Học thuyết giá trị lao động mới (tiếp theo)
HỌC THUYẾT
“GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG” MỚI!
(tiếp theo)
Đàm Văn Vĩ
Theo triết học của Marx: thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Vì vậy chúng ta hãy nhìn vào thực tiễn để đánh giá lý luận của Marx, cũng như xây dựng lý luận mới. Chúng ta sẽ bắt đầu từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá giản đơn, nền sản xuất mà ở đó có sự trao đổi trực tiếp các loại hàng hoá với nhau theo phương thức hàng đổi hàng. Đó là trường hợp trao đổi hàng hoá của một người nông dân và một người thợ rèn theo tỷ lệ: 2 cân gạo = 1 con dao. Tại sao hai hàng hoá khác nhau với số lượng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau? Câu trả lời là hai loại hàng hoá này có cùng một lượng giá trị hay công sức (sức lao động) mà mỗi người bỏ ra để sản xuất hàng hoá của họ là giống nhau. Thời gian lao động - lượng giá trị của hàng hoá - để làm ra hàng hoá là một đại lượng tương đối, hay đó là một sự "trừu tượng hoá". Như Marx đã viết: "Việc quy như thế là một sự trừu tượng hoá, nhưng đó là sự trừu tượng hoá diễn ra hàng ngày trong quá trình sản xuất xã hội. Việc quy mọi hàng hoá thành thời gian lao động không phải là một sự trừu tượng hoá lớn hơn, đồng thời nó cũng không phải là một sự trừu tượng hoá kém hiện thực hơn việc quy mọi thể hữu cơ thành không khí. Thực ra lao động được đo bằng thời gian như thế không thể hiện ra như là lao động của những chủ thể khác nhau, mà ngược lại, những cá nhân lao động khác nhau thể hiện ra là những khí quan giản đơn của lao động đó. Nói cách khác, lao động như nó biểu hiện ra trong các giá trị trao đổi, có thể gọi là lao động chung của con người. Sự trừu tượng hoá đó của lao động nói chung của con người tồn tại trong thứ lao động trung bình mà mỗi cá nhân trung bình của xã hội nhất định có thể thực hiện được, đó là sự chi phí sản xuất nhất định về bắp thịt, thần kinh, óc… của con người. Đó là thứ lao động giản đơn mà mỗi cá nhân trung bình có thể học được và phải được thực hiện dưới một hình thức này hay hình thức khác. Bản thân tính chất của thứ lao động trung bình đó thay đổi tuỳ theo các nước và các thời đại văn minh, nhưng trong mỗi xã hội đang tồn tại thì nó thể hiện ra như là cái đã được xác định. Lao động đơn giản là bộ phận lớn hơn cả trong toàn khối lượng lao động của xã hội tư sản, như người ta có thể tham khảo bất kỳ thống kê nào. A sản xuất Sắt trong 6 giờ và Vải trong 6 giờ, và B cũng sản xuất Sắt trong 6 giờ và Vải trong 6 giờ, hay A sản xuất Sắt trong 12 giờ và B sản xuất Vải trong 12 giờ, thì đấy rõ ràng chỉ là cách sử dụng khác nhau của cùng một thời gian lao động giống nhau mà thôi" và "Việc quy định giá trị trao đổi bằng thời gian lao động còn giả định một lượng lao động ngang nhau, đã được vật hoá trong một hàng hoá nhất định, ví dụ một tấn Sắt, không kể là lao động của A hay của B, hoặc là những cá nhân khác nhau dùng một số lượng thời gian lao động bằng nhau để sản xuất ra cùng một giá trị sử dụng nhất định giống nhau về lượng và chất. Nói cách khác, người ta giả định là thời gian lao động chứa đựng trong một hàng hoá là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, nghĩa là thời gian lao động cần có để sản xuất ra cùng một loại hàng hoá giống như thế trong các điều kiện sản xuất chung đó"[30]. Những luận điểm này là hoàn toàn đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn, và lượng giá trị của hàng hoá đúng bằng thời gian để sản xuất ra hàng hoá đó. Người nông dân và người thợ cơ khí thủ công sản xuất ra hàng hoá bằng các công cụ sản xuất giản đơn, họ đem ra chợ trong làng, xã của mình để trao đổi và việc trao đổi là hợp lý với họ khi họ nhận thấy rằng giá trị của hàng hoá (sức lao động, hay thời gian lao động mà họ đã bỏ ra để làm nó) của 2 kg gạo bằng giá trị của 1 con dao. Họ thực hiện việc trao đổi này như là việc tất yếu, đã có từ trước do thế hệ cha ông để lại. Nhưng vấn đề chủ yếu là họ chưa phải suy nghĩ về thị trường tiêu thụ, về vấn đề lưu thông.
Nền kinh tế hàng hoá hiện nay thì không phải hoàn toàn như vậy. Trao đổi không chỉ diễn ra giữa từng cá nhân tự mình sản xuất, tự mình trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng trong một không gian hẹp của làng xã nữa mà sự phân công lao động cùng với việc mở rộng không gian trao đổi đã làm cho nền kinh tế hàng hoá hiện nay khác hẳn về bản chất với nền sản xuất hàng hoá giản đơn. Trong nền sản xuất hàng hoá, để cho ra đời một loại hàng hoá và bán được nó (thực hiện được giá trị của hàng hoá), thì nhà tư bản phải trả lời hàng loạt câu hỏi như: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào? vận chuyển và tiêu thụ ra sao? … Đó việc tìm ra loại hàng hoá nào để sản xuất, sản xuất cho đối tượng tiêu dùng nào, sản xuất như thế nào (thành lập công ty, xây dựng nhà xưởng, mua máy móc, chọn công nghệ, tuyển dụng lao động, xây dựng hệ thống quản trị và quản lý hệ thống đó…), tiêu thụ hàng hoá đó như thế nào, vận chuyển ra sao, cạnh tranh như thế nào… Trong khi nền kinh tế hàng hoá giản đơn thì thời gian lao động sản xuất trực tiếp là yếu tố duy nhất để tạo nên và đóng góp vào giá trị của hàng hoá (vì các lao động khác như lưu thông hay nhà tư bản chưa hề phải tính tới và do đó không được tính vào giá trị của hàng hoá) còn trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, sản xuất trực tiếp (lao động của công nhân) chỉ là một bộ phận trong hệ thống các bộ phận khác nhau đóng góp sức lao động của mình để làm ra và thực hiện được giá trị của hàng hoá. Ngoài công nhân sản xuất trực tiếp ra chúng ta còn có sự đóng góp sức lao động của các bộ phận khác như là đội ngũ quản lý, kỹ thuật, kế toán, nhân sự, kinh doanh, vận chuyển, bảo vệ, bán hàng, giám đốc… và cả chủ sở hữu, tức là nhà tư bản nữa. Không có sự đóng góp sức lao động của tất cả các bộ phận khác nhau trong một công ty thì không bao giờ cho ra đời được hàng hoá chứ chưa nói đến thực hiện giá trị của nó. Nếu chỉ riêng có bộ phận sản xuất trực tiếp mà không có các bộ phận khác cùng bỏ sức lao động, thì không thể sản xuất ra hàng hoá hoặc có sản xuất một sản phẩm nào đó thì cũng không thể thực tiêu thụ được nó tức là không thể biến sản phẩm đó thành hàng hoá, mà một sản phẩm không trở thành hàng hoá, không trao đổi được thì lấy đâu ra giá trị của hàng hoá đó, hay lao động của người sản xuất trực tiếp không tạo ra được hàng hoá và lao động của riêng những người sản xuất trực tiếp không tạo ra giá trị. Không sản xuất ra được hàng hoá và không thực hiện được giá trị của nó thì nền kinh tế hàng hoá sẽ không tồn tại được chứ chưa nói gì đền nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, hay lý luận giá trị của Marx trở thành vô giá trị.
