Nỗi Đau Thăng Long
Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Nỗi Đau Thăng Long
Phạm Thảo Nguyên
Trích đoạn trong Nguyễn Du, Cuộc Đời Trong Thơ
Năm 1813, Nguyễn Du được vua Gia Long thăng Cần Chánh điện học sĩ, làm Chánh sứ đi Trung Hoa triều cống. Được qua Bắc Thành (tên mới của Thăng Long), nhìn lại núi Tản sông Lô hùng vĩ, thi hào vui mừng hào hứng, bộc lộ trong hai câu đầu bài thơ Thăng Long :
Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng |
Núi Tản sông Lô mãi mãi đồng |
Người Thăng Long nào mà chẳng muốn nhìn lại thành xưa, những nơi đẹp đẽ của quá khứ, may ra còn vương lại chút gì chăng ? Thi hào rời Thăng Long năm 1793, dưới triều Tây Sơn, lúc ấy Thăng Long của chàng thanh niên sinh ra và lớn lên tại đất này còn nguyên vẹn :
Này
đường về phố cũ. Này đường
về ô xưa
Nét
xưa ngàn năm mờ phai khi tàn mơ
(Thăng Long Hành Khúc, Văn Cao)
Văn Cao, người thời nay không sinh trưởng tại đây còn nhớ Thăng Long như thế, nữa là người thời xưa, nữa là Chiêu Bẩy Nguyễn Du ! Nhưng, ngay đó với hai câu thực liền sau của bài thơ trên, thi hào đã mở tung sự thật : Thăng Long yêu quý đã bị phá tan, đã biến đổi tàn khốc rồi ! (Hiện nay nhiều nhà khảo cổ đã có kết luận rằng tất cả những dấu tích cuả Thăng Long xưa từ thời nhà Lý đã bị xoá sạch, từ đàn Nam Giao đến các cung điện thành quách…). Đây chỉ là hai hình ảnh đau đớn xuất hiện ngay trước mắt, căn bản đối với thi hào :
Thiên niên cự thất thành quan đạo |
Ngàn năm dinh thự thành đường cái |
Dinh thự ngàn năm (nhà ta xưa ở đó), bây giờ đã bị phá đi xây đường cái đè lên cho xe cộ người vật đi lại suốt ngày đêm rồi. Còn cung điện vua cũ ? Bị đập nát, vùi đi, dựng một bức thành lên trên rồi ! Mà ai phá ? Chính vua nhà Nguyễn chứ ai ! Việc này là do lệnh Gia Long (1806), không phải do chiến tranh. (Lệnh trong thời bình từ một triều đình người Việt, phá tan cả một nền văn hoá dài ngàn năm, do bao nhiêu tổ tiên triều trước xây dựng nên trên đất nước này. Thêm lệnh cấm nói tới Tây Sơn, ngay cả nói tới các chúa Trịnh… nên con dân Lạc Việt thời nay không biết gì hết ! Quên hết dĩ vãng !)
Hơn nữa, theo phong thuỷ, phá thành cũ xây đường cái lên, dựng thành mới đè lên cố cung của vua chúa cũ, là cách yểm đất để vùi dập tất cả tương lai. (Anh Nguyễn Khản, em Nguyễn Ức chuyên về kiến trúc, Nguyễn Du không thể không biết về phong thuỷ). Chắc chắn Nguyễn Du hiểu rõ khi viết ba chữ một cố cung. “Một” nghĩa là vùi lấp, là chìm mất, là chết, là hết, là không còn, là “mai một”.
(Thế mà đi sứ về Nguyễn Du không sợ, dám cho phát hành tập Bắc hành !).
Điểm cuối cùng của những ngày ghé Long Thành xưa là đêm tiệc chiêu đãi sứ đoàn của đương kim tuyên phủ Bắc Thành Nguyễn Huỳnh Đức.
Sau hai mươi năm xa vắng, Nguyễn Du dưới mũ áo quan chánh sứ khâm sai đại thần, bước vào dự đêm đại tiệc chiêu đãi chính ông, người Thăng Long cũ trở về : “ Kế văn, cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi ” (Bất chợt nghe thấy vút lên một tiếng đàn trong trẻo, khác hẳn các khúc nhạc đương thời) 1.
