Đọc "Cháu ông Rameau"
RAMEAU
GIỮA CHÚNG TA
Bùi Văn Nam Sơn

Quả là
một tin vui cho bạn đọc nước nhà, nhất là
cho những ai vốn yêu thích nền văn hóa
và
văn học Pháp với các danh tác
châm
biếm tinh tế, sắc sảo – và cả tinh quái
–
của những Molière, La Bruyère,
Voltaire… khi Cháu
ông Rameau (Le neveu de
Rameau), một kiệt tác độc
đáo của Denis Diderot được GS Phùng Văn Tửu
giới thiệu và, lần đầu tiên, dịch sang tiếng
Việt. Tác phẩm “độc đáo” cả
về ba
phương diện: số phận long đong của nó; các
ngụ ý hàm hồ, đa nghĩa nơi các
“nhân
vật”; và ảnh hưởng mạnh mẽ đến bất ngờ của
nó đối với cuộc thảo luận về “biện
chứng
của khai sáng” từ đầu thế kỷ 19 cho
đến “tâm
thức hậu-hiện đại” ngày nay.
Bài viết sau
đây xin góp thêm mấy ý nhỏ về
giá
trị tư tưởng vẫn còn tươi mới của tác
phẩm, sau khi được may mắn là một trong những
người đầu tiên thưởng thức bản dịch tuyệt vời
này.
1. Như
ta
đã biết, tác phẩm có lẽ được viết
trong khoảng thời gian 1761-1772. Nhưng, Diderot lại không
hề nhắc đến nó trong tất cả những thư từ và
tác phẩm khác của mình và
cũng không
có một tác giả đương thời nào nhắc
đến nó cả. Điều ấy thật đáng ngạc nhiên
vì đã thấy lưu hành nhiều bản sao
trước
khi kết thúc thế kỷ 18. Mãi đến mấy mươi
năm sau, bản in đầu tiên mới xuất hiện vào
năm 1805, nhưng không phải bằng tiếng Pháp
mà
bằng tiếng Đức qua ngọn bút dịch bậc thầy của
một nhân vật không phải tầm thường : đại thi
hào Goethe ! Bản nền mà Goethe sử dụng sau
đó
cũng mất, và chính bản tiếng Đức này
lại được hai cây bút đáng ngờ
là
De Saur và Saint-Geniès dịch lại sang tiếng
Pháp,
công bố năm 1821, và cố tình
làm cho
người ta lầm tưởng đó là nguyên
tác
của Diderot. Nguyên bản tiếng Pháp thực sự
xuất hiện vào năm 1823 trong ấn bản Brière về
các tác phẩm của Diderot. Tuy bị cắt
xén
và thiếu chính xác, bản in
này dù
sao cũng dựa vào một bản thảo tiếng Pháp, sử
dụng một trong nhiều bản sao thuộc về con gái của
Diderot hiện đang tàng trữ tại Thư viện Quốc gia
Pháp (Bibliothèque nationale de Paris).
Các bản
sao khác –
đều đáng ngờ –
cũng lưu hành
trong thế kỷ 19 và được các nhà ấn
hành sử dụng ít nhiều thiếu khảo chứng. Một
ấn bản nghiêm chỉnh, công bố ở Paris năm 1884,
sử dụng bản chép tay (đáng tin cậy) từ thư
viện của chính Diderot do Nữ hoàng Catherine mua
“trọn gói” và chuyển về St
Petersburg sau khi
Diderot qua đời. Nhưng, câu chuyện chưa dừng lại ở
đó: một bản thảo khác xuất hiện năm 1890
trong một tập hợp những vở kịch rất khó phân
loại được bày bán ở quầy bán
sách
cũ trên bờ sông Seine ở Paris. Một viên
thủ
thư ở Comédie-Française là Georges
Monval may
mắn mua được “của hiếm” này
và công
bố vào năm 1891. Bản thảo này trở
thành
bản nền cho tất cả mọi ấn bản hiện đại, và
sau đó được Thư viện Pierpont Morgan Libriary ở New
York mua đứt và hiện đang được tàng trữ ở
đó 1.
Vài
nét phác hoạ về số phận long đong của một
tác phẩm từ tay một cây đại bút lừng
danh là Diderot – đồng tác giả
và hầu
như là người phụ trách chính của bộ
Đại Bách khoa thư khổng lồ đánh dấu cả một
thời đại : thời đại Khai sáng 2 –
tự nó
đã nói lên nhiều điều về
“nội tâm” của chính
tác giả. Rồi khi
nhận được một bản sao, Goethe đã hào hứng
dịch ngay sang tiếng Đức; một bản dịch tuyệt vời đến
nỗi gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp
sáng tác đồ sộ của bậc thi hào,
và
cơ hồ như là tác phẩm của chính bản
thân Goethe ! Và một trong những người được
đọc đầu tiên và tiếp thu nó một
cách
chủ động và sáng tạo chính
là
Hegel, vì chỉ hai năm sau khi bản dịch ra đời
(1805), trong tác phẩm lớn đầu tay (Hiện tượng
học Tinh thần, 1807), Hegel đã tìm
cách
“tát cạn” ý nghĩa
của Cháu
ông
Rameau như một “hình thái
ý thức”
tiêu biểu của thời Khai sáng, đêm trước
của Đại Cách mạng Pháp (1789). Hình
tượng Cháu
ông
Rameau (“Hắn”)
và hình
tượng “nhà triết gia”
(“Tôi”) của Diderot
trở thành bất tử trong tác phẩm vĩ đại ấy
của Hegel, dẫn đến sự đánh giá cao của Marx
và Engels sau này về Cháu
ông
Rameau
như một “kiệt
tác về phép biện chứng”.
Quả có một sự “đồng điệu” giữa Diderot
thế
kỷ 18 với các tâm hồn Đức thế kỷ 19, nhưng,
giữa họ đã có một khoảng cách lịch sử
cần thiết: những gì còn là
“tự-mình”,
“mặc nhiên” cần phải giấu kín
trong tâm
tư đã có thể trở thành
“cho-mình”,
“minh nhiên” như một tấn trò
đời!
2.
Trước
hết ta tự hỏi: Tại sao Goethe lại hào hứng dịch Cháu
ông
Rameau sang tiếng Đức, một tác
phẩm hầu như còn “vô danh”
trên nước
Pháp láng giềng? Khó mà
biết được
hết lý do, nhưng ta không thể không nhận
ra
những nét tương đồng nào đó về mặt
cấu trúc giữa Cháu
ông
Rameau với Faust,
tác phẩm lớn được Goethe ôm ấp
suốt đời. Sự “đồng cảm, đồng điệu” giữa hai
tác giả phải chăng là ở tính
“biện
chứng” nơi cả hai tác phẩm? “Biện
chứng” –
thuật ngữ chưa có nơi các nhà
“bách
khoa” Pháp và trở thành
“tiêu ngữ”
cho tư tưởng Đức đầu thế kỷ 19 –,
nói đơn
giản, bao giờ cũng cần đến ba “hạn từ” : hai hạn
từ đối lập và một hạn từ làm “trung
giới”. Faust và Mephisto là cặp đối
lập,
nhưng cũng tiềm ẩn trong đó bản chất nhị nguyên
của con người (“ôi,
trong lồng ngực ta có hai
linh hồn cùng ở ”, Faust). Trong mỗi
con người đều
có chất Faust và chất Mephisto như là
hai
mặt của thực thể người. Cả hai tính chất luôn
là đối trọng và lực tác động ngược
lại trong quá trình con người trưởng
thành
trong bi kịch. Hạn từ trung giới ở đây là
“Chúa Trời”, cho phép hai
cái đối cực
tự do hành động và giữ vai trò của
ý
thức quan sát, phê phán như
là người
“lược trận” trước sự xung đột giữa
“chính
đề” và “phản đề” trong
các “nghịch
lý” (Antinomien) của Kant ! Trong Cháu
ông
Rameau, “Hắn” và
“Tôi” (“Rameau”
và
“ông triết gia”) là cặp đối
lập, còn
“Người dẫn chuyện” làm hạn từ trung
giới. Ba
mà là một, một mà là ba,
giống như
“bản tính trôi chảy” của cuộc
sống! Nhưng,
Rameau (“Hắn”) là… Rameau,
chứ không (còn)
phải là chàng Werther ẻo lả của Goethe
luôn
“khổ sở” với chính mình, cũng
không
(còn) phải là “ông
nghè” Faust cao
ngạo luôn bận tâm đến việc “hiện thực
hoá”
cá nhân mình giữa dòng đời
ô
trọc. Rameau bảo: “tôi
chịu đựng dễ dàng
hơn tình trạng tầm thường của tôi”
3.
