Người hiền của văn chương Nam Bộ
Người hiền của văn chương Nam Bộ
Nguyên Ngọc
Tôi
biết anh Trang Thế
Hy đã lâu,
nhưng thật thân nhau là từ một chuyện như sau: lần
ấy, sau
một chuyến lang
thang dưới đồng bằng miền Tây trở về Thành phố,
tôi
ghé lại thăm anh, và hồ hởi
nói với anh về một cây bút trẻ
tôi vừa
“phát hiện” được dưới đó. Vốn
là người
hay bốc, tôi nói với anh theo tôi, cậu
ấy là
tài năng hiếm đấy, anh ạ, lâu lắm
tôi mới gặp lại được một người như vậy, mừng và
quý
lắm. Anh Tư cười nhẹ, rót
cho tôi một chén rượu đầy: “Vậy
thì anh
tài – anh bảo – tôi cũng chấm
đúng cậu
ấy. Anh ở xa tới mà nhằm trúng được như thế
là rất
tinh. Đúng
là của hiếm. Viết đường được thì nhiều, nhưng
tài thì quả chỉ mới được nó. Rất độc
đáo. Rất
Nam Bộ.
Rất miền Tây. Tưng tửng mà chẳng hề giống ai. Cứ
như chẳng
có gì mà sắc, mà
sâu. Rất có văn. Nhiều người cũng đã
xuống dưới
đó, nhưng chưa có ai nhận ra.
Anh mới xuống, đã nhìn ra được,
giỏi!”… Vậy
đó, anh bạn viết trẻ tài năng ở tít
dưới miền Tây đã khiến cho chúng
tôi thật sự
đến với nhau, trở thành tri kỷ.
Tri kỷ, tôi nghĩ, là biết cùng nhau
nhận ra những
giá trị thật, những cái đẹp
lẩn khuất giữa chợ trời thiên hạ, giữa cuộc đời ồn
ào,
láo nháo bao nhiêu bong
bóng ảo. Tình bạn của chúng
tôi là
một tình bạn như thế đó. Từ ngày anh
về Bến
Tre, tôi có ít dịp gặp anh. Bến Tre
là một
tỉnh nằm hơi trái đường, tôi chỉ mới
tìm về cái tỉnh đảo ấy thăm anh được
vài lần, ngồi
với anh vài tiếng trong căn
vườn rất yên tĩnh của anh, uống ruợu nhâm nhi với
pho
mát không biết anh tìm
được ở đâu giữa cái chốn bốn bề sông
nước
này. Và lại nói chuyện với nhau về
“cậu ấy” – mà hoá
ra cả hai
chúng tôi vẫn âm thầm theo
rõi. Và về
những tài
năng khác, Đông Tây, mà cả
hai chúng
tôi đều mến phục.
Ngồi nói chuyện với anh Trang Thế Hy rất thích. Anh giản dị, mà uyên bác và thâm trầm. Và những lúc đó tôi thường có một liên hệ bất ngờ, bất ngờ nhưng tôi không sao dứt ra được, và tôi vẫn cố tự giải thích: tôi thường nhớ đến một tác giả ở rất xa, xa cả địa lý lẫn văn hoá: … Nguyễn Tuân. Thậm chí có lúc tôi đã nghĩ: nếu như Nam Bộ có một Nguyễn Tuân, thì cái ông Nguyễn Tuân đó ắt sẽ là Trang Thế Hy! Hai con người đó, hai tài năng đó khác nhau biết chừng nào, thậm chí ở chừng mực nào đó có thể nói thuộc hai cực đối nhau của thẩm mỹ, vậy mà sao dường như vẫn có điều gì đấy rất chung, và cái chung đó không nhỏ chút nào. Tôi thường cố lần cho ra cái chung đó.