Ôi, khúc đàn xưa xuất hiện ! Vừa lọt tai, lắng tiếng, lòng người đã tràn ngập nhớ thương ! Ôi, có lẽ nào ! Khúc đàn xưa đang rung lên trong không gian, đang nức nở đánh thức tâm tư sâu thẳm của người nghe, kêu gọi tới nơi tận cùng của ý tứ, của những niềm riêng đã từ lâu im ắng… Người nghệ sĩ Nguyễn Du thưởng thức âm nhạc bằng cả tâm hồn mình, đã nhận rõ từng uẩn khúc : Diễm ảo mà kỳ lạ thay, âm thanh du dương thánh thót kia ẩn giấu giọt lệ tủi hờn. Lập tức trong sâu thẳm lòng ông, tiếng đàn ngày cũ nổi lên cùng tiếng đàn đêm nay ẩn hiện chập trùng : Quá khứ, hiện tại trộn lẫn vào nhau không phân biệt, mang mang đưa người vào cơn mơ siêu thực trong Long Thành chỉ còn là hư ảo. Trong lòng ông hình bóng Nàng Cầm của những ngày xưa cũ hiện về :
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thuỳ |
Khúc xưa thánh thót ẩn lệ rơi |
(Tuy lúc này, thi hào còn lầm tưởng rằng người tấu đàn ngồi cuối chiếu đêm nay là người mình chưa từng biết, có hình hài sắc tàn mi úa không trang điểm).
Thật bất ngờ, quá khứ không đợi mà về, trùng trùng không dứt tung lên dạt xuống, dày vò kẻ tha hương vừa trở lại. Tất cả quá khứ hiện tại, hiện tại quá khứ suốt hơn hai mươi năm biến động bỗng như trộn lẫn vào nhau, cùng biểu hiện trong lòng thi sĩ : Quá khứ thời Tây Sơn khi ông lần đầu được nghe khúc đàn do Nàng Cầm tấu, và quá khứ của quá khứ vì khúc đàn đó chính là khúc Cung Phụng của Đại Nội triều Lê xưa. Từ thành quách cơ nghiệp oai hùng của Tây Sơn, với tướng tá hào hoa… thoắt chốc tan tành hết, tiêu tán hết, chỉ còn một nàng đào nương tàn tạ ngồi kia đang tấu khúc đàn xưa làm nhân chứng :
Thành quách suy di nhân sự cải |
Thành quách tàn đi, người thay đổi |
Người nghệ sĩ trong ông rung động theo tiếng đàn, chơi vơi giữa bây giờ và ngày ấy. Sự tinh tế đã lên đến tuyệt đỉnh của cả người tấu nhạc lẫn người nghe. Hình như lúc ấy trong toà thành mới xây, hai người đó đang trùng phùng trong từng tiếng đàn thánh thót tràn ngập xúc động tự ngày xưa.
Đêm hát qua đi, tiếng đàn vẫn lẩn khuất đâu đây trong không gian, và cả trong hồn người lữ khách mới trở về. Khiến quan chánh sứ phải tìm người dò hỏi : “tức kỳ nhân dã” (thì ra người ấy ! x. Tiểu Dẫn, Nguyễn Du). Niềm thương xót dâng trào, mắt thơ đầm đìa những lệ. Kiệt tác văn chương Long Thành Cầm Giả Ca được thi hào viết ra trên đường đi sứ tiếp theo. Bút pháp tuyệt vời của Nguyễn Du như nhẩy múa, như chao đảo. Tiếng thơ vang lên như cơn say :
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì |
Trăm năm thoáng chốc đáng bao nhỉ |
Hai câu kết là :
Song nhãn trừng trừng không tưởng
tượng |
Đôi mắt trừng trừng không tưởng nổi |
Đúng là trong buổi tiệc Nguyễn Du đã không nhận ra Nàng Cầm, cũng như Nguyễn Du không biết rằng : Chắc chắn Nàng Cầm đã nhận ra Nguyễn Du !
Đêm nay, cô được giáo phường gọi tới đàn giúp vui tiệc chiêu đãi khâm sai đại thần cùng sứ đoàn. Cả thành ai cũng biết, cũng xì xào vì quan chánh sứ là người Thăng Long cũ, con em quan tham tụng, tể tướng thời vua Lê chúa Trịnh xưa, tên là Nguyễn Du ! Ôi chàng trẻ tuổi Nguyễn Du xưa, nếu không phải người tình thời niên thiếu, thì cũng là tri âm của Nàng Cầm thuở ấy. Cuộc đời một đào nương được mấy tri âm ? Làm sao mà quên được ? Phải chăng nàng vẫn trông ngóng đợi chở người tri âm đó từ bấy đến nay ?