Với nhận xét ấy, Rameau đã ở vào một
tâm thế khác, thậm chí, một
“thời đại”
khác. Và có lẽ chính chỗ
“khác”
ấy đã hấp dẫn và kích thích
Goethe !
3.
Hegel đã
sớm nhận ra chỗ “khác” này
và vì
thế, ông yêu tác phẩm và
tuyên bố
rằng “Hắn” là một bước tiến lớn trong
các
“hình thái ý
thức”. Hình thái
này không chỉ vượt bỏ cái
hình thái
“tự ngã ngay thật” tĩnh tại, giản đơn,
cứng
nhắc, thiếu sáng tạo của “Tôi”
mà còn
bỏ xa các hình thái
“cá nhân
thực tồn” trước đó, hiện thân nơi những
Werther, Faust, Karl Moor, Don Quichotte…4.
“Bước tiến lớn” ở đây được Hegel hiểu
theo
nghĩa “biện chứng”, tức đầy nghịch lý.
Nó
không phải là sự “tiến bộ” đơn
giản,
trái lại, chứa đựng cả hai “mô
men”: một
mặt là sự trưởng thành của tâm thức,
của sự mất ảo tưởng và mặt kia là sự tha
hoá trầm trọng. Và với Hegel, việc khắc phục
sự tha hoá không phải là quay trở về
lại
với trạng thái tự nhiên nguyên thủy
mà
là đẩy sự tha hoá đến cùng cực để
có thể chuyển hoá nó.
Thật
thế,
môi trường xã hội và điều kiện lịch
sử đã đổi khác. Bối cảnh của câu
chuyện là khu vực trung tâm của Paris,
trái
tim của nền văn minh khai sáng, thị trường kinh tế
và thương mãi phồn hoa nhất của nước
Pháp.
Ta biết rằng ta đang chứng kiến một xã hội đô
thị vào loại tiên tiến nhất thời bấy giờ.
Xã hội ấy là con đẻ của chủ nghĩa tự do
kinh tế “laisser-faire” sơ kỳ của Adam Smith
và của
lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh của
giáo
dục, khai sáng và khoa học của Diderot,
Voltaire…
Nhưng, đàng sau mọi sự phồn hoa, tinh tế và
bao dung là sự xu thời, ích kỷ, vô
luân
trong những cảnh báo của J.-J. Rousseau.
