm chú vào việc Trung Quốc liệu biện tân sự nghiệp, đặc biệt đối với điện tuyến. Từ năm 1861 đến năm 1879, các nước Nga, Anh, Pháp, Mỹ mấy lần xin làm việc này, nhưng không được chấp nhận. Riêng năm 1871, công ty Ðại Bắc Ðiện Tuyến của Ðan Mạch thiết lập đường giây dưới biển từ Hương Cảng đến Thượng Hải 5. Năm 1874, Thẩm Bảo Trinh xin đặt điện tuyến qua Phúc Châu [Fuzhou, Phúc Kiến], Hạ Môn [Xiamen, Phúc Kiến], Ðài Loan ; do công ty Ðại Bắc Ðiện Tuyến phụ trách; làm trên bộ trước, nhưng bị cư dân phản đối đành phải ngừng. Năm 1879, Lý Hồng Chương cho làm thử tại Thiên Tân, Ðại Cô, dùng để liên lạc các doanh ngũ. Ðến năm 1880, xin trù biện tuyến Thiên Tân, Thượng Hải ; thiết lập Ðiện Báo Học Ðường, cho rằng việc binh cần thần tốc, điện báo là nhu cầu tối cần thiết. Rồi nhận được chiếu chỉ thi hành, cũng do công ty Ðại Bắc kiến tạo, khiến các nước Ðức, Mỹ, Anh phản đối. Năm 1881 điện báo Thiên Tân Thượng Hải làm xong, theo phương thức quan chỉ huy, thương nhân thực hiện ; lại lập tổng cục điện báo, do Thịnh Tuyên Hoài phụ trách. Từ năm 1883 đến 1884 tiếp tục làm xong các tuyến Thượng Hải, Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] ; Thiên Tân, Bắc Kinh ; Sơn Hải Quan [shanhaiguan, Hà Bắc], Lữ Thuận [Lushun, Liêu Ninh] ; Quảng Châu tới huyện Long Châu [Longzhou, Quảng Tây]. Sau đó khuyếch trương rộng hơn ; các tỉnh, cùng các biệt khu quan trọng tại phía bắc tiếp tục hoàn thành.




5. Thiết lập sứ quán tại ngoại quốc



Các quốc gia ký điều ước đã lập sứ quán tại Bắc Kinh 15 năm, riêng Trung Quốc vẫn chưa có Sứ thần thường trú tại nước ngoài. Trước kia Bân Thung xuất dương chỉ là tham quan, dùng Anson Burlingame [Bồ An Thần] đi sứ có tính chất tạm thời, rồi Sùng Hậu đến Pháp cũng chỉ để tạ tội. Vụ án Vân Nam [1876] khiến mâu thuẫn giữa Trung Anh phát sinh, một khoản trong điều ước đòi hỏi Trung Quốc phái Sứ thần đến Anh để thông hiếu và tạ tội. Tạ tội chỉ nhất thời, nhưng thông hiếu với nhiệm vụ trường kỳ ; Thanh đình theo lời xin của Cung Thân vương và Lý Hồng Chương chọn một người am hiểu về ngoại giao, nguyên là Tuần phủ Quảng Ðông Quách Tung Ðảo, Thị lang hậu bổ, giữ chức Khâm sai đại thần Công sứ nước Anh. Người đương thời cho rằng đi sứ ngoại quốc là điều nhục, riêng Quách Tung Ðảo thản nhiên giữ nhiệm vụ, khẳng khái ra đi.


Năm 1876, Quách Tung Ðảo đến Luân Ðôn. Quách cho rằng Sứ thần ngoại quốc cần cố gắng giữ hòa hiếu, gặp việc dùng lý để thắng, không chịu khuất phục ; “ Lưu tâm quan sát, tìm hiểu kỹ nguyên nhân lợi, hại, được, mất ; nếu lợi cho nước, bắt chước thi hành ”. Người Anh đối với phong thái của Quách, cũng có lời phẩm bình tốt ; chẳng bao lâu Quách kiêm nhiệm Sứ thần tại nước Pháp, cũng được người Pháp kính trọng. Quách thường gửi thư cho Lý Hồng Chương, Thẩm Bảo Trinh đề cao khí tượng Tây phương mỗi ngày một mới, học thuật chỉnh túc ; thảo luận rất tinh tường, liên quan đến thực dụng. Trước kia Trung Quốc không biết đến ngoại quốc vì không chịu học hỏi, nay Quách đem những điều tai nghe mắt thấy soạn thành nhật ký, xưng tụng Tây dương chính giáo sáng sủa, nếu như Trung Quốc thấy được đầu đuôi, ứng phó hợp cách, sẽ đưa đất nước đến chỗ phú cường ; nếu không theo sẽ mang họa. Lại đả kích Nho học thời Tống, Minh ; cùng lối khoa trương, lập luận vu vơ của sĩ đại phu hiện nay. Dư luận trong nước lúc bấy giờ đối với Quách bất lợi, như Biên tu Hà Kim Thọ đàn hặc “ Có hai lòng với nước Anh ”, người từng giao du thân với Quách như Vương Khải Vận thì cho rằng “ Ðã trúng nọc độc của Tây dương ”. Viên Phó sứ dưới quyền, liên kết với Quân cơ đại thần Lý Hồng Tảo có ý hãm hại ; khiến Quách rất đau buồn, ý muốn từ chức ; năm 1879 có lệnh triệu hồi, người kế nhiệm là Tăng Kỷ Trạch, con Tăng Quốc Phiên. Sau khi Quách trở về, người Anh vẫn không quên, cho là người cẩn trọng, đối với ngoại quốc không mất vẻ uy nghi, đối chính phủ Trung Quốc cũng tận chức, nếu được giao trọng trách, sẽ có ích cho nước này. Những rồi Quách cũng không được trọng dụng, không vào kinh đô.