Như chúng ta đều biết, Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp, mải mê đuổi theo cái đẹp, tẩn mẩn, chăm chút, rất kỹ tính, khó tính, nhiều khi đến kỳ cục, và có phần hơi nhấm nháp nữa. Trong muôn vàn ngổn ngang chợ đời, ông soi mói chắt lọc tìm cho ra cái đẹp, từng chút, ngòi bút tài hoa của ông mân mê nó, vờn lấy nó, chộp lấy rồi lại buông ra, buông ra rồi lại chộp lấy, đôi lúc cảm giác cứ như... mèo vờn chuột. Đến cực đoan. Chữ người tử tù, ông tìm cái đẹp ở đó, ừ thì còn được đi. Đến Chém treo ngành, ông cũng không dừng tìm thấy cái đẹp ở đấy. Thực đến mức thẩm mỹ chủ nghĩa, có người đã gán cho ông điều đó tôi nghĩ cũng không hoàn toàn oan đâu… Tôi có một anh bạn làm lý luận văn học, anh ấy bảo: Văn học, nói theo cách nào đó, là một cái thú chơi, các cụ ta xưa chẳng từng coi văn chương là thú chơi thanh nhã là gì! Người ta chơi văn chương, chơi cái đẹp, cho nên soi mói tìm cho ra cái đẹp trong từng ngóc ngách cuộc đời, và chăm chút, mân mê từng từ, tức là cái thứ chỉ có nó mới lột được hết cái đẹp ấy ra cho mình, và cho đời. Văn học nhân văn chính là vì vậy và như vậy đấy… Chính ở chỗ này có cái ly lai sợi tóc, chỉ cần chệch đi, quá đi một chút là rơi sang cái gọi thẩm mỹ chủ nghĩa như chơi!
Có lẽ đọc thật kỹ Trang Thế Hy, sẽ thấy anh gần Nguyễn Tuân chính ở chỗ này. Anh cũng là người chơi cái trò chơi thanh nhã ấy, (nghĩa là tiếp tục cái truyền thống của các bậc tao nhân mặc khách xưa, cho nên, nhìn kỹ mà xem, ở Trang Thế Hy vừa có cái gì đó rất hiện thực, hiện đại, vừa có cái gì đó rất xưa, thậm chí có phần cổ kính nữa). Anh cũng là con người suốt đời chăm chú lần mò đi tìm cái đẹp, trong chốn ngổn ngang nhân sinh. Anh không ồn ào tuyên bố, nhưng suốt đời anh sống vì cái đẹp. Tất nhiên hoàn cảnh của anh khác rất nhiều. Anh là một người viết văn, và là một người viết văn hoạt động bí mật – trong nhiều sáng tác của mình, anh không hề giấu giếm tư cách đó – “nằm vùng” trong thành phố địch chiếm, dựa vào những người tốt trong tầng lớp hạ lưu của xã hội, ở những xóm lao động nghèo, nơi cái nghèo lôi con người ta vào những hoàn cảnh, cả những nghề nghiệp bị khinh bỉ đến tận cùng. Chính trong cái đám bùn nhơ nhầy nhụa tưởng chừng đến tuyệt vọng ấy, anh lần tìm ra cái đẹp, và cái đặc sắc, độc đáo của Trang Thế Hy là cái đẹp anh chắt chiu tìm ra được và vô cùng trân trọng nhặt lên từ bùn nhơ, bỗng sáng lên long lanh, như ngọc, như kim cương. Trang Thế Hy là người đi tìm ngọc, tìm kim cương, không phải giữa chốn phồn hoa đô hội, cũng không phải trong tỷ mẩn trà dư tửu hậu, mà giữa cuộc đời nhọc nhằn, trần tục, ở nơi tận đáy cùng của xã hội. Không gian của anh là không gian nghèo hèn của những xóm lao động ngoại ô, trong ngôi nhà của những người đàn bà chuyên sống bằng nghề “nuôi em út”, nơi giữa đêm giao thừa vẫn nghe được “tiếng thùng khua và tiếng nước đổ vào lu ở tầng dưới nhà bên cạnh”, và nơi ấy có một cô gái “chơi bời”, một cô gái giang hồ biết nói với anh rằng “em biết thân em lắm”, và “em có tiền, nhưng tiền của em thì anh gớm lắm, em biết”, cô gái ấy một hôm đột ngột trở lại vào một ngày cuối năm sau thời gian dài biệt tăm “đi làm ăn”, và bỗng có cái khát khao sang trọng bất ngờ, bỗng thấy “thèm thơ”, bỗng đòi anh làm cho cô một bài thơ, “một cô gái chơi bời thì có nói gì được thành thơ (không anh)? – cô hỏi. Nhưng em không đòi thơ cho em đâu. Cho bất cứ cô gái chơi bời nào cũng được.” Và anh chàng thi sĩ đã lâu lắm không còn làm thơ, không còn chút cảm hứng thơ nào, bỗng “nghe trong lòng một niềm vui mong manh đang thức dậy” và bỗng thấy “thèm làm thơ một cách đáng gọi là làm thơ”… Vậy đó, Trang Thế Hy nói rằng không phải một cô gái trong trắng mà là một cô gái điếm ê chề, hoặc đúng hơn, cái chất ngọc vẫn còn trong veo trong cô gái bán hoa đã nhàu nát lắm ấy, là nguồn cảm hứng thơ chân chính của anh. Tôi nghĩ có thể coi cái truyện ngắn tuyệt diệu này, “Thèm thơ”, là tuyên ngôn nghệ thuật nghiêm túc của Trang Thế Hy.
Rất lạ, - tôi không ngần ngại nói lên điều này đâu, - hình như hình ảnh những cô gái đẹp nhất trong văn của Trang Thế Hy là hình ảnh những cô gái làm nghề ăn sương, lặn lội trong nhầy nhụa bùn nhơ của xã hội. Anh trân trọng nhặt họ lên từ đấy, trân trọng và nhẹ nhàng lau bùn cho họ, và nói với ta rằng: Thấy không, trong những con người này cũng có ngọc đấy, long lanh! Hoặc là những con người đang bị đẩy đến đứng mấp mé trên bờ vực của cái vũng bùn ghê sợ đó, chỉ một chút thiếu gượng lại nữa thôi là rơi tõm ngay xuống, và họ đã quyết cưỡng lại số phận kinh hoàng đó bằng cái chết vô cùng dữ dội, cô gái Hứa Lệ Mai trong truyện “Nguồn cảm mới” của anh, mà cái chết đã khiến bác Tư xích lô áng chừng là “Con “xẩm” con ngang bướng nó gan dạ mà liều lĩnh lắm… nó mượn ngọn lửa để kết liễu cuộc đời bệnh hoạn của cha nó rồi nó tự thiêu luôn”. “Áng chừng” ư? Nhưng nghĩ kỹ lại mà xem, còn có lối thoát nào khác nữa cho cô Hứa Lệ Mai trinh trắng như một nụ hoa mong manh mà mãnh liệt ấy nữa đâu! Cô “xẩm” ấy, dưới ngòi bút của Trang Thế Hy, hiện lên sáng toả như một liệt nữ. Trang Thế Hy viết về những liệt nữ ở chốn bùn đen…
Có lẽ đến đây thì đã có thể nhận rõ ra điều này rồi: Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẩn khuất, bị bỏ quên, hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất của nghèo khốn. Và tôi muốn nói điều này: thấy được và ngợi ca những vẻ đẹp hùng tráng, tất nhiên cũng cần lắm, nhưng dễ hơn nhiều. Tìm ra được cái đẹp nhỏ nhoi, không tên kia mới khó, cần rất nhạy, rất tinh, và có lẽ còn quan trọng hơn nữa, cần một tấm lòng nhân ái sâu xa lắm, một chất nhân văn không ồn ào, cường điệu, mà đậm đà lắm.
Và bây giờ, thử trở lại với so sánh ban đầu: Trang Thế Hy và Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở chỗ cầu kỳ, ở “Ấm trà trong sương sớm”, ở “Chữ người tử tù”… Trang Thế Hy, cũng tinh vi không kém, nhưng anh đi tìm cái đẹp trong sự giản dị của cuộc đời thường, trong “Áo lụa giồng”, trong “Mỹ Tho - Mỹ Thơ”…, ở những con người “thường”, ở “Anh Thơm râu rồng”, và ở tận đáy nữa của cuộc đời ấy… Ở hai hướng khác nhau, nhưng đều vì cái đẹp, và như vậy, họ khiến cho thế giới phong phú ra rất nhiều.
