Giao Chỉ, Giao Châu
Giao Chỉ, Giao Châu
Hồ Bạch Thảo
Tuỳ theo các thời điểm trong quá trình lịch sử, hai địa danh Giao Chỉ, Giao Châu thường đổi thay nên dễ gây sự lầm lẫn ; có lúc Giao Chỉ là vùng đất lớn bao gồm cả Giao Châu, ngược lại cũng có khi Giao Châu thống thuộc cả Giao Chỉ. Muốn hiểu một cách rốt ráo, cần phải đọc kỹ 24 bộ sử Trung Quốc (Nhị Thập Tứ Sử). Khốn nỗi những bộ sử lớn này có đến gần 1 vạn quyển sách ; giả sử có sẵn, cũng phải bỏ ra hàng chục năm mới đọc hết. May nhờ kỹ thuật của thế kỷ thứ 21, 24 bộ sử được giới thiệu trên mạng ; người đọc có thể dùng cách highlight các từ Giao Châu, Giao Chỉ, để lấy ra những đoạn văn cần thiết liên quan đến vấn đề muốn tìm, nhờ vậy việc nghiên cứu trở nên dễ dàng hơn. Sau đây là những tóm tắt sự hiểu biết về Giao Châu, Giao Chỉ :
Ðịa danh Giao Chỉ xuất hiện đầu tiên vào đời nhà Hán. Sách Hán Thư chép năm Nguyên Ðỉnh thứ 6 [-111] Hán Vũ Ðế sai Phục Ba Tướng quân Lộ Bác Ða [Ðức] đánh Lữ Gia nước Nam Việt, sau khi bình định chia nước này thành 9 quận : Ðam Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam ; tất cả các quận này đều cho thống thuộc vào bộ Giao Chỉ.
南粵已平,遂 以其地爲儋耳、珠崖、南海、蒼梧、郁林、合浦、交 止、九真、日南九郡 (Nam Việt dĩ bình, toại dĩ kỳ địa vi Ðam Nhĩ, Châu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cửu quận) (1)
Nói riêng về 3 quận nằm trong lãnh thổ nước ta ngày nay, Hậu Hán Thư (2) xác nhận Giao Chỉ cách kinh đô Lạc Dương 11000 lý [5500km], Cửu Chân cách Lạc Dương 11580 lý [5790 km], Nhật Nam cách Lạc Dương 13400 lý [6700 km]. Ngày xưa làm đường phải dựa theo hình khe thế núi, nên quanh co dài hơn xa lộ hiện nay ; tuy nhiên có thể căn cứ vào các con số khoảng cách nêu trên, cùng tên các huyện trực thuộc của quận, để có thể phỏng định rằng quận Giao Chỉ tương đương với Bắc Việt, ngoại trừ các tỉnh phía tây như Lai Châu, Ðiện Biên, Sơn La lúc bấy giờ thuộc các bộ tộc thiểu số. Quận Cửu Chân có thể gồm tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An ngày nay. Lúc bấy giờ chưa có nước Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ) nên vị trí quận Nhật Nam khoảng từ Hà Tĩnh đến Quảng Nam.
Có một tác giả viết rằng các quận Cửu Chân, Nhật Nam được nhà Hán đặt tên theo khái niệm vậy thôi, chứ không có thực ; điều suy luận này không có cơ sở. Ðể làm bằng, xin dịch nguyên văn một đoạn trong Hậu Hán Thư, mục Quận Quốc, quyển 113, chép về các quận này như sau :
- Quận Cửu Chân do Hán Vũ đế đặt, phía nam Lạc Dương 11.580 lý, có 5 thành, 46.513 hộ, 209.894 người. Gồm các huyện : Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên.
- Quận Nhật Nam : đời Tần gọi là Tượng Quận, do Hán Vũ đế đổi tên ; phía nam Lạc Dương 13.400 lý, có 5 thành, 18.263 hộ, 100.676 người. Gồm các huyện : Tây Quyển, Chu Ngô, Lô Dung, Tượng Lâm, Tỷ Cảnh.