Hơn thế nữa học thuyết của Marx là rất phiến diện, không đầy đủ khi nó đã không tính đến hàng hoá công cộng và lao động tạo ra giá trị trong lĩnh vực hàng hoá công cộng. Bản thân hàng hoá tư nhân (hàng hoá do doanh nghiệp tư nhân làm ra) và bản thân doanh nghiệp tư nhân chưa đủ để tạo nên nền kinh tế hàng hoá tư bản. Tự bản thân mình, các doanh nghiệp tư nhân không thể làm nên được điều gì cả, các doanh nghiệp tư nhân và hàng hoá tư nhân chỉ là điều kiện cần cho sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tư bản. Các doanh nghiệp tư nhân (hiểu theo nghĩa là có một hoặc một vài chủ sở hữu nhưng không phải là sở hữu toàn xã hội như doanh nghiệp nhà nước) đã và đang tồn tại trong một hệ thống Nhà nước nhất định, trong một thể chế nhất định. Không có hệ thống Nhà nước với các luật lệ, các điều kiện cơ sở vật chất, xã hội được Nhà nước nhất định cung cấp thì không thể có hàng hoá tư nhân và doanh nghiệp tư nhân (tức là không tồn tại Chính phủ với các luật lệ, các cơ sở vật chất xã hội do Chính phủ cung cấp). Mà không có doanh nghiệp tư nhân và hàng hoá tư nhân, không có sự trao đổi tự do trong một hệ thống luật lệ nhất định thì cũng không có nền kinh tế hàng hoá hiện nay. Nhà nước, thể chế xã hội là điều kiện đủ để có nền kinh tế hàng hoá tư bản. Như vậy, ngoài những lao động trong doanh nghiệp tư nhân (cả lao động trực tiếp và gián tiếp trong doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ) đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá thì những lao động trong lĩnh vực hành chính công như nhà làm luật, nhà quản lý xã hội, ngân hàng, bác sĩ công, giáo viên công, nhà khoa học… cũng đóng góp sức lao động của mình vào giá trị của hàng hoá. Mỗi công chức, viên chức trong các lĩnh vực làm việc của mình sẽ đóng góp sức lao động vào một khâu, một công đoạn nhất định để vận hành nền kinh tế thị trường và qua đó đóng góp vào giá trị của hàng hoá, tất nhiên sự đóng góp này là gián tiếp. Từ việc đảm bảo An ninh, Quốc phòng, luật lệ, cung cấp sức khỏe thể chất, tinh thần, kiến thức cho người lao động, khoa học kỹ thuật công nghệ cho sản xuất đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho việc sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sức lao động của họ đóng góp cho giá trị của hàng hoá sẽ được tính gián tiếp vào chi phí thành lập và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân liên quan đến lĩnh vực hành chính công, đóng góp cho sức khỏe thể chất, tinh thần và kiến thức của người lao động… Và giá trị do họ đóng góp vào giá trị của hàng hoá sẽ được họ nhận lại bằng tiền lương từ các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm,… mà doanh nghiệp tư nhân phải trả và đóng góp cho Chính phủ. Marx cho rằng chỉ lao động trực tiếp mới đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá và các bộ phận khác chỉ nhận phần giá trị được phân phối lại do bộ phận sản xuất tạo ra. Nhưng nếu nhìn một cách hệ thống, tổng thể như ở trên thì lao động của những người được hưởng lương (cả tư nhân và chính phủ) và nhà tư bản đều đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá.
Việc Marx hiểu một cách không đầy đủ về hàng hoá và việc xây dựng khái niệm giá trị của hàng hoá trên khái niệm hàng hoá không đầy đủ, việc áp dụng lý luận giá trị trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn cho nền kinh tế hàng hoá tư bản đã dẫn đến sai lầm, theo logic, cho khái niệm giá trị thặng dư và lợi nhuận. Để hiểu được lý luận về giá trị thặng dư của Marx chúng ta cần bắt đầu từ công thức chung của tư bản. Tiền tệ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ vân động theo công thức:
T - H … Sx … H’ - T’
Như Ông đã viết: “Quá trình tuần hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn; căn cứ vào sự trình bày ở tập thứ nhất, thì các giai đoạn ấy hình thành nên chuỗi sau đây:
Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản, với tư cách là người mua, xuất hiện trên thị trường hàng hoá và thị trường lao động; tiền của hắn chuyển hoá thành hàng hoá, hay thông qua hành vi lưu thông T – H.
Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng một cách sản xuất những hàng hoá mà hắn đã mua. Hắn hoạt động với tư cách là người sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa; tư bản của hắn thực hiện quá trình sản xuất. Kết quả là có một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất ra hàng hoá đó.
Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán; hàng hoá của hắn chuyển hoá thành tiền, hay thực hiện hành vi lưu thông H – T.
Do đó, công thức có thể ứng dụng cho tuần hoàn của tư bản tiền tệ là:
T – H … Sx – H’ … T’, đường chấm chỉ ra rằng quá trình lưu thông bị đứt quãng, còn H’ và T’ là H và T đã tăng thêm giá trị thặng dư”[31]. Với T là số tiền – tư bản (với tư bản được hiểu là giá trị đem lại giá trị thặng dư bị nhà tư bản bóc lột) ban đầu được dùng vào việc thành lập công ty, thuê đất đai, xây nhà xưởng, mua máy móc, nguyên vật liệu, mua sức lao động của người làm thuê… (tất cả các hàng hoá này đều là H). Sau đó nhà tư bản sẽ sản xuất ra hàng hoá mới là H’. Khi nhà tư bản bán được hàng hoá H’ và thu được số tiền mới là T’, và lợi nhuận là: P = T’ – T. Và P là số tiền dôi ra so với số tiền ban đầu nhà tư bản đã đầu tư, và Marx gọi đó là giá trị thặng dư. Nếu tính trên quy mô toàn xã hội và nếu giá trị của hàng hoá bằng với giá cả của nó thì lợi nhuận P cũng chính là giá trị thặng dư m, hay P = m. Karl Marx đã viết: “Giá trị thặng dư được quan điểm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hoá là lợi nhuận”[32].
Từ lý luận giá trị và giá trị thặng dư của mình, Marx đã đưa ra công thức về lượng giá trị của hàng hoá:
W = C + V + m (1) [33]
Với W là lượng giá trị của hàng hoá.
C là tư bản bất biến, là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển hoá vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
V là tư bản khả biến, là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động của những người làm thuê. Những người làm thuê được Marx hiểu là những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp (chủ yếu là công nhân) chứ không phải là những người làm việc trong lĩnh vực ngoài sản xuất trực tiếp như là lưu thông… và những người làm việc trong lĩnh vực hành chính công thì càng không được tính.
Còn m là giá trị thặng dư của người công nhân và nó bị nhà tư bản chiếm không, hay m là lượng giá trị dôi ra mà nhà tư bản đã bóc lột từ người công nhân.
Bây giờ chúng ta sẽ làm rõ hơn những hạn chế trong lý luận của Marx về giá trị và giá trị thặng dư. Trong khái niệm giá trị của hàng hoá, Marx cho rằng chỉ lao động tham gia vào quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị của hàng hoá, nên Ông cho rằng các lao động khác không tạo ra giá trị, hay giá trị thặng dư chỉ là lượng giá trị lao động dôi ra trong lĩnh vực sản xuất; hay giá trị thặng dư không nảy sinh trong quá trình lưu thông mà nảy sinh trong quá trình sản xuất. Marx viết: “nếu chúng ta so sánh quá trình tạo ra giá trị với quá trình làm tăng giá trị, thì chúng ta sẽ thấy rằng, quá trình làm tăng giá trị chẳng qua cũng là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá một thời điểm nào đó mà thôi. Nếu quá trình tạo ra giá trị kéo dài đến thời điểm ở đó giá trị sức lao động do tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới thì đó là quá trình giản đơn tạo ra giá trị. Còn nếu như quá trình tạo ra giá trị vẫn tiếp diễn quá thời điểm đó, thì nó trở thành một quá trình làm tăng giá trị”[34]. Và nguyên nhân cơ bản của việc tăng giá trị là do hàng hoá sức lao động có một thuộc tính cơ bản là khi được đưa vào tiêu dùng thì nó có thể tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn lượng giá trị ban đầu được mua. Marx lập luận rằng: “Các giá trị chỉ có thể tăng lên nhờ giá trị nào đó xuất hiện, có nghĩa là được tạo ra trội thêm ngoài vật ngang giá” và “Giá trị thặng dư – xét chung đó là giá trị trội thêm ngoài vật ngang giá. Xét theo đúng định nghĩa thì vật ngang giá chỉ đồng nghĩa với chính nó. Vì vậy giá trị thặng dư không bao giờ có thể xuất hiện từ vật ngang giá; có nghĩa là giá trị thặng dư thoạt đầu không thể xuất hiện từ lưu thông được; nó phải xuất hiện từ chính quá trình sản xuất của tư bản”[35]. Suy luận của Marx ở đoạn trích này có vấn đề về mặt logic, đó là sự lẫn lộn vấn đề trao đổi trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn với vấn đề lưu thông trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Đúng là các giá trị chỉ có thể tăng lên nhờ giá trị nào đó xuất hiện, đó là sự bảo toàn giá trị của hàng hoá, chẳng có gì tự nhiên sinh ra cũng chẳng có gì tự nhiên mất đi - một quan điểm duy vật biện chứng. Và giá trị thặng dư chẳng bao giờ có thể xuất hiện từ vật ngang giá được, bởi vì vật ngang giá chỉ là một hàng hoá biểu hiện giá trị của một hàng hoá khác - hàng hoá mang hình thái tương đối của giá trị. Nó chỉ là chính nó. Và khi trao đổi ngang giá thì chẳng bao giờ có chuyện giá trị tự tăng lên được, khi một anh được lợi thì tất có anh bị thiệt nhưng tính tổng giá trị thì nó vẫn thế. Đó là lý do giải thích tại sao giá trị thặng dư không xuất hiện từ trao đổi. Nhưng trao đổi hàng hoá không phải là lưu thông hàng hoá, trao đổi chỉ là một hành vi trong quá trình lưu thông hàng hoá của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa mà thôi. Vì vậy Marx kết luận theo kiểu suy diễn “có nghĩa là giá trị thặng dư thoạt đầu không thể xuất hiện từ lưu thông được; nó phải xuất hiện từ chính quá trình sản xuất tư bản” là sai. Kết luận đúng phải như thế này: có nghĩa là giá trị thặng dư thoạt đầu không thể xuất hiện từ trao đổi được; nó phải xuất hiện trước quá trình trao đổi hàng hoá. Và trước quá trình trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất cộng với quá trình lưu thông, nhưng quá trình lưu thông ở đây chỉ tính đến thời điểm trao đổi hàng hoá. Sản xuất hàng hoá giản đơn hay sản xuất hàng hoá tư bản ở đây không phải là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Vấn đề quyết định ở đây là hàng hoá và trao đổi hàng hoá là cơ sở của nền kinh tế hàng hoá chứ không phải chỉ là cơ sở của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Phạm trù hàng hoá, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá và giá trị thặng dư là phạm trù của nền kinh tế hàng hoá chứ không phải là phạm trù của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Chỉ có phạm trù Tư bản là phạm trù của riêng nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, với mối quan hệ đặc trưng tư bản – lao động mà thôi. Giá trị thặng dư đơn giản là do lao động thặng dư tạo ra ngoài lao động cần thiết. Giá trị thặng dư là do lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết. Khi hàng hoá được trao đổi với nhau, và giá trị của hàng hoá được thực hiện, thì giá trị của hàng hoá đó chứa đựng cả giá trị thặng dư. Như ở trên đã phân tích về lao động của người nông dân không có lao động làm thuê, họ vẫn làm ra giá trị thặng dư và tự mình nhận một phần giá trị thặng dư đó thông qua trao đổi hàng hoá. Và rõ ràng việc trao đổi đó là ngang giá, trao đổi với đúng giá trị của nó. Luận điểm này cũng không làm thay đổi khái niệm bóc lột của Marx, mà nó củng cố thêm khái niệm bóc lột của Marx, đó là việc nhà tư bản mua sức lao động của người làm thuê với đúng đúng giá trị của nó, nhưng hàng hoá sức lao động lại có một giá trị sử dụng rất đặc biệt đó là: nó sản sinh ra một lượng giá trị lớn hơn bản thân nó trong quá trình lao động. Nhà tư bản mua nó và bắt nó tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị được trả và chỉ trả cho nó giá trị sau khi giá trị sức lao động đã được vật hoá vào sản phẩm nhất định (lĩnh lương sau khi làm việc), và sản phẩm đó là những hàng hoá trong tương lai. Khi hàng hoá được bán, nhà tư bản bán hàng hoá đúng với giá trị của nó và phần giá trị dôi ra của lao động làm thuê, là giá trị thặng dư – cái sinh ra do thời gian lao động thặng dư của người làm thuê - bị nhà tư bản chiếm không (tất nhiên là còn tính đến vấn đề nộp thuế và chia chác nữa nhưng để cho đơn giản hơn tạm thời chúng ta chưa tính đến). Trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, lưu thông là cả một quá trình gồm nhiều công đoạn và có nhiều người lao động tham gia, còn việc trao đổi chỉ là sự việc kết thúc của quá trình lưu thông sau sản xuất (quá trình tiêu thụ hàng hoá hay là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá). Trước việc trao đổi hàng hoá là quá trình lao động trong các lĩnh vực khác của lưu thông để thực hiện được hành vi trao đổi – hành vi thực hiện giá trị của hàng hoá. Các lao động đó đều đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Nếu lưu thông ở đây chỉ là đơn thuần là trao đổi trực tiếp hàng hoá lấy hàng hoá như trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn thì không bao giờ giá trị thặng dư có thể xuất hiện từ lưu thông được. Nhưng trong nền kinh tế hàng hoá tư bản thì lưu thông là một quá trình có sự đóng góp sức lao động của nhiều người lao động. Không có sự đóng góp sức lao động của họ thì hàng hoá không thể thực hiện được giá trị. Họ “tạo ra” giá trị và “làm tăng” giá trị như lao động trong lĩnh vực sản xuất vậy. Trong lưu thông giá trị của hàng hoá sẽ tăng lên chứ không phải là sự bảo toàn giá trị của hàng hoá như trong lưu thông của nền sản xuất hàng hoá giản đơn – khi mà lưu thông không có gì khác hơn là việc trao đổi trực tiếp hàng hoá – hàng hoá, hành động không cần đóng góp của lao động nào khác ngoài người trực tiếp sản xuất hàng hoá đó (trao đổi của người nông dân và người thợ rèn). Với lưu thông ở đây được hiểu là quá trình chuẩn bị sản xuất T – H và quá trình tiêu thụ hàng hoá H’ – T’. Marx đã liên tiếp mắc phải sai lầm khi Ông viết: “Giá trị thặng dư mà nhà tư bản có được vào giai đoạn cuối của quá trình sản xuất, - là giá trị thặng dư, với tư cách là giá cả đã tăng lên của sản phẩm, chỉ được thực hiện trong lưu thông, song chỉ được thực hiện như kiểu tất cả các giá cả đã được thực hiện trong lưu thông chỉ vì lý do những giá cả ấy đã có trước lưu thông trên ý niệm, đã được quyết định từ trước khi chúng được ném vào lưu thông”[36]. Marx đã không hiểu bản chất của vấn đề khi cho rằng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được là ở cuối giai đoạn sản xuất. Ở cuối giai đoạn sản xuất, một sản phẩm chưa trở thành hàng hoá, tức là chúng chưa thực hiện được giá trị (chưa được bán đi); một sản phẩm mà chưa được bán thì lấy đâu ra giá trị của nó, chứ chưa nói đến giá trị thặng dư. Marx đã nhìn vào hiện tượng mà chưa hiểu bản chất của vấn đề, việc “giá cả đã có từ trước lưu thông trên ý niệm” và “được quyết định từ trước khi chúng được ném vào lưu thông” (trước khi đưa vào tiêu thụ) không đồng nghĩa với việc lưu thông không đóng góp vào quá trình “tạo ra” và “làm tăng” giá trị. Tất cả những người hiểu biết về kinh tế thị trường ngày nay đều biết rằng, khi hàng hoá được sản xuất và tiêu thụ thì nhà tư bản đã tính toán được trong đầu của mình là họ sẽ sản xuất và tiêu thụ như thế nào, và khi đưa ra giá cả của hàng hoá thì nhà tư bản đã tính toán được tất cả các chi phí từ giai đoạn chuẩn bị sản xuất (T – H giai đoạn lưu thông trước sản xuất), giai đoạn sản xuất và giai đoạn tiêu thụ (H’- T’ giai đoạn lưu thông sau sản xuất). Những chi phí được tính đó chính là giá trị sức lao động của các bộ phận khác nhau đã đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Nếu lao động trong lưu thông không tạo ra giá trị thì nhà tư bản chẳng khi nào chịu trả lương cho những lao động không đóng góp vào giá trị của hàng hoá của ông ta sở hữu, mặt khác giá trị là do lao động tạo ra thì chẳng có lý do nào mà lao động trong lưu thông lại không tạo ra giá trị (và chẳng khi nào nhà tư bản lại phải chịu bỏ tiền ra để mua các hàng hoá dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông như ví dụ dưới đây mà tôi sẽ chỉ ra). Lao động trong lưu thông “tạo ra” giá trị thì theo suy luận logic lao động trong lưu thông cũng “làm tăng” giá trị, hay lao động này cũng đóng góp vào giá trị thặng dư. Như vậy cả lý luận lẫn thực tiễn của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã chỉ ra rằng lý luận của Marx là không chính xác.
Bây giờ chúng ta hãy đến với một vài ví dụ để xem xét quá trình lưu thông của hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa và để thấy lao động trong lĩnh vực lưu thông đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Tất nhiên là phải sử dụng các khái niệm mới mà tôi đã trình bày trong bài viết này, chứ không được sử dụng các khái niệm của Marx mà tôi đã phê phán và mở rộng. Ví dụ thứ nhất là giai đoạn lưu thông trước sản xuất: T- H (quá trình chuẩn bị sản xuất). Trước khi đi vào giai đoạn sản xuất, một công ty phải tuyển dụng lao động. Họ sẽ phải mất tiền để đăng thông tin tuyển dụng trên mạng, chẳng hạn qua Vietnamworks.com. Họ phải mất tiền để mua hàng hoá dịch vụ đó. Người lập ra trang Web Vietnamworks.com đã tạo ra được một hàng hoá dịch vụ là kết nối thông tin giữa nhà tư bản và người lao động. Họ làm ra hàng hoá dịch vụ đó và thực hiện được giá trị của hàng hoá dịch vụ đó, và khi trao đổi thì họ nhận được giá trị của hàng hoá đó - tiền mà nhà tư bản cần lao động trả cho họ. Hàng hoá dịch vụ đó có giá trị sử dụng của nó đó là cung cấp thông tin tới người lao động, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của nhà tư bản. Giá trị của hàng hoá dịch vụ đó là do sức lao động của các lao động tại Vietnamworks.com tạo ra thông qua lao động của họ. Tại sao doanh nghiệp lại không tự làm ra hàng hoá dịch vụ đó để khỏi phải bỏ tiền ra mua hàng hoá dịch vụ của Vietnamworks.com? Câu trả lời là họ hoặc không thể làm ra hàng hoá dịch vụ đó, hoặc họ có làm ra hàng hoá dịch vụ đó đi nữa thì họ cũng không thực hiện được giá trị của nó, hoặc nữa nếu thực hiện được giá trị của nó đi nữa thì giá trị hàng hoá dịch vụ do họ tạo ra sẽ cao hơn giá trị hàng hoá dịch vụ của Vietnamworks.com. Ví dụ thứ hai là quá trình lưu thông sau sản xuất: H’ – T’ (quá trình tiêu thụ hàng hoá). FPT phân phối điện thoại di động cho Nokia. Nếu Nokia bán trực tiếp cho người tiêu dùng thì giá trị của điên thoại là x, nếu phân phối thông qua FPT thì giá trị của nó sẽ là x-∆. Và từ trước đến giờ theo lý thuyết của Marx thì chúng ta vẫn hiểu ∆ là phần cắt ra từ giá trị thặng dư từ giai đoạn sản xuất của Nokia. Nhưng theo lý luận mới của tôi thì ∆ là do sức lao động của FPT tạo ra thông qua lao động phân phối của họ. FPT tạo ra hàng hoá dịch vụ phân phối, hàng hoá dịch vụ này có giá trị sử dụng là tiêu thụ hàng hoá của Nokia, đưa hàng hoá của Nokia đến với người tiêu dùng cá nhân, nó đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ hàng hoá của Nokia và Nokia phải chịu mất đi khoản tiền ∆ để mua hàng hoá đó. Đó là sự trao đổi hàng hoá hàng hoá dịch vụ phân phối giữa Nokia và FPT. Tại sao Nokia không bán trực tiếp cho người tiêu dùng cá nhân mà lại chịu mất đi một khoản tiền ∆ để mua dịch vụ đó của FPT. Câu trả lời cũng như trường hợp thứ nhất. Đó là Nokia hoặc không thể làm ra hàng hoá dịch vụ đó, hoặc Nokia có làm ra hàng hoá dịch vụ đó đi nữa thì họ cũng không thực hiện được giá trị của nó, hoặc nữa nếu thực hiện được giá trị của nó đi nữa thì giá trị hàng hoá dịch vụ do họ tạo ra sẽ cao hơn giá trị hàng hoá dịch vụ của FPT. Ngoài ra còn rất nhiều hàng hoá dịch vụ khác trong quá trình lưu thông, điều đó nói nên rằng lao động trong lĩnh vực lưu thông có tạo ra giá trị, chứ không như Marx nghĩ. Còn lập luận vì sao lại như vậy thì tôi đã chỉ ra logic của vấn đề ở đoạn phân tích bên trên.
Những sai lầm của Marx đã chỉ ra ở trên đây là chưa đủ, Ông còn những sai lầm quan trọng hơn, mà những sai lầm này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của Ông về các khái niệm cơ bản của mình và bản thân sự vận động của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Quá trình: T - H … Sx … H’ - T’ không phải là một quá trình tự thân vận động, nó cần những lao động khác ngoài những lao động trong các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào, đó là lao động trực tiếp của nhà tư bản trong doanh nghiệp của họ cùng toàn bộ hệ thống Nhà nước hỗ trợ gián tiếp cho quá trình vận động này được thực hiện và lặp lại trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Như đã chỉ ra ở trên, nếu không có hệ thống Nhà nước, hàng hoá công cộng thì không có nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Những lao động trong lĩnh vực hàng hoá công cộng là những lao động đóng góp gián tiếp cho giá trị của hàng hoá, được thể hiện qua việc đảm bảo An ninh, Quốc phòng, luật lệ, cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật công nghệ, là giáo dục, y tế, văn hoá cho người lao động… Những đóng góp này được tính vào các chi phí thành lập công ty, lệ phí, thuế, và các chi phí khác liên quan đến lĩnh vực hành chính, chi phí cho sức khoẻ thể chất và tinh thần, kiến thức của người lao động, chi phí đến cơ sở hạ tầng cho hoạt động sản xuất kinh doanh… Và các chi phí này được tính vào trong tổng giá trị của hàng hoá mà nhà tư bản đã cho ra thị trường. Những chi phí này được tính vào chi phí sản xuất K = C + V (K là chi phí để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, cụ thể sau này chi phí cho hàng hoá công cộng sẽ được tính vào C với khái niệm C đã được mở rộng hơn so với lý thuyết của Marx). Đồng thời những chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra như thuế nhà đất, thuế thu nhập… lệ phí về xuất nhập khẩu, cơ sở hạ tầng… bảo hiểm cho người lao động…sẽ được dùng để trả lương cho công chức, viên chức trong bộ máy hành chính; trả cho giá trị sức lao động mà công chức, viên chức đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Marx cho rằng đó chỉ là sự phân phối lại giá trị của người sản xuất trực tiếp; nhưng thực ra đó là việc trả cho giá trị sức lao động mà họ đã bỏ ra, một sự đóng góp vào giá trị của hàng hoá mang tính gián tiếp, nhưng thực sự cần thiết cho quá trình vận động của hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa hiện nay. Tóm lại về vấn đề hàng hoá công cộng chúng ta cần lưu ý:
Thứ nhất: Hàng hoá là một phạm trù lịch sử. Hiện nay các dịch vụ công cộng đã trở thành hàng hoá, những hàng hoá mà chúng ta gọi là hàng hoá công cộng.
Thứ hai: Lao động cụ thể tạo ra giá trị của hàng hoá và lao động trừu tượng của con người tạo ra giá trị của hàng hoá và lao động trong lĩnh vực công cộng cũng tạo ra giá trị sử dụng và giá trị của các hàng hoá công cộng.
Thứ ba: Karl Marx cho rằng phải là hai tác nhân (cá thể hoặc tập thể) bình đẳng, tự do, độc lập với nhau làm ra các sản phẩm và các sản phẩm đó được trao đổi với nhau trên nguyên tắc đồng thuận, bình đẳng và trao đổi ngang giá, trên thị trường tự do thì mới gọi là hàng hoá. Nếu vậy, chúng ta hãy giả sử rằng, nếu tư nhân tham gia và việc tạo ra các dịch vụ công cộng đó và trao đổi các dịch vụ đó thì chúng được coi là các hàng hoá. Và việc tạo ra các dịch vụ đó thông qua lao động của mình thì tạo ra giá trị của các hàng hoá đó. Và thực tế thì nhiều dịch vụ công cộng đã chuyển cho tư nhân làm và chúng đã trở thành hàng hoá. Nhưng khi tư nhân không thể làm nổi, mà phải nhờ đến một tập thể đại diện – Nhà nước, thì chúng ta lại phủ nhận đó là hàng hoá và cho rằng sức lao động trong lĩnh vực công cộng không tạo ra giá trị của các hàng hoá đó. Đó là một mâu thuẫn không thể nào chấp nhận được.
Thứ tư: Thuế và lệ phí hành chính khác là do một tập thể đại diện - Nhà nước đặt ra cho các tác nhân khác để trao đổi lấy hàng hoá công cộng. Sự trao đổi này không thể giống như trên thị trường tự do giữa các cá thể độc lập với nhau được. Có nhiều tác nhân khác nhau cùng sản xuất một loại hàng hoá trên thị trường tự do, vì vậy có thể so sánh lượng giá trị của một loại hàng hoá nào đó bằng thời gian lao động xã hội trung bình để làm ra hàng hoá đó, và do đó có thể tự do và bình đẳng trao đổi ngang giá trên thị trường tự do. Nhưng hàng hoá công cộng thì không thể như thế được, vì nó chỉ do duy nhất một tác nhân làm ra đó là Nhà nước. Như thế phải chăng Nhà nước có thể trao đổi không tự do, bình đẳng và không ngang giá hàng hoá công cộng với các tác nhân khác? Câu trả lời là không. Bởi vì Nhà nước là đại diện của nhân dân thông qua bầu cử - qua sự đồng thuận của xã hội. Nhà nước quyết định chính sách thuế dựa trên một quyết định tập thể, có tính đến ý kiến của các tác nhân khác khi trao đổi hàng hoá công cộng. Không thể nói đó là sự áp đặt hoàn toàn, nhưng cũng chẳng thể bình đẳng, tự do như là trao đổi trên thị trường tự do, bởi nó là một hàng hoá đặc biệt, nhiều người dùng nhưng chỉ có Nhà nước cung cấp. Thuế không thể quá cao cũng không thể quá thấp (trừ một vài trường hợp đặc biệt), nó phải được tính dựa trên sự đồng thuận và có tính toán tới giá trị của hàng hoá công cộng do sức lao động của lao động trong lĩnh vực công cộng tạo ra. Cũng như giá trị của hàng hoá trên thị trường tự do là một sự trừu tượng hoá, thì hàng hoá công cộng trao đổi trên thị trường hành chính cũng thế mà thôi!
Chúng ta cần phải phân biệt lao động trong lĩnh vực tư nhân và lao động trong lĩnh vực công cộng về mặt giá trị thặng dư. Lao động trong lĩnh vực hành chính công thì không có sự bóc lột về giá trị thặng dư. Bởi vì, sức lao động được bỏ ra được đo bằng giá trị các hàng hoá do họ tạo ra, được xã hội đồng thuận đánh giá – đó là một sự trừu tượng hoá nhưng là sự trừu tượng hoá trong thực tiễn mà chúng ta không cần phải thêm hay bớt nó. Mức lương trả cho giá trị sức lao động được toàn xã hội (hay đại diện cho toàn xã hội) quy định bằng luật. Hơn nữa họ không có một ông chủ thực sự của mình, không có sự theo đuổi lợi nhuận của nhà tư bản, nên họ không hề bị bóc lột. Chỉ có những người lao động trong lĩnh vực tư nhân là thực sự bị bóc lột, trong đó công nhân (mà trong xã hội tư bản thì luôn có dư thừa lao động - một xã hội không bao giờ có toàn dụng lao động) là bị bóc lột nhiều nhất.
Todd G. Buchholdz trong “Ý tưởng mới từ các nhà kinh tế tiền bối” đã viết: “Marx đã bỏ quyên điều gì? Ông đã bỏ quên một khả năng sáng tạo và tài kinh doanh” và “Tại sao người Nga sống dưới chế độ cộng sản lại phải xin những chiếc quần bò mà người Mỹ làm ra? Không phải vì Liên Xô thiếu bông hay thiếu công nhân để sản xuất quần áo chất lượng cao, mà bởi vì họ thiếu sáng tạo, thiếu động lực làm việc và thiếu kỷ luật”[37]. Học thuyết kinh tế chính trị của Marx đã bỏ qua vai trò của nhà tư bản - chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân. Không có họ thì sẽ không có nền kinh tế hàng hoá tư bản. Động lực theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy họ làm việc để cho ra đời hàng hoá và thực hiện giá trị của hàng hoá và lao động của họ đã không được Marx tính vào giá trị của hàng hoá, trong khi đáng ra lao động của họ phải được tính vào giá trị của hàng hoá. Khả năng quản lý kinh doanh của họ đã giúp cho doanh nghiệp ra đời cũng như cho ra đời các loại hàng hoá. Đó là việc lao động ở tầm bao quát, chiến lược. Cụ thể là họ phải suy nghĩ và làm việc để: huy động vốn, xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất (thuê đất đai, xây nhà xưởng, chọn máy móc công nghệ…) hiện thực hoá ý tưởng sản xuất kinh doanh của họ (tuyển lao động, tìm ra cơ chế hoạt động của công ty và hiện thực hoá cơ chế đó…) giải quyết quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá (vận chuyển, tiêu thụ như thế nào, tìm ra đối tượng tiêu thụ, tác động tới việc cải tiến chất lượng, mẫu mã, giá thành… để cạnh tranh, tác động tới việc hình thành sản phẩm mới…). Việc quản lý tất cả các mặt của sản xuất và lưu thông không phải là làm việc, là lao động thì là gì? Họ phải bỏ công sức, phải suy nghĩ, tính toán để cho ra đời hàng hoá, đó không phải là lao động thì là gì? Lao động tạo ra giá trị của hàng hoá thì tại sao lao động của họ lại không được tính vào giá trị của hàng hoá. Thành ngữ Việt Nam có câu “Một người lo bằng một kho người làm” để nói lên rằng công sức và giá trị sức lao động của họ bỏ ra là rất lớn so với những người làm thuê. Đó là thực tiễn, Marx luôn coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, thế nhưng Ông lại bỏ qua giá trị sức lao động của nhà tư bản đóng góp vào giá trị của hàng hoá, đó là điều đáng chê trách của Marx.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng tất cả mọi lao động hưởng lương, dù là lao động trong lĩnh vực tư nhân hay công cộng, và nhà tư bản đều đóng góp giá trị sức lao động của mình vào giá trị của hàng hoá. Do đó chúng ta cần xây dựng lại công thức về lượng giá trị của hàng hoá. Lao động trong lĩnh vực công cộng đóng góp gián tiếp vào giá trị của hàng hoá; đó là các chi phí về thuế, lệ phí, bảo hiểm… và vốn con người (sức khoẻ, trí tuệ của người lao động) của một xã hội nhất định. Lao động trong lĩnh vực tư nhân (gồm người làm thuê và nhà tư bản) đóng góp trực tiếp vào giá trị của hàng hoá. Nếu gọi C là tư bản bất biến, là khoản tư bản đóng góp một lượng nhất định, không tăng lên về lượng trong quá trình vận động của hàng hoá thì C không chỉ là tư liệu sản xuất như trong lý luận của Karl Marx nữa, mà C bao gồm tư liệu sản xuất, chi phí cho hành chính công (thuế, lệ phí…), chi phí giao dịch, chi phí kinh doanh, marketing, quảng cáo… hay C là tất cả các chi phí của một công ty, ngoài chi phí trả lương cho người lao động. Còn V là tư bản khả biến, là phần tư bản sẽ tạo ra sự tăng thêm về lượng giá trị của hàng hoá trong quá trình vận động của hàng hoá; hiểu một cách đơn giản thì V là tiền lương và phụ cấp khác cho người làm thuê, với người làm thuê là tất cả những người làm việc trong công ty ngoài nhà tư bản - chủ sở hữu. Còn m là giá trị thặng dư của người làm thuê chứ không phải chỉ có công nhân. Ngoài ra còn một đại lượng nữa cần được bổ sung vào công thức (1) của Marx, đó là E (Entrepreneurship). E là giá trị sức lao động của nhà tư bản đóng góp vào giá trị của hàng hoá. E bao gồm E1 và E2 với E1 là những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nhà tư bản sống và làm việc (lao động cần thiết của nhà tư bản) nó tương đương với V của người làm thuê và E2 là giá trị lao động tăng thêm ngoài những tư liệu sinh hoạt cần thiết của nhà tư bản E1, đó là lao động thặng dư của nhà tư bản và nó tương đương với m của người làm thuê (giá trị thặng dư của nhà tư bản không liên quan đến khái niệm bóc lột như của Marx).