Sự giao thiệp giữa Trung Anh rất phiền phức, còn giao thiệp với Mỹ được coi là tốt hơn. Người Hoa tại Mỹ đông, du học sinh cũng nhiều ; nên Trung Quốc đặt sứ quán thứ hai tại Hoa Thịnh Ðốn. Giữ chức Chánh, Phó sứ là hai người trước kia từng trông coi du học sinh tại Mỹ : Trần Lan Bân và Dung Hoành ; riêng nhiệm kỳ thứ hai không dùng Phó sứ. Ðến đời cuối Thanh chuyên dùng Ðại sứ người Quảng Ðông, có thể do phần lớn Hoa kiều thuộc vùng này, nên tiện việc tiếp xúc hơn. Nước gần đây Trung Quốc cảm thấy bị uy hiếp nhiều nhất là Nhật Bản, bởi vậy sứ quán thứ ba đặt tại nước này ; do Hà Như Chương, Trương Kỳ Quế làm Chánh, Phó sứ ; nhiệm kỳ thứ hai cũng không đặt Phó sứ. Lúc này nước Ðức đã trở thành cường quốc số 1 tại châu Âu, Trung Ðức giao thiệp nhiều, Lý Hồng Chương lại muốn học theo Ðức về quân sự, mua nhiều vũ khí của Ðức ; vì vậy sứ quán thứ tư đặt tại Bá Linh. Ðại sứ đầu tiên là Lưu Tích Hồng, hơn một năm sau Lý Phượng Bao thay thế ; Lý xuất thân từ Giang Nam chế tạo cục, có thời làm Quản đốc học sinh hải quân lưu học tại Anh Pháp. Nga là nước thứ năm, Trung Quốc đặt chuyên sứ thường trú vào năm 1887. Vì vấn đề Hoa kiều, Sứ thần tại Mỹ lúc đầu kiêm coi Tây Ban Nha và Bí Lỗ [Peru] ; sau đó miễn coi Tây Ban Nha, đổi sang coi Mặc Tây Ca [Mexico] và Cổ Ba [Cuba]. Các nước khác như Ý, Áo, Hà Lan, Tỷ Lợi Thì ; đại khái do Sứ thần tại các nước Nga, Ðức, Anh kiêm nhiệm ; đến đầu thế kỷ thứ 20, tiếp tục chuyển sang chuyên sứ. Tổng thự qui định Sứ thần đem sự việc lớn nhỏ của các nước soạn thành nhật ký, hàng tháng báo về ; lại phiên dịch thư tịch, sách báo các nước, gặp dịp trình lên. Dụng ý không phải là không tốt, nhưng rồi làm nhiều hóa nhàm, nay xem các tài liệu đó, rất ít điều có giá trị.


(còn nữa)


Hồ Bạch Thảo






1 Ðốt phá Minh Viên : xem mục liên quân Anh, Pháp công hãm Bắc Kinh, tại phần C, chương 6.


2 Buông rèm thính chính : trường hợp vua còn nhỏ, hoặc bị bệnh. Thái hậu ngồi bên kia rèm, nghe lời tâu của các vị Ðại thần và giải quyết việc chính trị.


3 Tòng đệ : em con chú.


4 Tào vận : việc giao thông vận tại trên Vận Hà [Yunhe], sông này chạy từ tỉnh Hà Bắc xuống đến Giang Tô.


5 Ðại Bắc công ty : Công ty điện thoại Ðan Mạch sáng lập năm 1869.


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
Nouvel Obs, soirée Indochine, la colonisation oubliée 25/04/2024 18:30 - 22:00 — 67 av. Pierre Mendès France, 75013 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss