Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / Ông Chiến sĩ Erwin Borchers

Ông Chiến sĩ Erwin Borchers

- Nguyễn Xuân Thọ — published 10/08/2025 17:10, cập nhật lần cuối 10/08/2025 21:00


Ông Chiến sĩƒ Erwin Borchers


Nguyễn Xuân Thọ



1. Tái ngộ


Đầu năm 1968, chúng tôi vừa học xong sáu tháng tiếng Đức, bắt đầu vào học nghề điện tử ở trường Bưu điện Königs Wusterhausen, CHDC Đức thì bỗng một hôm có hai chị em người Đức đến thăm bọn tôi ở ký túc xá. Lúc này chúng tôi mới sang được hơn nửa năm, tiếng còn ú ớ nên vớ được hai chị em đều giỏi cả tiếng Đức và tiếng Việt thì rất mừng.

Hai chị em đó là Claudia, tên Việt là Việt Đức, và cậu em trai Hansi, tên Việt là Đông Quân, con ông Erwin Borchers, một người Đức từng chiến đấu cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Ông được phong hàm trung tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, mang tên Việt là Nguyễn Chiến Sĩ. Ông rất thích cái tên này vì “Chiến Sĩ” dịch ra tiếng Đức là “Kämpfer”, bên cạnh cái ý nghĩa người lính còn là người chiến đấu vì một điều gì đó. Ông lấy vợ Việt Nam và cả sáu người con của ông đều sinh ra ở đó. Năm 1966, gia đình ông hồi hương về CHDC Đức. Khi ở Việt Nam, Claudia học phổ thông ở trường cấp Ba Kim Liên, cùng lớp với chị Kim Dung trong đoàn chúng tôi. Nhận được thư của Kim Dung, hai chị em Claudia đến trường tôi trên Đồi Điện tín (Funkerberg) để thăm.

Ba tôi khi làm việc ở Việt Nam Thông tấn xã (VNTTX) có biết ông Chiến Sĩ Erwin Borchers. Từ cuối những năm 1950 ông đã ra khỏi Quân đội Nhân dân Việt Nam, trở thành phóng viên thường trú hãng thông tấn ADN (Allgemeiner Deutscher Nachrichtendienst) của CHDC Đức tại Hà Nội. Vì gia đình tôi ở ngay trong cơ quan VNTTX, số 5 Lý Thường Kiệt, nên tôi có lần thấy ông đến thăm. Vào những năm 1960 ở Việt Nam có hai ông nhà báo nước ngoài mà người Việt đều gọi là ông Bớc-Sét, đó là nhà báo Đức Erwin Borchers và nhà báo Úc Wilfred Burchett, nên tôi hay nhầm lẫn. Tôi cũng đã nhìn thấy cả hai ông đến thăm VNTTX ở số 5 Lý Thường Kiệt mà không nhớ ông Bớc-Sét nào là ông Chiến Sĩ.

Vậy nên khi Claudia và Hansi đến thăm chúng tôi ở Königs Wusterhausen, tôi chợt thấy cậu Hansi có khuôn mặt khá giống một ông Bớc-Sét mà tôi từng nhìn thấy.

Claudia ngồi chơi với nhóm các bạn nữ. Còn đám con trai thì rủ cậu Hansi sang phòng câu lạc bộ để tán dóc, vì thấy cu cậu vừa láu cá kiểu Việt Nam vừa chững chạc kiểu con Tây. Hansi nói tiếng Việt như gió và phát âm tiếng Đức chẳng khác gì đám bạn Đức trong ký túc xá. Thế là đám con trai chúng tôi bám lấy hắn để hỏi về các từ bậy bạ trong tiếng Đức mà bà giáo không bao giờ dạy. Hansi lúc đó mới 13 tuổi nhưng đã rời Việt Nam sang Đức hai năm, lại có bố người Đức nên vốn từ “đen” khá nhiều, đáp ứng được sự tò mò của đám thanh niên Việt đang bí đủ thứ. Sau khi hỏi được những từ “hiếm” dành cho việc trai gái, thằng Châu chỉ vào cặp mắt cận thị lòi trố của tôi và hỏi Hansi: “Mắt như thằng này tiếng Đức gọi sao?”

Froschaugen (mắt con ếch).”

Thế còn cái mũi tẹt của nó?”

Plattnase!”

Cả bọn cười bò.

Hơn nửa thế kỷ sau, nhờ mạng xã hội và bạn bè, tôi lại kết nối được với Claudia Borchers, hiện là một họa sĩ đang sống và sáng tác ở Berlin. Giữa tháng 9/2024, chúng tôi hẹn gặp nhau cùng một số bạn bè tại một quán ăn Việt Nam ở quận Weissensee, Berlin.

h1

Họa sĩ Claudia Borchers (thứ hai từ phải sang) cùng tác giả (ngoài cùng bên phải)
và bạn bè tại Berlin, tháng 9/2024


Sau 56 năm, Claudia không thay đổi mấy ngoài những dấu ấn của tuổi tác. Chị nói tiếng Việt vẫn chuẩn, không pha chút giọng nào của người Âu. Chị kể, sau mấy chục năm ở Đức, chị đã chuyển tư duy bằng tiếng Việt sang tiếng Đức, nhưng đếm và tính nhẩm vẫn bằng tiếng Việt. Claudia vẫn nhớ đến cái tên Bản Mù, Thái Nguyên nơi chị sinh ra. Tôi tra bản đồ Google thì thấy mấy nơi mang tên Bản Mù. Nếu gọi là Bản Mù vì quanh năm lúc nào cũng sương mù thì ở Việt Bắc chắc có nhiều nơi như vậy.

Claudia và tôi ôn lại một số chi tiết về “ông Chiến Sĩ” và tôi bỗng cảm thấy cần phải viết về bố mẹ chị. Đầu tiên tôi đồng cảm với ông vì ông và tôi đều có hai quê hương Việt Nam và Đức. Hơn thế nữa, cuộc đời của gia đình Chiến Sĩ không chỉ khắc họa mối quan hệ Việt - Đức mà còn là nhân chứng cho những thăng trầm của hai dân tộc này trong cả thế kỷ qua. Để viết được một cách trung thực, chính xác, tôi phải tham khảo rất nhiều tài liệu và phải hỏi thêm cậu em Hansi nhiều chi tiết mà Claudia không còn nhớ.

Tháng 11/2024, nhân về Hà Nội có việc nhà, tôi ghé thăm gia đình chị Hoàng Giang, con gái lớn của ông Chiến Sĩ. Chồng chị Giang, giáo sư Đỗ Xuân Thụ, tiến sĩ vật lý điện tử, từng là thầy giáo của tôi thời tôi học Đại học Bách khoa Hà Nội (1975-1981). Tôi cũng lặn lội tìm được chị Lê Thị Mỹ, một đồng nghiệp cũ ở VTV. Chị là cháu bà Bình vợ ông Chiến Sĩ. Những cuộc gặp gỡ này đã giúp tôi bổ sung nhiều chi tiết vào bản thảo đã gửi đi.



2. Những người tình nguyện từ lính Lê dương


Người ta viết rất nhiều về vai trò của người Pháp, người Mỹ, người Nhật, người Nga, người Trung Quốc trong cả hai cuộc chiến tranh Đông Dương1, nhưng ít ai biết về vai trò của người Đức ở đây. Một bài báo Đức thậm chí còn đặt câu hỏi : “Phải chăng Điện Biên Phủ là trận chiến cuối cùng của WAFFEN-SS?”2

SS viết tắt của từ Schutzstaffel (đội bảo vệ), một tổ chức bán vũ trang của Đảng Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa (Quốc Xã) Đức từ những năm 1920, khi Hitler chưa lên cầm quyền. Đây là một tổ chức bán vũ trang bất hợp pháp, chủ yếu để tấn công các lực lượng chính trị chống Hitler và bảo vệ các hoạt động của Đảng Quốc Xã. Sau khi Hitler lên cầm quyền đầu năm 1933, lực lượng SS được hợp pháp hóa vào nhà nước phát xít để trở thành nòng cốt của bộ máy công an, gọi là SS-GESTAPO3. Còn lực lượng WAFFEN-SS4 trở thành nòng cốt SS của quân đội Quốc xã. Cả hai lực lượng này đã gây rất nhiều tội ác trong Chiến tranh thế giới II.

Sau ngày nước Đức đầu hàng đồng minh hôm 8/5/1945, cả WAFFEN-SS và SS-GESTAPO đều bị xóa sổ. Trong số 740.000 tù binh Đức trong các trại tù ở Pháp thì lính SS có tương lai mờ mịt nhất bởi những tội ác của chúng. Vì vậy, phần lớn binh sĩ SS xin gia nhập lính Lê dương5 của Pháp để mau chóng hưởng tự do. Đã có hơn 30.000 lính Đức có mặt trong đội quân Lê dương Pháp ở Việt Nam từ 1945-1954. Trong số 3.500 lính dù nhảy xuống Điện Biên Phủ cuối năm 1953 thì hơn 1.600 là cựu quân nhân SS. Cựu binh SS là lực lượng thiện chiến nhất trong binh đoàn Lê dương và cũng là những kẻ gây nhiều tội ác nhất ở đây. Viết dài dòng như vậy vì người Việt lớn tuổi thường nhớ đến sự tàn bạo của lính WAFFEN-SS trong chiến tranh Đông Dương mỗi khi nói về người Đức.

Nhưng các ông Chiến Sĩ (Erwin Borchers), Hồ Chí Long (Walter Ullrich), Hồ Chí Thọ (Georges Wachter), Lê Đức Nhân (Rudolf Schroeder) và Nguyễn Dân (Ernst Frey) là những người lính Lê dương gốc Đức không hề có quá khứ WAFFEN-SS. Họ là những người chống phát xít, yêu hòa bình, nhưng vì trốn Hitler nên phải chạy sang đầu quân cho Pháp. Những trí thức cánh tả này mau chóng nhìn thấy tội ác của Pháp trong cuộc chiến giành lại thuộc địa nên họ chủ động liên hệ với Việt Minh. Họ không phải là tù binh hay hàng binh. Để tránh gây ngộ nhận, mặc cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi họ là những người “Việt Nam mới” và tặng họ những cái tên Việt nói trên. Nhà thơ Phạm Kỳ Đăng đã viết về ông Chiến Sĩ như sau :

Trong dòng xoáy của lịch sử Việt Nam thế kỷ vừa rồi có những số phận là tụ điểm của mọi xung đột và vận động của thời đại, song thời đại dường như không muốn nhớ đến. Erwin Borchers, một người Đức mang tên Việt do Hồ Chủ Tịch đặt là Chiến Sĩ, thuộc về số ấy.


h2

Ông Erwin Borchers ở Việt Nam còn được gọi là trung tá Nguyễn Chiến Sĩ.


Sinh năm 1906 tại Straßburg (vùng Elsaß) khi ấy còn thuộc Đức, theo học văn chương Đức và Pháp, ông sớm gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội Đức và tham gia các hoạt động chống phát xít, để cuối cùng phải sang Pháp trốn sự truy bức của chính quyền Quốc xã. Tại Pháp, ông lại bị quản chế vì bị tình nghi là gián điệp Đức. Năm 1939, ông chọn con đường gia nhập quân đoàn Lê dương của Pháp để thoát tù đày và hy vọng đứng dưới ngọn cờ Pháp chống lại Đức phát xít. Nhưng sau hai năm ở Algérie rồi sang Đông Dương, thất vọng về mục tiêu tái chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, ông cùng Rudolf Schröder, một trí thức cánh tả Đức, và Ernst Frey, một người Áo, đảng viên cộng sản, thành lập một chi bộ cộng sản trong quân đoàn Lê dương của Pháp và bắt liên lạc với Việt Minh. Khi Nhật hất cẳng Pháp tại Đông Dương, ông bị Nhật giam giữ vài tháng. Năm 1945, cùng hai người đồng chí kể trên, ông được một chiếc xe hơi Mỹ của Việt Minh đón về đại bản doanh của lực lượng kháng chiến. Ông được các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh đích thân đón nhận vào hàng ngũ kháng chiến. Trong suốt chín năm kháng chiến, Erwin Borchers giữ nhiều trọng trách trong hoạt động tuyên huấn và địch vận, ra tờ báo đầu tiên của Việt Minh bằng tiếng Pháp, kêu gọi lính Pháp và lính Lê dương trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ về với chính nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo dục hàng binh và tù binh Pháp... và có mặt trong trận Điện Biên Phủ lịch sử.”6

Ông Erwin từ trẻ đã tham gia Đảng Dân chủ Xã hội Đức7. Vì làm giáo viên tại một trường phổ thông ở Frankfurt nên ông là một trong những người đầu tiên bị sa thải sau khi Đảng Quốc xã lên cầm quyền đầu năm 1933. Vì tiếp tục tham gia các hoạt động chống phát xít nên ông bị bắt. Cha ông, vốn là một người theo chủ nghĩa dân tộc nên rất khó chịu với cậu con trai. Tuy nhiên, ông cụ vẫn tìm cách mua chuộc cảnh sát ở Frankfurt để họ thả con trai. Ra tù, ông Erwin biết là mình không thể sống ở Đức được nữa nên có ý định xuất cảnh đi tị nạn. Ông cụ dọa là “Nếu bỏ nước ra đi tức là phản bội tổ quốc thì ba sẽ từ con”.

Tuy vậy, ông Erwin vẫn trốn sang Pháp và kiếm sống bằng nghề bán sách. Lúc đó nước Pháp coi kiều dân Đức là những kẻ “ngoại quốc thù địch” nên ông sống rất khó khăn. Khi chiến tranh thế giới nổ ra, ông Erwin bị Pháp bắt vào trại tập trung. Ở đó, người ta đặt ông trước hai lựa chọn: hoặc ở trong trại cho đến khi kết thúc chiến tranh, hoặc phục vụ trong quân đoàn Lê dương Pháp. Erwin Borchers chọn đi lính. Ngày 16/9/1939, ông gia nhập quân Lê dương với hy vọng có thể chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít. Nhưng ảo tưởng này nhanh chóng biến mất. Trong thời gian huấn luyện ở Algeria, ông đã trải qua sự tàn bạo của cuộc sống lính Lê dương. Vì quân đội Pháp không tin người Đức nên ông không được tham gia chiến đấu chống Hitler. Thay vào đó, năm 1941 ông bị đưa sang Đông Dương. Ở đây, ông thấy rõ ý đồ của Pháp muốn chiếm lại thuộc địa này. Ông phải chứng kiến cảnh một trong những “đồng đội” của mình sau khi đi xe xích lô đã không trả tiền cho người cu li mà lại đâm chết ông ta. Erwin Borchers quyết định tham gia cuộc đấu tranh giải phóng Việt Nam. Trong đơn vị đồn trú ở Việt Trì, ông cùng những người có cùng chí hướng là Rudolf Schröder, chàng sinh viên xã hội học từ Cologne và Ernst Frey, người cộng sản gốc Do Thái từ Vienna bàn đến việc chống phát xít Nhật và giúp Việt Minh giành lại độc lập.

Từ tháng 6/1940, nước Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng, chính phủ đầu hàng của thống chế Pétain bị Đức đuổi về đóng đô ở Vichy, một thành phố nhỏ ở miền trung. Vichy trở thành một tên gọi nhục nhã cho nước Pháp, còn Paris thì dành cho bộ tư lệnh quân chiếm đóng Đức. Một bộ phận khác của quân đội Pháp thì ủng hộ phe chủ chiến của tướng De Gaulle rút sang Anh và các vùng thuộc địa ở Bắc Phi để tiếp tục kháng chiến chống Đức từ bên ngoài. Nước Pháp từ đó bị chia rẽ thành hai phe : phe đầu hàng phát xít được gọi là phe Vichy, bên kia là những người theo kháng chiến (Résistance) còn được gọi là những người Gaullist (những người theo De Gaulle). Chính quyền thuộc địa ở Đông Dương cũng vậy. Sau khi đầu hàng Đức, chính phủ Vichy cử ông Jean Decoux sang làm toàn quyền Đông Dương. Vốn xuất thân là quân nhân, Decoux chủ trương cứng rắn với Nhật Bản trong việc bảo vệ chủ quyền của Pháp ở đây. Nhưng do không được Vichy ủng hộ nên Decoux phải nhân nhượng khá nhiều, chấp nhận quyền lực của Thiên hoàng Nhật song song với chủ quyền Pháp tại Đông Dương. Trên thực tế, tướng Tsuchihashi Yuitsu, toàn quyền Nhật ở Hà Nội là người chia sẻ quyền lực với Decoux.

Nhóm của Borchers, Schröder, Frey được thành lập trong một doanh trại của lính Pháp ở Việt Trì và họ nêu chủ trương ủng hộ phái Gaullist chống lại những người theo Petain bán nước Pháp cho Đức. Một tình báo Việt Minh đầy kinh nghiệm là ông Mười Hương8 mau chóng phát hiện ra nhóm này và ông lập tức tìm cách liên lạc với nhóm. Rồi hai bên đã bí mật gặp nhau. Lúc đó ông Borchers đã cưới vợ là bà Lê Thị Bình nên hay ra khỏi trại lính về ở nhà vợ. Việc này tạo cơ hội cho ông dễ bí mật gặp Việt Minh và bà Bình là một giao liên quan trọng. Có lúc ông còn đóng giả là tù binh, bị trói tay, nhét vào cũi bị du kích áp giải đi để tránh sự tò mò của dân làng.

Việt Minh muốn nhóm này vận động những người ủng hộ tướng de Gaulle trong chính quyền thuộc địa cùng chống Nhật. Cả Erwin Borchers, Ernst Frey và Rudolf Schröder đều nhất trí tán thành. Lúc đầu nhóm này thương lượng bình đẳng cùng Việt Minh với tư cách đại diện cho phong trào kháng chiến theo phái de Gaulle trong quân đội Pháp. Thông qua một ông bác sĩ Pháp, ông Erwin muốn kết nối Việt Minh với toàn quyền Decoux nhằm lôi kéo chính quyền thuộc địa chuyển sang hướng chống phát xít. Bản thân Decoux tuy là người của chính phủ tay sai phát xít ở Vichy đưa lên, nhưng cũng không muốn đầu hàng cho Nhật. Tuy nhiên lúc đó ông ta coi thường thế lực của Việt Minh nên cuộc gặp Trường Chinh - Decoux không thành.

Những việc này không qua khỏi mắt Phòng Nhì9 Pháp. Đã có những văn bản của mật vụ Pháp về các hành động đáng nghi ngờ của ông Borchers và nhóm ông. Nhưng tình thế thay đổi bất ngờ khiến Pháp chưa kịp bắt các ông.

Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. Cả ba ông Borchers, Schröder và Frey đều bị Nhật bắt giam cùng toàn bộ binh lính Pháp. Cách mạng tháng Tám nổ ra, du kích Việt Minh đã giải phóng ba người từ thành Hà Nội và đưa họ bằng xe hơi về trụ sở của quân kháng chiến Việt Minh. Ở đây, tướng Võ Nguyên Giáp và ông Trường Chinh đang đợi họ.

Những người “Việt Nam mới” này trở thành vốn quý quan trọng cho phong trào kháng chiến. Ernst Frey, vốn được huấn luyện bài bản trong quân đội Pháp, đã trở thành một trong những cố vấn thân cận nhất của tướng Giáp trong nhiều năm. Borchers và Schröder đảm nhận các vị trí trong hệ thống tuyên truyền chính trị của ông Trường Chinh. Họ cùng nhau xuất bản tờ báo Việt Minh đầu tiên bằng tiếng Pháp. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Borchers còn trở thành bình luận viên đài phát thanh. Ba ông được đặt tên Việt và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.


h3

Ông Chiến Sĩ Borchers (ngồi, thứ hai từ trái sang) trong một cuộc họp với
tướng Võ Nguyên Giáp ở Việt Bắc
(ngồi, thứ hai từ phải sang) (Nguồn : Le Courrier du Vietnam)

Ngày 19/12/1946, Pháp xé bỏ hiệp định sơ bộ, tấn công Hà Nội. Chiến tranh nổ ra. Chính phủ Việt Minh rút lui về vùng núi phía Bắc để tổ chức toàn quốc kháng chiến, các cố vấn Đức cũng đi cùng. Ở đó, tướng Giáp phong hàm trung tá cho Erwin Borchers. Với tư cách là người đứng đầu cơ quan tuyên truyền đặc biệt, ông có nhiệm vụ phải vận động binh lính người Đức và người Pháp trong quân đoàn Lê dương, khuyến khích họ suy nghĩ về cuộc chiến và kêu gọi họ đổi phe. Ông Borchers thiết kế truyền đơn và viết bài cho tờ báo tiếng Đức Waffenbrüder (tạm dịch: Bạn chiến đấu). Trước khi 5.000 bản được in ra rồi vận chuyển xuyên tuyến và giao cho lính Lê dương, ông phải tự mình đi bộ xuyên qua những con đường nguy hiểm mang bản thảo đến nhà in.

Không có thống kê nào cho biết đã có bao nhiêu lính Lê dương Đức nhờ đọc báo của ông mà quay súng bỏ sang phía Việt Minh trong suốt tám năm chiến tranh. Nhưng theo tờ báo cánh tả Neues Deutschland (tạm dịch: Nước Đức Mới) thì chỉ riêng trong hai tháng của chiến dịch Điện Biên Phủ đã có 140 người.

Chiến dịch biên giới 1950 đã mở đường cho ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc vào Việt Nam. Vai trò cố vấn của những người “Việt Nam mới” giảm mạnh khi các cố vấn Trung Quốc xuất hiện. Đặc biệt khi các cuộc “chỉnh huấn”, “chỉnh phong” theo mô hình Mao Trạch Đông được tiến hành dồn dập thì hai ông Frey và Schroeder rời Việt Nam quay trở về châu Âu. Riêng Erwin Borchers vẫn ở lại. Vừa lúc này CHDC Đức lập đại sứ quán ở Bắc Kinh. Ông tận dụng đường biên giới thông thương liên hệ với tòa đại sứ để họ giúp hồi hương những binh lính Lê dương Đức về quê theo đường này. Cũng qua đó, nước CHDC Đức biết về một nhóm những người cộng sản Đức đang chiến đấu ở Việt Nam, coi Erwin Borchers là đầu mối.

Có thể bên cạnh lý do về tư tưởng còn có tình yêu của ông với người phụ nữ Việt Nam, bà Lê Thị Bình đã khiến ông Borchers ở lại Việt Nam. Ông bà cưới nhau từ năm 1942 khi ông mới sang Việt Nam. Họ có với nhau sáu người con. Tất cả các con đều mang những cái tên Việt Nam và được bà Bình dạy dỗ bằng tiếng Việt, thứ tiếng Việt của người có kiến thức ngoại ngữ nên rất chính xác. Hai ông bà thì chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Ông Erwin suốt chín năm kháng chiến chỉ rong ruổi ngoài mặt trận, chẳng mấy khi gặp gia đình. Mọi gánh nặng dồn lên vai bà.


h4

Báo tiếng Đức Waffenbrüder do ông Chiến Sĩ phụ trách
(Nguồn: Báo
Đại biểu Nhân dân Nghệ An)


Đầu năm 2004, Viện Goethe tại Hà Nội đã tổ chức hội thảo về những người Đức phục vụ trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ sang phía Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương. Claudia về nước tham dự và kể về ông bố mình như sau:

Khi ông Heinz Schütte mời tôi nói về cha, tôi đã nghĩ rất nhiều. Trước hết là câu hỏi: Người đàn ông ấy có ý nghĩa gì trong tôi, đứa con gái của ông? Vì với chúng tôi, các con ông, ông mang vẻ gì xa lạ. Ông là người Âu, có chiếc mũi dài, một người ‘mũi lõ’, trắng trẻo và sáng sủa. Ðôi khi tôi sợ hãi vẻ xa lạ của ông. Ðó là một cảm giác pha trộn giữa yêu và sợ. Ông là người cha dịu dàng, khi tôi khóc, ông bế tôi vào lòng dỗ dành. Có lần mẹ kể rằng ngày giải phóng, khi chúng tôi từ rừng núi trở về Hà Nội, cha bế tôi trên tay vì sợ có sự gì xảy ra với tôi, suốt dọc đường hành quân dài 20 km mới tới trạm nối tiếp. Khi đó tôi mới bốn tuổi. Tôi được đặt tên là Việt Ðức, hàm nghĩa Việt Nam và Ðức, nhờ trận đánh Ðiện Biên Phủ. Tôi sinh ra dưới một lán lều tre nên mới đầu mẹ gọi tôi là con bé Mai. Dạo ấy cha tôi đi suốt ngày, một bữa về nhà nói với chúng tôi rằng ông phải đi Ðiện Biên Phủ, vậy nên đứa bé phải mang một cái tên gì gợi nhớ tới ông nếu chẳng may ông không trở về từ mặt trận này. Và thế là tôi nhận cái tên Việt Ðức, một cái tên đã khiến tôi khá khổ sở. Tôi không ưa cái tên này vì nó đặc chất đàn ông. Trong trường học, chúng bạn coi tôi là cậu bé và điều đó khiến tôi giận dỗi. Còn ở Ðức, các bạn Ðức phát âm cái tên này cứng như ‘vịt đúc bằng sắt’ vậy. Ngoài ra tôi biết quá ít về cha tôi. Những gì lọt vào tai tôi là những điều ta thán của mẹ như ‘bố con chẳng thấy mặt mũi đâu’, ‘bố con chỉ ưa đám đàn ông tụ họp, chẳng chăm lo gì cho gia đình’. Nhưng ông đi đâu? Chẳng lẽ ông luôn đi vắng? Tôi chỉ lờ mờ dự cảm rằng ông ở sâu trong rừng rậm. Trong lời kể của mẹ, cha tôi luôn vắng nhà. Suốt thời quân Nhật chiếm đóng Hà Nội, mẹ tôi nuôi giấu cha tôi một nơi, chăm bẵm ông, lo cháo cơm và thuốc lá. Hẳn bà phải rất yêu ông vì dạo đó ai nuôi giấu một người Tây sẽ chịu tội tử hình.

Cha tôi có là một trí thức cao ngạo không ? Gì thì gì, trong số người Đức rời bỏ hàng ngũ, ông bị nhiều kẻ luôn ganh tỵ. Tuy vậy, cha thường nói với tôi rằng những năm tháng chiến tranh Ðông Dương là quãng thời gian bổ ích nhất của đời ông, cả khi trong rừng sâu đầy thiếu thốn, nhiều khi không có gì mà ăn. Nhưng sự đồng cam cộng khổ của con người dạo đó, tình yêu của người Việt Nam dành cho ông đã xóa nhòa gốc gác Âu châu của ông. Cũng vì vậy, với chúng tôi, cha tôi có chút gì đặc biệt. Nếu cha và mẹ nói tiếng Pháp với nhau thì các con ngồi chầu rìa vì chúng tôi không hiểu tiếng Pháp. Căn nhà của chúng tôi là điểm gặp gỡ của người Ðức. Cha tôi là người thích quây quần.

Cách đây vài năm, ở một làng vùng Mecklenburg, do một sự tình cờ tôi gặp được một người Ðức xưa đi lính Lê dương. Dạo ấy người đàn ông này bị bắt làm tù binh. Ông ta kể tôi nghe về cha tôi rằng, thay vì việc phải tẩy não người ta về mặt chính trị, bố tôi lại thích trò chuyện về những chủ đề phi chính trị và còn uống bia với họ.”



3. Trở về với hòa bình


Ngày 7/5/1954, tướng de Castries đầu hàng ở Điện Biên Phủ, đánh dấu chấm hết cho thế kỷ thực dân Pháp ở Đông Dương. Nhiệm vụ quân sự cuối cùng của ông Erwin Borchers là giúp Việt Minh dẫn trên 10.000 tù binh Pháp từ lòng chảo Điện Biên vượt qua 400 km đường rừng núi về đến Tuyên Quang, thủ đô của kháng chiến.

Hòa bình lập lại, ông Chiến Sĩ Borchers cùng gia đình về Hà Nội. Ông ra khỏi Quân đội Nhân dân và Đảng Lao động Việt Nam, trở thành đảng viên Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (SED), phóng viên thường trú của hãng thông tấn ADN tại Việt Nam. Giai đoạn này, phẩm chất của con người mang lý tưởng xã hội chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện một cách rõ nét. Nếu như trong chiến tranh, ông dám bất chấp bom đạn, hy sinh hết mình để giúp người Việt đánh đuổi thực dân, thì khi hòa bình lập lại, ông tìm mọi cách, chấp nhận mọi giá để bảo vệ những giá trị nhân bản của cách mạng.

Trong vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” và vụ án “Chống Xét lại trong Đảng” xảy ra ở miền Bắc những năm 1950 - 1960, ông Borchers luôn dành tình cảm cho những người bạn Việt Nam đang lâm nạn lúc đó. Nhà riêng của gia đình ông đồng thời là văn phòng hãng thông tấn ADN ở số 7 phố Yết Kiêu luôn là nơi gặp mặt của nhiều nhân sĩ Việt Nam lúc bấy giờ như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Vũ Đình Huỳnh, Phạm Viết, v.v.

Trích lời Claudia kể về ông Erwin Borchers Chiến Sĩ trong giai đoạn này, đăng trên báo Văn hóa Nghệ An, số ra ngày 30/4/2013:

Trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, nhà chúng tôi ở bị theo dõi. Cha tôi có nhiều mối giao du với các trí thức ở Hà Nội. Ông có học và hiểu biết rộng. Chẳng ai ngạc nhiên là ông được nhiều phụ nữ bám quanh. Sau ngày giải phóng, ông gặp rắc rối với Đảng ở đây. Có thể nói là người ta đã bỏ rơi ông, coi ông là ‘quá tư sản’, không đủ lòng ‘trung thành với đường lối’ thời ấy. Ông cấm con cái là chúng tôi không được hát những bài hát thiếu nhi mang màu sắc chính trị học ở trường về bởi nội dung các bài hát đó quá giáo điều. Cha tôi luôn chống đối mọi giáo điều, nhưng trong thẳm sâu con tim ông vốn nguyên là một người cộng sản. Thất vọng vì tất cả, ông không muốn tham gia cuộc chiến tranh giải phóng tiếp theo ở Việt Nam. Thế nên trong hoàn cảnh đó, ông quyết định trở về quê hương, nước Đức. Chuyện đó xảy ra năm 1966.”10

Tôi tìm thấy khá nhiều bài viết về ông Chiến Sĩ Borchers trên báo chí Việt Nam, tất cả chỉ kể về đóng góp của ông trong kháng chiến chống Pháp nhưng không ai viết về những gì ông làm sau 1955. May mắn thay, người Đức lại là vô địch thế giới về lưu trữ tư liệu. Từ thời trung cổ đến nay, xuyên qua mọi thời đại, họ đều lưu giữ các tài liệu lịch sử một cách bài bản. Gần đây, các học giả Martin Grossheim11 và Heinz Schütte12 đã tìm thấy rất nhiều tài liệu được đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội gửi về Đông Berlin từ cuối những năm 1950. Sau khi thống nhất nước Đức, bộ ngoại giao CHLB Đức tiếp quản kho lưu trữ của bộ ngoại giao CHDC Đức và tiếp tục lưu giữ mọi văn bản. Các tài liệu này nêu rõ thái độ bảo vệ lẽ phải của ông Chiến Sĩ Borchers trong thời bình ở Việt Nam, từ 1955 đến 1965.

Nước Đức quê hương ông sau Chiến tranh thế giới II cũng bị chia cắt. Ở miền Đông, nhà nước công nông chuyên chính vô sản CHDC Đức ra đời dưới sự lãnh đạo của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschland SED). Đảng này là sự hợp nhất giữa hai đảng: Cộng sản và Dân chủ Xã hội Đức. Mặc dù Liên Xô hậu thuẫn những người cộng sản, đứng đầu là chủ tịch Wilhelm Pieck, nhưng vai trò của khuynh hướng Dân chủ Xã hội mà đại diện là thủ tướng Otto Grotewohl vẫn tồn tại. Ở Đông Đức cho đến giữa những năm 1960 vẫn có những người phê phán chủ nghĩa Stalin. Vì vậy mặc dù chủ tịch Wilhelm Pieck và Hồ Chủ Tịch là hai người bạn thân thiết, mặc dù cả hai đảng cùng đi theo con đường xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, nhưng cách thi hành có khác nhau. Ví dụ: các nước xã hội chủ nghĩa châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam coi chính sách “chung sống hòa bình” của Liên Xô và Đông Âu là “Chủ nghĩa Xét lại”. Ngược lại, các đảng Đông Âu coi đường lối cứng rắn ở các nước XHCN châu Á là ảnh hưởng của “Chủ nghĩa Mao”.

Các nhà ngoại giao CHDC Đức lúc đó đều theo dõi các vụ án ở Việt Nam và thường xuyên báo cáo về Đông Berlin. Riêng ông Chiến Sĩ Borchers thì bày tỏ ra mặt thái độ ủng hộ các nạn nhân của vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” và “Chống xét lại”. Công an Việt Nam theo dõi ông rất chặt. Tuy họ yêu cầu đại sứ quán Đông Đức đừng cho ông biết, nhưng ông Vinh, người phiên dịch của phân xã bị bắt. Điều này khiến hãng thông tấn ADN lo ngại. Năm 1961, hãng điều thêm một phóng viên nữa là ông Klaus Pommerening sang Việt Nam để kiểm soát phân xã Hà Nội, nơi họ cảm thấy khá bất an dưới sự chỉ đạo của Erwin Borchers. Pommerening đã sớm phê phán thái độ của ông Borchers tại Việt Nam. Vào tháng 11/1961, Pommerening đã báo cáo cho ADN ở Berlin: “Một số lượng tương đối lớn trí thức Hà Nội thường đến thăm ngôi nhà ADN mà đồng chí Chiến Sĩ vẫn còn ở. Theo lời đồng chí ấy, ‘mong muốn có nhiều nguyên tắc dân chủ hơn trong đảng của họ’.” (Theo Martin Grossheim, tài liệu đã dẫn)

Từ cuối 1965, chiến tranh phá hoại của Mỹ bắt đầu lan đến Hà Nội. Tiếng còi báo động máy bay vang lên hàng ngày. Thêm vào đó là những lý do nêu trên khiến ông Erwin Borchers suy nghĩ nhiều. Để đảm bảo an toàn cho gia đình, ông quyết định hồi hương trở về CHDC Đức. Đầu năm 1966, cả gia đình bảy người đi tàu liên vận quốc tế xuyên lục địa trở về Berlin. Chị Hoàng Giang, con gái đầu lòng ở lại Việt Nam lập gia đình.


h5

Gia đình ông Chiến Sĩ Borchers cuối năm 1965 trước khi hồi hương về CHDC Đức
(Ảnh gia đình cung cấp)



4. Hồi hương


Khi dừng chân ở Bắc Kinh, ông Chiến Sĩ đưa gia đình vào đại sứ quán CHDC Đức ở đó để làm thủ tục đổi tên cho các con vào hộ chiếu. Việt Đức mang tên Claudia, Đông Quân thành Hansi, Phương Hồng thành Susanna, cậu út Đại Dương thành Karl Walter. Riêng chị thứ hai Liên Minh vẫn giữ tên Việt. Những người con xưa nay sống như người Việt bỗng bỡ ngỡ khi mang những cái tên Đức, nhưng cũng thấy thú vị.