Tóm lại với những lập luận ở trên chúng ta sẽ đưa ra khái niệm mới về lượng giá trị của hàng hoá:
Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của những người trực tiếp và gián tiếp tham gia vào quá trình vận động của hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Công thức về lượng giá trị của hàng hoá có thể viết lại theo khái niệm mới này là:
W = C + V + E + m (2)
Trong đó quá trình vận động của hàng hoá bao gồm cả quá trình sản xuất và lưu thông.
Một vấn đề mà chúng ta cần phải lưu tâm khi sử dụng khái niệm: thời gian lao động xã hội cần thiết. Các nhà Marxist Việt Nam vẫn hiểu rằng: “Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá là không giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị của một hàng hoá không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà chúng ta tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình và với một cường độ lao động trung bình trong xã hội”[38]. Sai lầm này của các nhà Marxist Việt Nam cũng là sai lầm của Marx. Vì chính Karl Marx đã viết: “Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy”[39]. Nhưng nếu hiểu theo khái niệm lao động cần thiết và lao động thặng dư mà tôi đã trình bày ở trên thì lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động tạo ra giá trị của phần sản phẩm cần thiết để nuôi sống bản thân người lao động và gia đình họ, tất nhiên là ở một thời điểm nhất định, với điều kiện sản xuất nhất định, năng suất và cường độ lao động nhất định. Cái mà chúng ta cần tính toán khi xác định giá trị của hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa là lao động trừu tượng với thời gian lao động xã hội trung bình chứ không phải là thời gian lao động xã hội cần thiết. Vì vậy lượng giá trị của hàng hoá là thời gian lao động xã hội trung bình để làm ra hàng đó. Thời gian lao động xã hội trung bình bao gồm thời gian lao động xã hội cần thiết và thời gian lao động xã hội thặng dư. Đúng như khẳng định của Marx: “Với tư cách là những giá trị thì tất cả mọi hàng hoá đều chỉ là những lượng thời gian lao động nhất định đã kết đọng lại”[40]. Tất nhiên chúng ta phải tính ở một thời điểm nhất định, với điều kiện sản xuất nhất định, với sức sản xuất của lao động nhất định. Và hơn nữa lao động không chỉ là lao động hiện tại mà còn là lao động quá khứ, cũng như không chỉ là lao động trực tiếp mà còn có lao động gián tiếp - những lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào quá trình vận động của hàng hoá.
Bây giờ chúng
ta sẽ tìm hiểu vì sao Karl Marx lại
không đưa đại lượng E vào
công thức (1)
và
vì sao Ông lại cho rằng số tiền
tăng lên so với tư bản ban đầu
chỉ là giá trị thặng dư?
Karl Marx đưa ra giả thuyết: "Nếu
ban đầu tư bản bằng 100 ta-le thì
nó vẫn tiếp tục bằng 100 ta-le, mặc
dù trong quá trình sản xuất 100
ta-le ấy đã tồn tại dưới
hình thức 50 ta-le bông, 40 ta-le tiền công,
10 ta-le máy kéo sợi, còn giờ đây
tồn tại dưới hình thức sợi
bông trị giá 100 ta-le. Sự tái sản
xuất ấy ra 100 ta-le chỉ là việc 100
ta-le ấy duy trì sự ngang bằng với bản
thân, chỉ với một sự khác biệt
là sự duy trì ấy ở đấy
phải thông qua khâu trung gian là quá
trình sản xuất vật chất"[41]. Và
Ông viết tiếp: "Khi người ta nói
rằng chi phí sản xuất, hay giá cả
tất yếu của hàng hoá, bằng 110
thì tính toán được thực
hiện như sau: tư bản ban đầu 100
(như vậy, thí dụ nguyên liệu bằng
50, lao động bằng 40, công cụ lao động
bằng 10) + 5% (lợi tức) + 5% (lợi nhuận).
Có nghĩa là, chi phí sản xuất
bằng 110; chứ không phi bằng 100; do đó
chi phí sản xuất lớn hơn giá
thành"[42]. Và Marx, cũng như chúng
ta vẫn coi rằng 10 ta-le tăng thêm đó
chỉ là giá trị thặng dư của
người công nhân sản xuất tạo
ra. Thực ra, việc chuyển 100 ta-le tư bản
ban đầu thành 100 ta-le bông chỉ là
sự tính toán ở trong đầu nhà
tư bản và 100 ta-le cũng không thể
coi là "giá thành sản xuất".
Bởi vì "giá thành sản xuất"
không phải chỉ là 100 ta-le tư bản
ban đầu cũng như không phải chỉ
qua "khâu trung gian là quá trình sản
xuất vật chất" thì hàng hoá
đã thực hiện được giá
trị mà giá thành sản xuất còn
bao gồm sức lao động của nhà tư
bản bỏ ra (tôi gọi nó là E1)
và còn phải trải qua khâu vận
chuyển, tiêu thụ nữa chứ không
phải chỉ có khâu "sản xuất
vật chất". Như vậy giá thành
của sản xuất phải lớn hơn 100
ta-le nhưng nó cũng không thể bằng
110 ta-le được. Và 10 ta-le tăng thêm
cũng không thể lý giải đó
là 5% lợi tức + 5% lợi nhuận. Thực
chất, 10 ta-le tăng thêm bao gồm: chi phí
sản xuất tăng thêm ngoài tư bản
ban đầu, chi phí tăng này bao gồm
sức lao động của nhà tư bản
E1 và sức lao động của khâu vận
chuyển tiêu thụ (tôi gọi là V2,
còn V trong (2) được gọi là V1
và từ bây giờ trở đi chúng
ta thống nhất với nhau V = V1
+ V2);
giá trị thặng dư do nhà tư bản
tạo ra E2
(vì nhà tư bản cũng là một
người lao động, có sức lao động
và sức lao động thì có đặc
điểm khi tiêu dùng thì tạo ra
giá trị lớn hơn giá trị ban đầu
– giá trị của những tư liệu
cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động E1);
giá trị thặng dư của người
làm thuê m; cùng với đó là
các chi phí cho hàng hoá công cộng
G. Hay G + E1
+ E2
+ V2
+ m = 10 hay G + E + V2
+ m = 10. Trên đây là những lập
luận theo cách đặt vấn đề
của Mác. Còn trên thực tế ngày
nay, V đã bao gồm tiền công ở tất
cả các khâu sản xuất, vận
chuyển, tiêu thụ; và G cùng những
chi phí khác đã được tính
vào C. Do vậy, 10 ta-le dư ra so với tư
bản ban đầu, về thực chất chỉ
là: E + m.
Marx đặt ra vấn đề:
"người ta có thể nói rằng
nhà tư bản phải được trả
công lao động, lao động ấy thể
hiện ở chỗ là nó ném 100
ta-le, với tư cách là tư bản, vào
quá trình sản xuất, chứ không
phải ăn tiêu vào số tiền đó.
Nhưng lấy đâu ra nguồn trả công
cho hắn"[43]. Nhưng trên thực tế,
lao động của nhà tư bản đâu
chỉ là "bỏ ra 100 ta-le" và
"không ăn tiêu số tiền đó"
mà lao động của nhà tư bản
là lao động thực sự như ở
phần trên đã phân tích. Còn
nguồn trả cho nhà tư bản chính
là một phần trong 10 ta-le tăng thêm
sau khi giá trị của hàng hoá được
thực hiện. Thực vậy, bây giờ
chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi, thế
nguồn trả cho công nhân là từ
đâu? Câu trả
lời là từ tư bản ban đầu 100
ta- le. Thế 100 ta-le đó ở đâu ra?
Câu trả lời là do tích luỹ, do
dư thừa. Hay chính là tiền (giá
trị) do sức lao động của con người
tạo ra. Như vậy lao động tạo ra giá
trị, hay hiển nhiên nhà tư bản bỏ
sức lao động để tạo ra giá
trị và phải được hưởng
nó!