Còn một điều này khiến họ gần gũi với nhau nữa: cả hai đều là những người cầm bút vừa có Nho học vừa có Tây học uyên thâm. Gần mà cũng lại khác nhau: ở Trang Thế Hy phảng phất sự trong sáng, đôi khi hóm hỉnh nhẹ nhàng nữa, của Alphonse Daudet, Anatole France. Nguyễn Tuân thì hay cái hay rắc rối của Baudelaire hay Edgar Poe… Chỉ cần hơi tinh một chút để nhận ra chất trí thức Tây học ở Trang Thế Hy. Và có điều rất thú vị: chính sự thâm thuý văn hoá phương Tây đó khiến cho những người cầm bút thấm nhuần được nó lại tha thiết, mặn nồng quay về nâng niu những giá trị dân tộc và địa phương. Dường như chính vì họ có hiểu biết sâu rộng về văn hoá nhân loại, nên họ càng nhìn rõ hơn giá trị của văn hoá bản địa, và muốn nâng nó lên thành một phần nữa của những giá trị ấy, mà nó không hề thua kém chút nào. Ta đã biết Nguyễn Tuân độc đáo trong ngôn ngữ Việt của ông như thế nào. Ông “chơi” rất tinh, đến cầu kỳ nhiều khi, trên từng con chữ. Trang Thế Hy kỹ chẳng kém, tài hoa chẳng kém, cũng chơi trên từng con chữ, nhưng ông rất Nam Bộ, rất miền Tây, nơi có những rừng dừa bạt ngàn, “cao trật ót”, có nghề hái dừa “hụt sào” hiểm nguy, nơi những đứa trẻ con “èo uột như một trái cà đèo” đi bú nhờ người ta thì gọi là “đi bú khính”, còn những đứa bụ bẫm thì được gọi là “tốt đứa”… Và hai vị trí thức Tây học ấy cũng lại rất đậm cái khí cốt nhà Nho, đương nhiên cũng mỗi người một cách. Nguyễn Tuân là kiểu nhà Nho tài hoa mà bạt mạng Nguyễn Công Trứ. Trang Thế Hy thì nghiêm cách cái chất Nguyễn Đình Chiểu, cả cái khí tiết ấy, nhưng thoáng hơn nhiều, không chỉ dùng xà phòng Tây, mà còn biết nhâm nhi cả phó mát Tây, tinh tế trong cái ăn, cái uống chắc chắn chẳng hề thua gì ông Nguyễn Tuân, người hơi ồn ào trong sự thưởng thức cuộc sống của mình. Trang Thế Hy tinh mà kín hơn. Cả trong chữ nghĩa nữa cũng vậy, mới đọc anh thường có cảm giác anh viết rất dễ, thực ra tôi cho đó là một cảm giác đánh lừa, để viết được như vậy, anh kỹ lắm trên từng chữ, cũng nhâm nhi từng chữ chẳng thua gì ông Nguyễn Tuân kia đâu, sở dĩ anh “đánh lừa” được chúng ta, để cho ta tưởng anh làm văn thật dễ, vì anh rất tài, viết rất chăm chút, kỹ tính lắm, tự khó tính với mình lắm đấy, mà vẫn để cho người ta tưởng là nhẹ nhàng như không! Một ông Nguyễn Tuân rất Nam Bộ, phóng khoáng cái phóng khoáng của những cánh đồng cò bay thẳng cánh miền Tây…
Làm được như vậy, chính là vì đằng sau người cầm bút đó có một cái nền rất rộng, rất sâu, rất vững chắc. Đọc Trang Thế Hy, chính vì vậy, mà thú thật, tôi vừa vui vừa cảm thấy một chút… lo và buồn: những người cầm bút có được sau lưng mình một cái nền như vậy ngày nay có còn không? Có một cái nền rộng, lớn, sâu như vậy, để mà suốt đời viết rất ít, khiêm nhường, cái khiêm nhường của người biết rất nhiều, chỉ người biết rất nhiều mới có được. Một cái nền rất sâu, rất rộng, để mà viết về những cái rất nhỏ, rất âm thầm, rất địa phương, rất bản địa. Có lẽ chỉ có như vậy thì mỗi nhà văn mới làm được cái việc mà người ta gọi là “đóng góp” vào gia tài chung của văn hoá, văn học dân tộc, và thế giới. Ngày nay hình như người ta viết mạnh mẽ hơn, bạo dạn hơn, xông xáo, ồn ào hơn, liều lĩnh hơn…, đều rất quý. Nhưng một cái nền cho tất cả những cái đó, mong sao cũng có được như thế hệ Trang Thế Hy từng có. Và để có được cái nền đó, vậy mà là cả một công cuộc lớn, và có thể cả lâu dài lắm, tôi nghĩ vậy.
Trang Thế Hy, do vậy không chỉ để lại cho chúng ta một sự nghiệp sáng tác rất quý, anh còn để lại một bài học lớn. Tôi muốn được gọi anh là một “người hiền” của văn chương Nam Bộ.
Nguyên Ngọc
Tháng 7-2006
Các thao tác trên Tài liệu