Xã hội ấy vừa là miếng đất lý tưởng cho những Rameau và… Xuân Tóc Đỏ tung hoành, vừa không có chỗ cho anh ta và đồng bọn ! Rameau là một kẻ đầy “tính cách” – yêu vợ con, yêu cái đẹp, nhiều tài nghệ, biết cắn rứt lương tâm, “biết khinh bỉ bản thân mình”, nhất là khi phải đóng vai trò đểu cáng, đê tiện, nhưng “tính cách” cơ bản nhất của anh ta lại là không có tính cách nào cả. Xã hội hiện đại tôn thờ đồng tiền và chỉ có đồng tiền mới mang lại vị trí và danh dự xã hội. Xã hội đầy những kẻ mang mặt nạ để đóng vai vì quyền lợi ích kỷ của mình (xem : Rousseau, Luận văn về các nguồn gốc của sự bất bình đẳng). Xã hội ấy cũng ngày càng chuyên môn hoá cao độ với đặc điểm nổi bật là sự phân công lao động, khiến con người khó mà phát triển được toàn diện tính cách. Ngay cả những tài năng lớn cũng bị chuyên môn hoá. Lý thú là, tuy Adam Smith ca tụng sự tiến bộ nhờ sự phân công lao động mang lại, nhưng ông đã lo ngại trước tác động tha hoá của nó lên con người bình thường, và, vì thế, ông – cũng như nhiều nhà Khai sáng khác, trong đó có Diderot – tin vào sức mạnh của giáo dục để cải tạo con người và xã hội, để phát triển toàn diện tính cách và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Nhưng, Rameau cười nhạo và cho rằng giáo dục thực chất chỉ là trò học gạo. Trong xã hội hiện đại, người ta đâu thực sự quan tâm đến việc “học”; điều họ muốn học là những “kỹ năng”, những “mánh lới” để kiếm tiền và thăng tiến nghề nghiệp. Giáo dục trở thành “dạy nghề” để cung ứng “nguồn nhân lực” hơn là để tạo ra một thế giới nhân đạo hơn và hợp lý tính hơn. Rameau, trong bối cảnh ấy, sa đoạ thành một tay lưu manh chính hiệu, một “chân tiểu nhân” có cái nhìn khinh bỉ đối với mọi thứ “nguỵ quân tử” chung quanh mình; và chính những hoài bão, lương tri và tài năng không được thi thố của mình đã làm cho anh ta tha hoá, tức trở thành xa lạ với xã hội anh ta đang sống. Trong khi đó, “Tôi” hay nhân vật “triết gia” hầu như đứng bên lề, đặt cho Rameau những câu hỏi ngây thơ từ vị trí cao đạo của một kẻ bề trên hạ cố và thương hại cho sự sa đoạ về luân lý và nhân cách của Rameau. Sự đối lập này làm Hegel thích thú. Ông gọi loại ý thức của “triết gia” là “ý thức ngay thật, thẳng đuột” (“Tôi”: “Tôi là một người thật thà, ngay thẳng và những nguyên tắc của anh bạn không phải là những nguyên tắc của tôi”; “tôi là một người thật thà chất phác, mong anh bạn nói với tôi một cách chân phương hơn và đừng dùng đến nghệ thuật của anh bạn”). Ngược lại, ý thức của Rameau là “ý thức bị giằng xé, đổ vỡ”, một ý thức đã “từng trải”, “đã nhìn thấu hết” (hindurchgesehen) hiện thực bên ngoài đúng như chúng trong sự thực. Trong khi sự ngây thơ, tĩnh tại của phong cách trước chỉ có thể phát ngôn theo kiểu “đơn âm” thì phong cách sau – đã trải nghiệm sự giằng xé của thế giới văn hoá bị tha hoá – là “đa âm”, có thể dệt nên cả một diễn từ đầy màu sắc và cung bậc. Nó nói lên được sự đảo điên tuyệt đối, phổ biến giữa thực tại và tư tưởng, giữa danh và thực cũng như sự xa lạ, tha hoá giữa chúng với nhau. Vì thế, ngôn ngữ của sự giằng xé, đổ vỡ là có tính phá huỷ, phân hoá mọi sự, cho thấy mọi giá