Nhưng Nàng Cầm tài giỏi xinh đẹp khả ái ngày xưa, một báu vật vô giả của kinh thành Thăng Long cũ : “ Hoạt tố Tràng an vô giá bảo ” đó, trong đêm tiệc chiêu đãi quan chánh sứ tại Long Thành, đã xuất hiện rất khác lạ như sau dưới mắt Nguyễn Du, trong thơ :
...Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa ... |
...Cuối chiếu có nàng tóc pha bạc |
Và rõ ràng hơn nữa trong bài Tiểu Dẫn :
“ Thị kỳ nhân nhan xấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại bôi sắc, đa bạch bổ, mặc toạ tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kỳ trang đãi bất kham giả bất phục tri vị thuỳ hà ” (Người gầy gò, vẻ tiều tuỵ, mặt đen, xấu như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc thếch thêm nhiều mảnh vá trắng, ngồi im ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình dáng thật khó coi – Đào Duy Anh, sđd – khiến cho Nguyễn Du trông thấy mà hoàn toàn không nhận ra người).
Việc này thật khác thường, xưa cũng như nay, không một đào nương ca sĩ nào khi đi biểu diễn tại các nơi quan khách cấp nhà nước, mà không làm đẹp, không ăn mặc lộng lẫy chải chuốt, mà trái lại dám phục sức lem luốc như thế. Nhất là những mảnh vải trắng vá đụp (!) trên xống áo, hiện ra lồ lộ như đập vào mắt mọi người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo phường phải biết trước. Họ đã đồng ý cho phép, hay đồng loã che chở cho Nàng Cầm phục sức như vậy. Nếu không, cô đã không thể đi tới được buổi tiệc, hay bị đuổi ra khỏi dinh ngay từ đầu.
Thêm nữa, Nàng Cầm thật ra chưa hề già ! Thi sĩ gặp cô lần đầu sau khi Tây Sơn đã phá xong trận Đống Đa, chiếm Thăng Long, Nguyễn Nễ đi sứ về,vậy khoảng năm 1790. Lúc đó cô mới được “...tam thất chính phương niên ” (Ba lần bẩy, tức 21 tuổi). Tới lúc này 1813, tức 23 năm sau, cô 44 tuổi, tuổi chín tới của một người đàn bà. Cô là đào nương có tuyệt kỹ chơi đàn nguyệt, nổi tiếng không ai bì kịp. Giáo phường vẫn biết trọng tài nghệ của cô. Cô vẫn được mời đi tấu nhạc. Nếu không được vinh quang như ngày xưa, thì cũng không đến nỗi ba đào lênh đênh. Không có lý do gì làm cô tiều tuỵ nhanh như thế ! Ai cũng biết người đàn bà Á Đông thường trẻ lâu hơn tuổi. Vi vây, phải chăng cô cố ý hoá trang, cố ý ăn mặc như đang để tang Thăng Long ? Phải chăng cô muốn Nguyễn Du biết nỗi đau của người Thăng Long ? của thành Thăng Long ? Hành động của cô như muốn gửi đi một thông điệp. Có thể như sau :
“ Hỡi chàng thi sĩ ngày xưa nghèo khổ, sống đời giang hồ trốn tránh ngoài bãi sông, được anh ruột làm quan cho Tây Sơn bao bọc che chở. Hôm nay vinh hiển trở về. Nghe tiếng đàn xưa của ta, có nhớ thời xưa, người xưa chăng tá ?
Ngày xưa anh luân lạc phù Lê, bây giờ anh phù ai ? Phù cái triều đình đã đập phá tan tành thành Thăng Long của chúng ta đấy ư ? Anh có biết dân Thăng Long khổ như thế nào không ? ”
Đồng thời, cô là một nghệ sĩ bậc nhất, một người đàn bà nhan sắc, có cá tính rất mạnh (Tiểu Dẫn). Từ khi biết khách chính đêm tiệc là Nguyễn Du, cô muốn đựơc gặp, được thấy lại chàng thi sĩ của ngày xưa. Cô hiểu, đây là một đặc ân tuyệt diệu, một cơ hội đẹp nhất mà cuộc đời dành lại cho cô : Được đàn cho Nguyễn Du, người tri âm xưa cũ nghe một lần cuối trong đời.
Cho nên, cô mang hết tuyệt kỹ, hết lòng mình gửi vào khúc Cung Phụng để tặng người, và cũng để người hiểu nỗi đau Thăng Long, một lần cuối này thôi.
Cho nên, tiếng đàn mới “ nức nở ” nhường ấy, mới “ ẩn lệ rơi ” nhường ấy.
