Đăng Bảo Đài Sơn
Đọc Thơ Thiền Việt Nam
Đăng Bảo
Đài Sơn
Vua Bụt
Trần Nhân Tông
(1258-1308)
Phạm Thảo Nguyên
Vua Trần Nhân Tông sau hai lần lãnh đạo quốc dân phá xong giặc Nguyên, lui về làm Thái Thượng Hoàng, nhường ngôi cho con là vua Trần Anh Tông, tuy ngài còn giúp vua việc triều chính. Sau khi nhà Nguyên đã chịu bỏ ý định xâm chiếm nước ta, ngài bỏ quyền thế nơi kinh thành, vào dẫy núi Yên Tử, tỉnh Quảng Ninh. tu hạnh đầu đà tới đắc đạo. Ngài thành lập thiền phái Trúc Lâm hoàn toàn Việt Nam cho nước ta, trở thành Vua Bụt Sơ Tổ Trúc Lâm .
Ta hãy
đọc bài thơ Đăng Bảo
Đài Sơn của ngài dưới
đây. Có thể nói đây là
một trong những bài thơ đặc sắc
nhất của thơ thiền Đại Việt
cổ.
登 寶 臺 山
地 僻 臺
逾 古
時 來 春 未 深
雲 山 襄 遠 近
花 逕 半 晴 陰
萬 事 水 流 水
百 年 心 語 心
倚 欄 橫 玉 笛
明 月 滿 胸 襟
Phiên âm: Đăng Bảo Đài Sơn
Địa
tịch đài du cổ
Thời lai xuân
vị thâm
Vân sơn tương viễn
cận
Hoa kính bán tình âm
Vạn
sự thuỷ lưu thủy
Bách niên tâm
ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh
nguyệt mãn hung khâm
Thơ dịch; Lên Núi Bảo Đài
Đất
hẹp đài cổ vượt lên
Theo
mùa, xuân tiết mới nguyên vừa
về
Ngõ hoa nắng, rợp hai bề
Mây
vờn xa núi, mây kề cận bên
Việc
đời nước chảy, nước lên
Trăm
năm lòng sáng biết thêm lòng
tà
Tựa lan nâng sáo thổi ra
Đầy
lòng đầy ngực ta là sáng trăng.
Bình chú:
Trên ngọn núi Bảo Đài, trong dẫy Yên Tử, tỉnh Quảng Yên, một đêm trăng sáng, vua Bụt ngắm cảnh thổi sáo, ngài ghi lại bằng một bài thơ đẹp huyền diệu trong từng câu chữ:
Với trí của bậc liễu ngộ, mọi sự đều không phiếm diện, và có thể nhìn theo hai thế đối kháng:
Đất hẹp làm đài cổ như nổi cao lên (so sánh với chính nó)
Thời tiết luân chuyển mới vào đầu mùa xuân (mùa đông vừa qua đi)
Ngõ hoa có ánh trăng chiếu và có bóng rợp đi theo.
Mây vờn quanh núi có lúc xa, cũng có lúc gần. Nói xa và gần là đối đãi, so sánh.
Mọi việc trên đời như nước mới vừa trôi đi, là đã có nước khác tới. (Cho nên không có hạnh phúc cũng như đau khổ dài lâu).
Trở về tâm con người, vì có tâm thực nên mới biết có tâm vọng. Có lòng sáng, nên mới biết có lòng tà. Trăm năm cuộc đời tu chỗ đó.
Ngài dùng những hình ảnh nhìn thấy chung quanh mình, trong đời sống thường ngày để giúp sự thực chứng giác ngộ mà không dùng một ý niệm trừu tượng nào. Các bạn có tin không ? Xin đọc nốt hai câu cuối:
Ỷ lan
hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn
hung khâm.
(Tựa
can nâng sáo thổi ra
Đầy lòng
đầy ngực ta là sáng trăng).
Nâng sáo lên thổi đi *. Vừa thổi hết hơi ra là ánh trăng ngoài kia tràn vào đầy trong lòng, phủ đầy ngực áo: Ta hoà mình vào cả vũ trụ mênh mông đầy ánh trăng đó.
Một hình tượng vô ngã vô cùng đẹp.
Mà “Vô ngã là niết bàn”.
PTN
* Nâng ngang sáo: Theo văn hoá Á Châu, nâng ly lên là để uống, ta chỉ mời rượu bằng câu: ”Mời nâng ly”. Vua Bụt nâng ngang sáo là để thổi, là ngưòi đắc đạo, nghĩa là lúc nào cũng giác, cũng sống trong chánh niệm, không bao giờ ngài nâng sáo lên mà không thổi. Muốn thổi sáo phải có hơi ra rất mạnh để sáo lên tiếng ngân, vừa thổi hơi ra hết là lập tức không khí được hút vào tràn đầy phổi. Thổi sáo chính là thở ra vào khuếch đại.
Diễn Đàn
: Một thân hữu vừa cho
chúng tôi biết bài thơ
thiền này đã có một bản dịch khác, do học giả Ngô Tất Tố thực hiện.
Ngoài ra, trên trang mạng Thiền Tông Việt Nam, còn có
bài giảng của Hoà thượng Thích Thanh Từ về thơ Thiền của Sơ
tổ phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông, mở đầu với bài Đăng Bảo Đài Sơn này. cập nhật 10.12.2010, 10 giờ. Người biên tập hối lỗi : Phiên âm không khác, nhưng thực ra hai bản Hán văn có khác nhau ở hai chữ: 1) chữ "tịch" trong câu đầu bản trong Wikisource viết 寂, nghĩa là "hoang vắng", như Ngô Tất Tố đã dịch; 2) chữ "tương" trong câu ba, bản Wikisource viết 相, nghĩa là "cùng nhau". Do đó chúng tôi thấy riêng về hai điểm này, hai bản dịch khác nhau vì đã dùng hai dị bản chữ Hán khác nhau. H.T. |
|
Bản
dịch Ngô Tất Tố
|
|
Dịch nghĩaĐất hẻo lánh, đài
thêm cổ kính, |
Dịch thơĐất vắng, đài thêm cổ, |
Các thao tác trên Tài liệu