Theo Tấn Thư (3) vào thời Tam Quốc năm Kiến An thứ 8 [203] chấp nhận lời xin của Thứ sử Trương Tân và Thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp cho lập Giao châu, và phong Trương Tân làm Giao Châu Mục, lỵ sở tại Phiên Ngung. Buổi đầu Giao Châu coi 7 quận : Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Như vậy vị trí Giao Châu bằng nước Nam Việt xưa của Triệu Ðà, ngoại trừ hai quận Chu Nhai vả Ðam Nhĩ tại đảo Hải Nam không tính vào.
Cũng vào thời Tam Quốc, đời Ngô Hoàng Vũ năm thứ 5 [226] sau khi Sĩ Nhiếp mất, tách Giao Châu thành hai châu : Giao Châu và Quảng Châu. Quảng Châu gồm 3 quận : Hải Nam, Thương Ngô, Uất Lâm, lỵ sở tại Phiên Ngung. Giao Châu gồm 4 quận : Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố ; lỵ sở tại thành Long Biên [tức Hà Nội ngày nay]. Như vậy lãnh thổ Giao Châu lúc này ngoài 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, còn thêm quận Hợp Phố tại tỉnh Quảng Tây.
Cuối thời Tam Quốc, Tôn Hạo nhà Ngô tách quận Giao Chỉ ra, đặt thêm hai quận Tân Xương, Vũ Bình ; tách quận Cửu Chân đặt thêm quận Cửu Ðức. Quận Tân Xương có huyện Mê Linh đời Hán, nên vị trí vào khoảng tỉnh Vĩnh Phú, Yên Bái ; quận Vũ Bình vào khoảng tỉnh Hà Nam, Hà Ðông ngày nay. Tại Cửu Chân lại đặt thêm quận Cửu Ðức, trong quận có huyện Hàm Hoan đời Hán, vậy có thể tương đương với phần lớn tỉnh Nghệ An ngày nay. Như vậy Giao Châu có thêm 3 quận mới, tổng số lên đến 7 quận.
Ðiều đáng lưu ý về quận Nhật Nam ; vào thời Hán mạt có viên Công tào tên là Khu Liên thuộc huyện Tượng Lâm quận này nổi lên giết huyện lệnh, tự lập làm Vương, mở đầu cho nước Lâm Ấp (Chiêm Thành). Rồi các đời sau nước Lâm Ấp mở mang ra đến tận miền bắc quận Nhật Nam, mấy lần mang quân đánh phá các quận Cửu Chân và Cửu Ðức. Như vậy vị trí quận Nhật Nam thời Tam Quốc chỉ còn khoảng tỉnh Hả Tĩnh ngày nay.
Theo Tân Ðường Thư (4), vào đời Ðường Trung Quốc được chia thành 10 đạo, đạo cuối cùng nằm ở phía cực nam có tên là Lĩnh Nam. Ðạo Lĩnh Nam lãnh thổ tương đương với nước Nam Việt xưa thời Triệu Ðà ; đạo này được chia thành nhiều quận, một quận lớn nằm trong lãnh thổ nước ta có tên là Giao Chỉ. Cần nhấn mạnh thêm từ đời Tuỳ đến đời Ðường địa danh Giao Chỉ thường được thay đổi bằng tên khác như Giao Châu hoặc An Nam. Như vào năm Vũ Ðức thứ 5 [622] nhà Ðường đặt Giao Châu đại Tổng quản, năm Ðiều Lộ thứ nhất đổi thành An Nam Ðô hộ phủ [679]. Như vậy vào thời Tam Quốc quận Giao Chỉ là một bộ phận của Giao Châu, nay Giao Châu được dùng thay tương đương với Giao Chỉ. Lãnh thổ quận Giao Chỉ lúc bấy giờ cũng nhỏ hơn Giao Chỉ thời Tam Quốc, vì có thêm vài quận mới được đặt ra tại vùng đất Bắc Việt hiện nay, như :
- Lục châu Ngọc Sơn quận : sách Vân Ðài Loại Ngữ của Lê Quí Ðôn cho rằng tại trấn Yên Quảng (5).