Khi tàu đến Berlin, cả gia đình được đưa thẳng từ sân ga về trại tị nạn. Họ phải trải qua mọi thủ tục xét duyệt mà người tị nạn nào muốn đến Đông Đức đều phải kinh qua. Mùa đông nước Đức trong những tháng đầu năm 1966 là một thử thách bất ngờ nhưng đầy hấp dẫn cho bọn trẻ sinh ra ở xứ nhiệt đới. Cho đến lúc này, họ chủ yếu được hưởng sự giáo dục của người mẹ Việt Nam và bắt đầu mắt tròn mắt dẹt nhìn thế giới quanh mình. Bà Bình cũng bắt đầu một cuộc sống mới đầy khó khăn. Bà phải bắt đầu học tiếng Đức. Bà luôn phải mang một quyển vở nhỏ bên mình để ghi các từ tiếng Đức mới học được hoặc những từ cần phải tìm hiểu để đi mua bán.

Cần phải nói rõ là trong suốt thời kỳ chia cắt nước Đức từ 1949 đến 1989, có khoảng 3,5 triệu người Đông Đức chạy sang phía Tây tị nạn. Đa số họ ra đi vì muốn có cuộc sống tốt hơn và nhiều tự do hơn. Ngược lại cũng có khoảng 500.000 người chạy từ miền Tây giàu có sang tị nạn ở CHDC Đức. Những người này sang Đông Đức đa số vì không chấp nhận trật tự kinh tế và xã hội tư bản, nhưng cũng có những người vì lý do gia đình. Vì vậy, ở CHDC Đức có 17 trại tị nạn cho những người mới trở về như gia đình ông Erwin Borchers.

May mắn là cuộc sống eo hẹp trong trại tị nạn không kéo dài. Sau đó ít lâu, gia đình ông Erwin được phân một ngôi nhà ở Fredersdorf gần Berlin. Nhưng ông không được tiếp tục làm việc cho hãng thông tấn ADN. Nhờ kinh nghiệm quốc tế và vốn ngoại ngữ nên ông kiếm được việc làm ở đài phát thanh Radio Berlin International (RBI) . Đây là đài phát thanh đối ngoại của CHDC Đức nên kinh nghiệm làm báo tiếng Pháp của ông rất cần thiết.

Kể từ khi rời nước Đức ra đi trốn chủ nghĩa phát xít, gần 30 năm sau ông mới trở lại quê hương. Đất nước ông giờ đây đã bị chia cắt. Quê ông ở vùng Elsass sát biên giới nước Pháp nay nằm ở miền Tây tư bản chủ nghĩa nên ông không thể quay về đó. Quê hương mới của ông ở Đông Đức thì lại khác hẳn với những lý tưởng ông vẫn ấp ủ từ lúc mới trưởng thành. Chế độ STASI13 không cho phép người ta nghe đài, đọc báo phương Tây, người miền Đông không được sang Tây Đức thăm gia đình, ở đâu người ta cũng bị theo dõi, v.v. Là một người từ lúc mới trưởng thành đã nguyện đấu tranh cho một xã hội tự do, đã bất chấp mọi nguy hiểm tham gia quân đội để chống lại chủ nghĩa phát xít và thực dân, ông Erwin Borchers rất thất vọng về cuộc sống ở đây.

Đầu xuân 1968 khi những người cộng sản Tiệp Khắc khởi đầu công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội Nhân đạo, ông đã bày tỏ niềm vui và sự ủng hộ của mình. Khi cuộc cải cách bị quân đội Liên Xô và các nước trong khối hiệp ước Warsawa dập tắt, ông vô cùng đau khổ. Điều này khiến các vị lãnh đạo của ông khó chịu. Ông luôn cảm thấy bóng dáng của STASI lởn vởn quanh mình. Xin trích đoạn Claudia kể về ông giai đoạn quay về Berlin được đăng trên báo Văn hóa Nghệ An nói trên:

Về đến CHDC Ðức, lúc đầu cha tôi hào hứng bởi ý tưởng một nước Ðức mới. Nhưng sự bẽ bàng đã tới cùng với mùa xuân Praha 1968. Ông đã thẳng thừng nói tuột ý nghĩ trong một cuộc họp chi bộ Đảng để rồi sống lặng lẽ, rút sâu mãi vào nội tâm. Nhưng càng vậy ông càng chăm lo hơn tới những đứa con đang học đại học của mình. Mười năm trước khi bức tường Berlin sụp đổ, ông nói với tôi: ‘Bố cứ cho nhà nước này giỏi lắm là mười năm nữa. Nếu cứ tiếp như vậy thì sụp đổ hết mà thôi.’”

Tháng 11/1989, bức tường Berlin bị phá bỏ. Ngày 3/10/1990, nước Đức thống nhất. Chính phủ hợp nhất của Đức cho mở kho tài liệu của STASI. Người ta bị ngợp bởi khối lượng khổng lồ của nó. Nếu xếp hàng dọc, các tập hồ sơ này kéo dài 111 cây số, bao gồm 41 triệu thẻ hồ sơ, 1,95 triệu bức ảnh. Khoảng 5,6 triệu (trong số 17 triệu) công dân được STASI theo dõi và lập hồ sơ. Nhiều người khi đọc hồ sơ của mình bị sốc vì những kẻ theo dõi, báo cáo về mình chính là bạn bè, người thân. Do vậy, cho đến nay chỉ có hơn hai triệu người dám nhìn vào hồ sơ STASI về bản thân mình.