Vì thế, người nghệ sĩ Nguyễn Du, dù chưa nhận ra cô, mới nghe tiếng đàn, đã hiểu thâm sâu, hiểu hồn người tấu nhạc, đã lập tức cảm thấy lòng đầy bi thương (tâm trung bi), với hình ảnh lồng lộng diễm ảo của Nàng Cầm trong quá khứ :
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi… |
Hồ Giám đêm hát từng thấy người |
Và thi hào tiếc nuối tột cùng khi hiểu được người đánh đàn là ai :
Nam hà quy lai đầu tận bạch |
Nam hà trở lại ta trắng tóc |
Đêm hát kết thúc, Nàng Cầm lặng lẽ theo giáo phường ra về. Cô đã thực hiện được điều cô không bao giờ dám mơ ước trong suốt hai mươi năm trời vắng bóng “người ấy” ở Thăng Long. Còn Nguyễn Du, sau khi biết người tấu nhạc chính là Nàng Cầm, đã “cảm thương vô hạn” cô bạn cũ (Tiểu Dẫn). Thi hào viết bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca, để lại cho hậu thế chúng ta những câu thơ thần sầu, xúc động nhất tập Bắc Hành, kỳ lạ nhất của văn chương Việt Nam. Năm sau 1814, khi sứ đoàn về nước, Nguyễn Du đã cho phát hành khắp nơi tập thơ Bắc hành 3. Như vậy, Nàng Cầm chắc đã được đọc bài thơ này, đã cảm được sự an ủi vô cùng từ người bạn tri âm ngày xưa cũ. Và nhất là hành động có chủ ý chứng tỏ nỗi đau của Nàng, của người Thăng Long, của thành Thăng Long đã được Nguyễn Du thấy, hiểu, viết ra, kể lại cho người đọc cả nước, và cho hậu thế chúng ta.
Sau đó it năm, Nguyễn Hành khổ hơn chú Du nhiều khi trở về Bắc Thành không còn gập một người quen. Ngỡ ngàng cay đắng thấy mình chỉ là một thằng rách rưới không ai biết đến ngay tại nơi quê hương kinh đô cũ. Nơi đã hoàn toàn thay đổi, không còn tới một vật xưa, trong bài thơ Bắc Thành Lữ Hoài (Tha Thẩn Bắc Thành) sau đây :
Ngã diệc vi hà giả ? |
Ta là thằng nào đây ? |
Với hai câu kết :
Tích niên quý công tử, |
Năm xưa quý công tử. |
Phạm Thảo Nguyên
Chú Thích
1 Nguyễn Du, Tiểu Dẫn, Đào duy Anh dịch, trong Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, 1988.
2 Phạm Thảo Nguyên, thơ Việt dịch trong bài viết này đa số trích trong cuốn : Đọc Và Dịch Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, Thảo Nguyên, 2007, và 2009.
3 Nguyễn Quảng Tuân, Tìm Hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, trích Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, nxb Khoa Học Xã Hội, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc học, 2000.
Phụ lục
LONG THÀNH CẨM GIẢ CA
Lời người dịch : bài Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du đã có nhiều bản dịch, phần nhiều theo thể song thất lục bát hay lục bát theo âm hưởng Truyện Kiều, và có một ít bản theo thể thất ngôn trường thiên. Nhưng thời nào vẫn có những tìm kiếm, những cách viết mới, cách hiểu mới, hứng thú mới. Bài dịch này là một thí dụ;
Phạm Thảo Nguyên
Ghi Chú : Trước bài Long Thành Cầm Giả Ca, Nguyễn Du có viết một bài Tiểu Dẫn văn xuôi. Trong đó thi nhân mô tả sắc đẹp, tính cách nàng Cầm và những lần ông gặp nàng : ngoài hai lần đầu và cuối tả trong bài thơ, còn có những lần được nghe nàng đàn hát ở nhà Nguyễn Nễ, anh ông, đang làm quan cho nhà Tây Sơn ở Thăng Long. Sau cùng là những xúc động khi gặp lại Nàng Cầm tiều tụy bây giờ, khiến ông làm bài thơ này.