- Phong Châu Thừa Hoá quận : có Tân Xương là một quận đã được đặt ra thời Tam Quốc, vị trí tại ngã ba Bạch Hạc tỉnh Vĩnh Phú.
- Trường Châu Văn Dương quận : vùng này thuộc kinh đô Hoa Lư [Ninh Bình] vì thời nhà Tống Sứ giả Tống Cảo đến phong cho vua Lê Ðại Hành tại đây.
Ðến thời kỳ tự chủ, trong giai đoạn đầu triều đình Trung Quốc thường dùng danh hiệu Giao Chi để phong tước cho nước ta, như :
- Năm 923, Ðường Trang Tông phong Dương Ðình Nghệ làm Giao Chỉ Tiết độ sứ.
- Năm 973, Tống Thái Tổ phong vua Ðinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận vương.
- Năm 993, Tống Thái Tông phong vua Lê Ðại Hành chức Giao Chỉ Quận vương.
Mặc dầu nhận sắc phong, nhưng trong nội bộ vua nước ta tự chọn lấy quốc hiệu riêng, không dùng để xưng với Trung Quốc :
- Thời nhà Ðinh sách phong vua Ðinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương, nhưng chính nhà vua đặt tên nước ta là Ðại Cồ Việt.
- Thời vua Lý Anh Tông [1164] nhà Tống phong vua nước ta An Nam Quốc vương, nhưng ở trong nước thì vua Lý Thánh Tông [1054] đổi tên nước là Ðại Việt.
- Thời vua Gia Long [1803] nhà Thanh đặt tên nước ta là Việt Nam, nhưng vua Minh Mệnh đổi tên nước là Ðại Nam [1838].
Ðối với triều đình Trung Quốc, quốc hiệu An Nam phong cho nước ta dưới thời nhà Lý có giá trị tương đương với việc công nhận nền độc lập ; bởi vậy suốt thời tự chủ các triều đại Lý, Trần và ngay cả dưới thời nhà Hồ, mọi văn thư chiếu dụ gửi sang nước ta đều dùng quốc hiệu An Nam. Cho đến khi nhà Minh đặt nền đô hộ, thì tên An Nam bị đổi thành Giao Chỉ ; rồi Giao Chỉ lại được chia thành 15 phủ, 3 châu. Một phủ lớn, mang tên là Giao Châu, bao gồm phần đất Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam và Vĩnh Phú hiện nay. Như vậy dưới thời Tam Quốc, Giao Châu lãnh 4 quận, trong đó có quận Giao Chỉ, ngược lại thời Minh thuộc thì Giao Chỉ cai quản phủ Giao Châu. Nhưng rồi đến đời Tuyên Ðức thứ 2 [1427], vua Lê Lợi giành được độc lập, nhà Minh tiếp tục liên lạc ngoại giao với ta, quốc hiệu An Nam lại được dùng lại.
Lược qua trang lịch sử, thấy được rằng địa danh Giao Chỉ, Giao Châu ; thời Triệu Ðà chưa có, các thời tự chủ không dùng nó. Ðó là tên của thời nô lệ, người học sử cần phải biết nó, nhưng không bao giờ mong muốn những tên này được đặt thêm một lần nữa.
Hồ Bạch Thảo
(1) Hán Thư, quyển 95, Nam Việt.
(2) Hậu Hán Thư, Chí, quyển 23.
(3) Tấn Thư, quyển 15.
(4) Tân Ðường Thư, Ðịa Lý chí, quyển 43.
(5) Dẫn theo Ðào Duy Anh, Ðất nước Việt Nam qua các đời, trang 98.
Các thao tác trên Tài liệu