Ông viết tiếp: "Và
lao động của hắn liệu có tỏ
ra là hoàn toàn vô ích không,
bởi vì tư bản bao gồm tiền công,
và do đó công nhân có thể
sống nhờ vào tái sản xuất giản
đơn ra số chi phí sản xuất, mà
điều này thì nhà tư bản
không thể làm được. Như vậy,
nhà tư bản được ghi ở cột
những hư phí của sản xuất”[44].
Đúng vậy, người công nhân là
những người vô sản, phải bán
sức lao động để lấy tiền kiếm
sống. Nhưng nhà tư bản thì không,
họ không phải là vô sản, họ
có tiền riêng để sống và
số tiền này không nằm trong tư
bản ban đầu. Và số tiền này
được lấy lại sau khi giá trị
của hàng hoá được thực hiện
– nó chính là E1.
Còn việc Marx nói lao động của
nhà tư bản thuộc vào "những
hư phí của sản xuất" là
không đúng. Bởi vì, một lao động
mà không đóng góp vào giá
trị của hàng hoá chỉ khi lao động
ấy không tạo ra giá trị sử dụng
hoặc giá trị của hàng hoá
không thực hiện được, còn
nếu hàng hoá thực hiện được
giá trị thì mọi lao động tham
gia vào quá trình vận động của
hàng hoá đều đóng góp vào
giá trị của hàng hoá. Cho nên,
lao động của nhà tư bản có
đóng góp vào giá trị của
hàng hoá.
Tiếp đến, Ông
viết: "Và cho dù nhà tư bản
có những công lao như thế nào đi
nữa thì tái sản xuất vẫn có
thể được thực hiện không cần
đến hắn ta, bởi vì trong quá
trình sản xuất công nhân chỉ đưa
vào đó cái giá trị mà
họ rút ra từ quá trình ấy,
nghĩa là công nhân hoàn toàn
không cần đến quan hệ tư bản
chủ nghĩa cũng có thể thường
xuyên lặp lại quá trình sản
xuất"[45]. Những suy nghĩ này của
Mác là quá giản đơn và xa
rời thực tế. Bởi vì, trên thực
tế, nếu một tổ chức, một hệ
thống mà không có người lãnh
đạo, quản lý thì tổ chức,
hệ thống đó làm sao mà hoạt
động được; còn nếu như
Nhà nước hay tập thể tự đứng
lên để tổ chức quá trình
sản xuất như trong nền kinh tế tập
trung, bao cấp của chúng ta trước đây
thì kết quả như thế nào có
lẽ không cần phải nói thêm nữa.
Nếu công nhân không cần đến
quan hệ tư bản chủ nghĩa mà vẫn
có thể lặp lại thường xuyên
quá trình sản xuất và tái sản
xuất thì quá trình ấy cũng chỉ
mang tính máy móc, dập khuôn. Mà
một quá trình sản xuất chỉ mang
tính dập khuôn, máy móc thì
trên thực tế sẽ không bao giờ tồn
tại được trong nền kinh tế thị
trường luôn luôn vận động và
phát triển không ngừng. Lý luận
của Marx trong trường hợp này trở
lên không còn là lý luận về
nên kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa nữa.
Tiếp theo, Marx cho rằng:
"vả lại, ngoài ra, cũng không có
một nguồn quỹ nào có thể rút
từ đó ra để trả những đóng
góp của nhà tư bản, bởi vì
như thế giá cả của hàng hoá
sẽ bằng chi phí sản xuất”[46].
Phải chăng, Marx viết "bởi vì như
thế" là có ý nói tới
việc nếu lấy 10 ta-le tăng thêm để
trả công cho nhà tư bản thì giá
cả của hàng hoá sẽ bằng chi phí
sản xuất? Phải chăng Marx muốn nói
chi phí sản xuất là: C + V + E? Quả
thật, nếu cho rằng chi phí sản xuất
bằng giá cả của hàng hoá thì
không đúng. Bởi vì lượng
giá trị của hàng hoá (giá cả)
bao gồm không chỉ chi phí sản xuất
mà còn có giá trị thặng dư
của nhà tư bản cộng với giá
trị thặng dư của người làm
thuê. Như chúng ta đã biết, lượng
giá trị của hàng hoá là tổng
giá trị ban đầu đã được
đưa vào trong hàng hóa
(hay đầu vào phải bằng đầu ra đó
chính là sự
bảo toàn của lượng
giá trị của hàng hóa),
ở đây lượng giá trị của
hàng hoá bao gồm: tư bản bất
biến C, với C hiểu theo nghĩa mới ở
trên, nó bao gồm tất tư liệu sản
xuất và tất cả các chi phí
khác ngoài V; giá trị sức lao động
của người làm thuê (bao gồm phần
được nhà tư bản mua V và
phần giá trị thặng dư m); giá
trị sức lao động của nhà tư
bản E (bao gồm E1
– những tư liệu cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động của nhà tư bản và
phần giá trị thặng dư của nhà
tư bản E2).
Vì vậy, nếu Marx cho rằng công để
trả cho nhà tư bản là 10 ta-le trội
thêm thì Mác đã sai và nếu
Ông cho rằng giá cả của hàng
hoá bằng chi phí sản xuất: W = C + V
+ E thì Ông lại càng sai. Do đó
những lập luận phủ định này
của Mác trở lên vô nghĩa, nó
không giải thích được điều
gì, cũng như nó chẳng phản bác
được điều gì cả.
Còn một điều nữa mà Marx đã
nghĩ tới nhưng Ông đã không
thừa nhận nó (có lẽ là do định
kiến, do căm hận bọn tư sản đến
tận xương tủy vì mỗi đồng
tiền chúng kiếm được đều
chứa đầy máu và nước mắt
của người lao động, trong thời đại
mà Ông sống), đó là: Nhà
tư bản vừa là người đối
lập với người lao động (vì
đã chiếm hữu phần giá trị
thặng dư của người lao động)
đồng thời cũng là người lao
động (vì ông ta cũng lao động
để thu được phần bỏ ra E1
và phần giá trị thặng dư của
mình E2).
Ông viết: "Nếu ta coi lao động của
nhà tư bản là một thứ lao động
đặc biệt bên cạnh lao động
của công nhân và ngoài lao động
của công nhân, thí dụ là lao
động giám sát v.v. , thì nhà
tư bản sẽ nhận được –
cũng như công nhân – một khoản
tiền công nào đó, cũng thuộc
vào một phạm trù như công nhân,
và nhà tư bản quan hệ với lao
động tuyệt nhiên không phải với
tư cách là nhà tư bản"[47].
Thật mâu thuẫn, như ở trên đã
phân tích, Marx cho rằng lao động của
nông dân không thuê lao động làm
thuê thì vừa được coi là
nhà tư bản của chính mình và
là người làm thuê cho chính
mình. Những người nông dân đó
với sức lao động của mình thông
qua lao động tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư và tự mình
hưởng một phần giá trị thặng
dư đó, nhưng với nhà tư bản
thì Marx lại phủ định hoàn toàn
lao động của nhà tư bản với
tư cách là người lao động.
Karl Marx là người khai sinh ra logic học
biện chứng, nhưng Ông lại không áp
dụng nó cho thực tiễn này thì
thật là một điều đáng
trách. Chúng ta nghe tới điều này
có vẻ hơi lạ: nhà tư bản
vừa là nhà tư bản lại không
phải là nhà tư bản mà lại
là người lao động. Nhưng trên
thực tế, nếu chúng ta hiểu biết
về Vật lý hiện đại thì
chúng ta sẽ thấy: một thực thể
vừa là hạt nhưng lại cũng không
phải là hạt mà lại là sóng,
như photon chẳng hạn (lưỡng tính
sóng – hạt của vật chất).
Và cuối cùng Marx khẳng định:
"nhà tư bản cũng sẽ không làm
giàu được, mà chỉ thu được
một giá trị trao đổi mà hắn
ta sẽ phải tiêu dùng thông qua lưu
thông"[48]. Điều khẳng định
này của Marx là sai. Bởi vì, trên
thực tế, khi hàng hoá được
bán nhà tư bản không chỉ thu
được giá trị do mình tạo ra
mà còn thu được cả giá trị
thặng dư của người làm thuê,
do đó mà ông ta vẫn làm giàu
được. Vì vậy mà quy luật
giá trị thặng dư, với nội dung:
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối
đa bằng cách tăng quy mô sản xuất
và nâng cao trình độ bóc lột
dựa trên cơ sở mở rộng sản
xuất, phát triển kỹ thuật, tăng
năng suất lao động, tăng cường
độ lao động và kéo dài
ngày lao động, vẫn là quy luật
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản bởi vì nó phản ánh bản
chất của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và nó phản
ánh được động lực, mục
đích của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Từ những lập luận
ở trên, chúng ta sẽ xem lợi nhuận
bao gồm những gì? Theo công thức chung
của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa: T – H – T', nếu số tiền bỏ
ra ban đầu là T = K = C + V (chi phí sản
xuất), thì số tiền thu được
là: T' = C + V + E + m.
suy ra lợi nhuận là:
P = T' – T = E + m
Như vậy lợi
nhuận của nhà tư bản thu được
(nếu giá cả của hàng hoá bằng
giá trị của hàng hoá) không
phải chỉ là giá trị thặng dư
m của người làm thuê tạo ra mà
còn có cả giá trị do nhà tư
bản tạo ra E.
III. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ HƯỚNG
MỞ:
1.
Giá trị của hàng
hóa là lao động trừu tượng
của những người tham gia trực tiếp
và gián tiếp vào quá trình
vận động của hàng hóa kết
tinh trong hàng hoá.
Lượng giá
trị của tổng số hàng hóa được
sản xuất ra trong một khoảng thời gian
là: W = C + V + E + m.
Với C là tư
bản bất biến hiểu theo cách hiểu
mới. V là tư bản khả biến hay
chính là sức lao động của người
làm thuê đóng góp vào giá
trị của hàng hoá. E là sức lao
động của nhà tư bản kết tinh
vào hàng hoá, E = E1
+ E2,
với E1
là giá trị để sản xuất và
tái sản xuất ra sức lao động của
nhà tư bản (lao động cần thiết),
E2
là giá trị thặng dư (giá trị
tăng thêm ngoài E1)
của nhà tư bản tạo ra (lao động
thặng dư). Còn m là giá trị
thặng dư của những người làm
thuê.
2. Lợi nhuận
mà nhà tư bản
thu được là: P = E + m. Lợi nhuận
này bao gồm giá trị do nhà tư
bản tạo ra E và giá trị thặng
dư của người làm thuê m.
3. Từ những
bổ sung vào khái
niệm giá trị và giá trị thặng
dư chúng ta sẽ phải thay đổi nhiều
vấn đề khác trong kinh tế chính
trị Marxist và kinh tế học.
4. Nếu chúng
ta tính
được tỷ lệ E/m trên lý
thuyết và áp dụng được vào
thực tế thì chúng ta sẽ có cơ
sở lý luận rõ ràng cho việc
đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Và hơn thế nữa chúng ta sẽ sử
dụng được một nền kinh tế thị
trường (nền kinh tế hàng hoá)
mang bản chất xã hội chủ nghĩa đó
là làm theo lao động và hưởng
theo lao động, tức là E nhà tư
bản giữ còn m nhà tư bản trả
lại cho người làm thuê. Do đó,
nền kinh tế thị trường (Nền kinh
tế hàng hoá) này sẽ khác hẳn
về chất so với nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa (nền
kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa) mang bản chất bóc lột. Khái
niệm nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa sẽ
rất đơn giản: đó là một
nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, trong đó mọi
người làm theo lao động và hưởng
theo lao động. Chúng ta sẽ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội bằng một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với một lý luận rõ
ràng, khoa học chứ không mơ hồ,
gượng ép như hiện nay.
Toàn cầu hoá, mà
về thực chất là sự mở rộng
phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa ra toàn thế giới, đang
là một xu thế tất yếu không thể
đảo ngược. Việc tất cả các
nước sẽ phải sử dụng nền
kinh tế thị trường là một điều
chắc chắn. Nền kinh tế của tất cả
các nước sẽ chịu sự tác
động, phụ thuộc lẫn nhau, sẽ phải
kết hợp lại với nhau để tạo
thành một chỉnh thể thống nhất –
một nền kinh tế toàn thế giới.
Một nền kinh tế thị trường toàn
thế giới (mà ở đó không
còn bóc lột vì mọi người
làm theo lao động và hưởng theo
lao động, tức là E nhà tư bản
giữ và m trả lại cho người làm
thuê) kết hợp với xu thế cổ phần
hoá (tài sản, của cải được
phân chia lại cho mọi người chứ
không còn tập trung vào một số
ít người) và xu thế phát triển
như vũ bão của cách mạng khoa
học, kỹ thuật, công nghệ (phát
triển lực lượng sản xuất) phải
chăng chính là ba
xu thế sẽ đưa
loài người tiến lên chủ nghĩa
xã hội từ chủ nghĩa tư bản ở
trên quy mô toàn thế giới - điều
mà Marx đã dự đoán cách
đây hơn 100 năm!
Khủng hoảng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là một điều tất yếu. Trong bài nghiên cứu “Nguyên nhân của khủng hoảng toàn cầu”[49], chúng tôi đã chỉ ra nguyên nhân của cuộc khủng hoảng đang diễn ra hiện nay. Nếu lý luận của bài viết này đúng thì có thể chúng ta sẽ làm rõ hơn ảnh hưởng của “quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần”, một quy luật gây lên khủng hoảng của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, bởi vì trong ngành dịch vụ tư bản bất biến C không tăng mạnh như là ngành sản xuất vật chất, và lao động cũng không giảm theo máy móc, tức là V cũng không giảm mạnh, tương ứng với nó m cũng không giảm mạnh như ở trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Còn việc hạn chế khủng hoảng có thể thực hiện được khi Nhà nước kiểm soát được thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, và việc đầu cơ. Đồng thời sử dụng lý thuyết tiền tệ của Milton Friedman (với lượng cung tiền không đổi). Lượng cung tiền không đổi sẽ tạo ra sự tăng trưởng cân bằng, ổn định mặc dù có thể tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao. Nó sẽ hạn chế sự tăng trưởng quá “nóng”, vì sau khi quá “nóng” sẽ là quá “lạnh”. Ngoài ra việc tính được E và m và phân phối theo đúng tính toán đó “có thể” sẽ giúp cho việc tiêu dùng ổn định hơn, tránh việc tiêu dùng bùng phát – thu hẹp. Đồng thời nó có thể hạn chế sự mất cân bằng giữa hai khu vực tiêu dùng hàng hoá tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, theo lý luận mất cân bằng giữa hai khu vực sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng của Karl Marx.
IV. MỘT SỐ LƯU Ý:
1. Trong bài viết này ngoài những khái niệm mới đã giải thích cũng như những khái niệm cũ đã được bổ sung, còn tất cả các khái niệm khác tôi đều sử dụng theo cách hiểu của Marx.
2. Với điều kiện và khả năng của mình, tôi chưa tính được tỉ lệ E/m trên lý thuyết và tôi cũng chưa biết áp dụng như thế nào vào thực tế ở Việt Nam và trên thế giới (nếu lý luận của tôi là đúng). Khi mà chúng ta chưa tính được trên lý thuyết tỉ lệ E/m và chưa áp dụng được vào thực tế thì tôi phản đối việc dùng lý luận này để ngụy biện cho việc đảng viên làm kinh tế tư nhân. Việc đảng viên không nên làm kinh tế tư nhân đã được tôi phân tích trong bài viết "Tương lai nào cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?"[50].
Đàm Văn Vĩ
Tài liệu tham khảo :
[30] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13, trang 27
[31] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 24, trang 45
[32] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 25, phần I, trang 65
[33] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 25 (phần I), trang 47
[34] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002, tập 23, trang 291-292
[35] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46, phần I, trang 461
[36] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46, phần I, trang 454
[37] Chương VI, Phần chưa được Nhà xuất bản Tri thức dịch. http://www.scribd.com/doc/6546651/Karl-MarxNew-Ideas-From-Dead-Economists?__cache_revision=1231652476&__user_id=-1&enable_docview_caching=1
[38] Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, trang 128
[39] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002, tập 23, trang 68
[40] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002, tập 23, trang 68
[41] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 762
[42] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 765
[43] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[44] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[45] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[46] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[47] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[48] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[49] http://blog.com.vn/blog/damvanvi,Nguyen-nhan-cua-khung-hoang-toan-cau-,844493
[50] http://blog.com.vn/blog/damvanvi,Tuong-lai-nao-cho-chu-nghia-xa-hoi-o-Viet-Nam-,844555
“Kính tặng Marx và Gienny cùng những người Marxist đã sống, làm việc và hy sinh vì giai cấp vô sản, vì sự tiến bộ của nhân loại!”
Các thao tác trên Tài liệu