Các con ông Erwin Borchers không khỏi bàng hoàng khi đọc những điều người ta viết về cha mình trong hồ sơ STASI. Họ hiểu vì sao ông quyết định bỏ sang miền Tây vào năm 1981. Lúc này ông đã về hưu được mười năm và người chiến sĩ luôn lăn lộn trong đấu tranh phải trải qua những năm tháng buồn chán nhất của cuộc đời. Là người luôn hướng đến cuộc sống lý tưởng, ông muốn tìm đến tự do. Khi ông bỏ CHDC Đức sang Tây Berlin, gia đình không hề ngạc nhiên. Họ đã mường tượng ra điều đó khi thấy những day dứt của ông trong thời gian qua. Là một người chồng, người cha có trách nhiệm, ông đã chuẩn bị kỹ bước đi này. Ông hoàn tất mọi thủ tục pháp lý để vợ con không bị liên lụy. Rồi ông chờ cho đến khi Đại Dương, cậu con trai út tốt nghiệp đại học ở Budapest.

Thời kỳ đó, công dân CHDC Đức trong tuổi lao động không được tự do đi sang miền Tây, nhưng người về hưu như ông dễ dàng được cấp visa xuất cảnh. Thế rồi cuộc sống trong xã hội tư bản mà ông từng tưởng là chỉ bao gồm các khái niệm Tự do, Bình đẳng, Bác ái lại làm ông thất vọng lần nữa. Ông trải qua những năm cuối đời ở Tây Berlin trong căn bệnh trầm cảm, u uất. Trích lời Claudia Borchers kể về những năm cuối đời của cha trên báo Văn hóa Nghệ An:

Cha tôi là một con người tốt bụng. Tôi cho rằng dòng máu miền đất sông Rhein đã bảo tồn con người ông trải qua nhiều tháng năm rối ren và tàn tệ trong đời. Có lần ông nói với tôi rằng ông muốn được rắc nắm tro của mình vào một nơi nào đó trên đất Việt Nam. Việc đó chẳng bao giờ thực hiện được. Lúc tuổi đã cao, ông lại đổi chiến tuyến bởi chua chát và thất vọng: ông sang Tây Berlin. Tuy vậy, sau này tôi được biết, trước khi mất, hàng năm ròng ông rơi vào trạng thái u uất trầm cảm. Trong tôi còn lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương.

Ðôi khi tôi ước rằng cha tôi còn sống, để được nghe ý kiến của người về thời thế hôm nay. Người ta hay hỏi tôi suy nghĩ trong tiếng Ðức hay trong tiếng Việt. Ðiều ấy thật không mấy quan trọng nữa. Với người Ðức, tôi nghĩ bằng tiếng Ðức và bên bè bạn Việt Nam, tôi nghĩ bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi tự hào làm người con của mẹ cha khác biệt hai dòng máu. Hoàn cảnh đó đã làm cuộc đời tôi phong phú hơn.”

Người chiến sĩ từng chiến đấu cho những lý tưởng tốt đẹp ở cả hai quê hương Việt Nam và Đức đã qua đời trong sự cô đơn vào một ngày nào đó năm 1985 tại Tây Berlin.

Sau khi nước Đức thống nhất, các con ông mất khá nhiều thời gian để sang Tây Berlin tìm hài cốt ông. Trước đó không hề ai biết ông mất lúc nào và chôn ở đâu. Nhờ vào hệ thống lưu trữ văn bản cực kỳ chu đáo của người Đức, cuối cùng con cháu ông đã tìm thấy hộp hài cốt hóa tro của ông được lưu giữ cùng các hộp tro vô thừa nhận khác tại một đài hóa thân hoàn vũ Tây Berlin.


h6


Hè 2021, 40 năm sau khi xa gia đình, ông Chiến Sĩ đã được đưa về một ngôi mộ bình dị tại nghĩa trang Pankow Berlin, nơi bà Bình và hai người con của ông đang yên nghỉ.

Cologne tháng 1.2025

Nguyễn Xuân Thọ




NGUỒN : Đây là Chương 7 (Ông Chiến Sĩ Erwin Borchers) trong cuốn sách chưa được xuất bản của tác giả.
Tác giả gửi cho Diễn Đàn ngày 10.8.2025.



1 Quốc tế gọi cuộc chiến tranh 1945-1954 là chiến tranh Đông Dương 1, giai đoạn 1955-1975 là chiến tranh Đông Dương II.

2 Báo Welt 7/5/2014: “Dien Bien Phu – die letzte Schlacht der Waffen-SS?”.

3 Viết tắt từ Geheime Staatspolizei − Cảnh sát mật nhà nước.

4 WAFFEN-SS là Lực lượng vũ trang SS, để phân biệt với SS-GESTAPO trong bộ máy công an dân sự.

5 Lê dương là cách người Việt đọc từ “Legion”.

6 Blog Phạm Kỳ Đăng, Cha tôi giữa những quê hương, 17/8/2014.

7 Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) được thành lập năm 1863 là đảng cánh tả của phong trào công nhân, một trong những thành viên sáng lập ra Quốc tế Xã hội (Quốc tế Đệ Nhị). Đệ Nhị khác Đệ Tam (Quốc tế Cộng sản) ở chỗ chủ trương xây dựng XHCN nhưng không chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp. Ngày nay, SPD là đảng thường xuyên cầm quyền ở Đức.

8 Ông Mười Hương tên thật là Trần Quốc Ban, sinh năm 1924 tại Hà Nam. Sau này ông là Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch và Trưởng ban Nội chính Trung ương.

9 Phòng Nhì (Deuxième Bureau) là tên bí mật của cơ quan tình báo Pháp.

10 Báo Văn hóa Nghệ An: Cha tôi giữa những quê hương.

11 Martin Großheim 2005: Revisionism’ in the Democratic Republic of Vietnam: New Evidence from the East German Archives.

12 Heinz Schütte: Zwischen den Fronten: Deutsche und österreichische Überläufer zum Vietminh Logos Verlag, Berlin 2006.

13 Viết tắt từ Staatssicherheit (An Ninh Quốc Gia) là cơ quan mật vụ của CHDC Đức.

Images

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
LE SOLEIL TOMBE SANS UN BRUIT - Thao Nguyen Phan 12/06/2025 - 07/09/2025 — 13, avenue du Président Wilson, 75116 Paris
Thư viện Diên Hồng - Kiều Chinh - Nghệ sĩ lưu vong 28/09/2025 14:00 - 17:00 — Le Totem | 11 place Nationale - 75013 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us