龍城琴者歌阮攸
1-龍城佳人 |
Long Thành Cầm Giả CaNguyễn Du Long Thành
giai
nhân, |
Dịch thơ
Bài Ca Nàng Cầm Ở Long Thành
Người
đẹp Long Thành
Tên họ chẳng ghi lại rõ rành
Giỏi nhất đàn Nguyễn cầm
Người trong thành gọi Nàng Cầm, nên danh
Học được trong cung triều xưa khúc Cung Phụng
Trên trời dưới thế tuyệt vời âm thanh
Nhớ xưa tuổi trẻ từng thấy đến
Bên bờ Hồ Giám đêm tiệc yến
Áo hồng chìm dưới mặt hoa đào
Mới vừa hai mốt mùa xuân điểm
Yêu sao má rượu đỏ hây hây
Thoắt chuyển năm cung tay lướt biến
Tiếng khoan như gió thoảng rừng thông
Trong như đôi hạc kêu đêm không
Mạnh như sét đánh bia Tiến Phúc
Buồn như Trang ốm Việt ngâm nồng
Người nghe say sưa hồn thu hút
Đúng là Trung Hoà Đại Nội Cung Phụng Khúc
Quan khách Tây Sơn thoả thích ngồi ngất ngây
Say sưa mê đắm năm canh suốt
Tả hữu tranh nhau gieo thưởng tiền
Bạc vàng như đất quăng như rác
Hào hoa sang cả át vương hầu
Thiếu niên Ngũ Lăng thấm vào đâu !
Mình nàng ba mươi sáu cung chung đúc
Lung linh vô giá Thăng Long bảo châu
Đêm tiệc đã qua hai mươi năm
Tây Sơn thất bại, ta vào Nam
Gang tấc Long Thành chẳng thấy lại
Nữa là Hồ Giám chiếu ca ngâm
Đêm nay, Tuyên phủ vì ta mở tiệc mua vui, vời ca kỹ
Đầy chiếu đào nương tuổi xuân thì
Cuối chiếu có nàng tóc pha bạc
Võ vàng nhỏ bé mặt ủ ê
Sắc tàn mi úa không trang điểm
Ai biết ngày xưa tài hoa bậc nhất chốn Kinh kỳ ?
Khúc xưa thánh thót ẩn lệ rơi
Lọt tai, lắng tiếng, dạ bồi hồi
Bỗng nhớ chuyện xưa hai mươi năm về trước
Hồ Giám chiếu hát từng thấy người
Thành quách tàn đi, người thay đổi
Bao nhiêu ruộng dâu thành biển khơi
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành hết
Đào nương còn đó một nàng thôi
Trăm năm thoáng chốc đáng bao nhỉ ?
Đau lòng ướt áo lệ trào mi
Nam Hà trở lại, ta trắng tóc
Lạ gì người đẹp sắc phai đi
Đôi mắt trừng trừng không tưởng nổi
Thương ôi, đối mặt chẳng biết gì !
Chú Thích
Long Thành là tên gọi khác của thành Thăng Long. Từ khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Phú Xuân trở thành kinh đô cả nước, Thăng Long có tên là Bắc Thành.
(1)
Nguyễn cầm : Đàn nguyệt.
(2) Giám
hồ : Hồ ở khu Quốc Tử Giám, Văn
miếu. Xưa kia vùng này có một
loạt hồ thông nhau, tổng cộng rộng
hơn Hồ Tây. Hiện nay hãy còn di
tích hồ Văn thuộc Giám.
(3) Yểm
ái : Ám mạo, nghĩa là bị mờ
đi
(4) Tiến Phúc bi : Bia chùa Tiến
Phúc, Giang Tây, chữ đẹp nổi
tiếng, sau bị sét đánh vỡ
tan.
(5) Trang Tích : Người gốc Việt,
thời Bắc Thuộc, làm quan cho nước
Sở, khi ốm vẫn ca ngâm bằng tiếng
Việt.
(6) Trung Hoà Đại Nội : Cung
điện của các vua nhà Lê xưa,
thuộc nội thành Thăng Long, rất huy
hoàng tráng lệ. Chắc rằng khi Nguyễn
Du còn nhỏ, ông đã được
nhìn thấy những cung điện của
Thăng Long cổ, trước khi những cuộc
chiến tranh tàn khốc xảy ra, nhất là
lệnh vua Gia Long phá Thăng Long xây thành
mới, 1806.
(7) Ngũ Lăng : Khu mộ nhà
Hán, nơi bọn tài tử trẻ tuổi
thường đến chơi.
(8) Tuyên Phủ
: Quan trấn thủ Bắc Thành.
(9) Nam Hà
: Phía nam của sông Cái, sông Hồng,
chỉ Thuận Hoá, nơi Nguyễn Du đang
làm quan với nhà Nguyễn.
Các thao tác trên Tài liệu