trị đều bị xáo trộn, biến đổi, “cá mè một lứa”. Ngôn ngữ “trào phúng sắc bén” (geistreich) ấy của phong cách sau (cũng như của bản thân tác phẩm như một sản phẩm của thời đại) được Hegel gọi là sự “thức nhận” (Einsicht), vừa là tiền đề vừa là kết quả của phong trào khai sáng. Nói cách khác, bây giờ, con người có thể hiểu quyền lực nhà nước và quyền lực kinh tế (vốn xa lạ và đầy quyền uy trước đây) như là những hiện tượng giống như những hiện tượng khác trong thế giới 5, tức chúng cũng phải phục tùng các quy luật, cũng là những thực thể có mâu thuẫn nội tại (vừa “tốt” vừa “xấu”, vừa “cao cả” vừa “thấp hèn”…), nghĩa là, chúng cũng hữu tận và sẽ phải “tiêu vong”. Vì thế, như đã nói, theo Hegel, giải pháp bước đầu để đi tới sự khắc phục tha hoá không phải là đồng nhất hoá trực tiếp với “bản thể xã hội” mà là “tăng cường sự tha hoá” bằng ý thức sắc sảo như hình tượng của Rameau. Hegel có cái nhìn lạc quan: … “Chỉ với tư cách là Tự-ý thức phẫn nộ, nổi loạn, Tự ngã mới nhận biết về tình trạng tự giằng xé, đổ vỡ của chính mình; và ngay trong sự thức nhận ấy, thực tế Tự ngã đã tự nâng mình lên khỏi tình trạng ấy” (Sđd, §526). Vì theo Hegel, “có ý thức tự giác về tình trạng bị giằng xé, đổ vỡ của chính mình và tự mình phát biểu công khai ra điều ấy chính là tiếng cười chế nhạo dành cho sự hiện hữu, cho sự hỗn loạn của cái toàn bộ, cũng như cho chính mình”… (§525).
4. Ta có quyền chia sẻ sự lạc quan cùng với Hegel cũng như có quyền nghi ngờ sự lạc quan ấy. Quả thật, hình tượng của Rameau tập hợp tất cả những gì đã bị khái niệm lý tính đang vươn lên vị trí thống trị của thời khai sáng tìm cách đẩy lùi: kinh nghiệm cảm tính, những đam mê và dục vọng, những kinh nghiệm thẩm mỹ theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Bản thân việc Diderot không công bố tác phẩm của mình trong lúc sinh thời có thể là do ông không muốn cung cấp thêm đạn dược cho những đối thủ phản - khai sáng, chống lại sự tiến bộ, lý tính và sự khoan dung. Ông đã bàn đến những vấn đề “nhạy cảm” đi ngược lại với lý tưởng và tinh thần lạc quan của phong trào khai sáng. Trong chừng mực đó, Cháu ông Rameau có thể được xem là sự tự - phê phán đầu tiên của khai sáng, nhất là đối với quan niệm cho rằng một hệ thống xã hội vẫn có thể gặt hái được nhiều thành công và cả sự lương thiện, liêm khiết cho dù trong lòng nó chứa đầy những bọn đạo đức giả, vô lại. Dựa theo một cách nói của Hegel, ta có thể thấy rằng sau thời kỳ đầu tiên đầy tính “sử thi” hào hùng của phong trào khai sáng, Diderot (và các “philosophes” – danh xưng tiêu biểu cho những nhà triết học duy vật cơ giới đương thời) bắt đầu âm thầm nếm trải tính bi kịch của nó, để, từ thời Hegel – sau kinh nghiệm của Đại cách mạng Pháp – người ta đã có thể thanh thản hơn khi nhận ra tính hài kịch của nó. Và “hài kịch”, như Hegel tinh tế nhận xét, là “một sự xác tín, qua đó, hoàn toàn mất đi nỗi sợ hãi trước bất kỳ cái gì xa lạ cũng như hoàn toàn làm mất đi tính bản chất của tất cả cái gì xa lạ. Sự xác tín như thế chính là một tình trạng khoẻ khoắn và được khoẻ khoắn của Ý thức”… (Sđd, §747).
Không
phải ngẫu nhiên khi các tính chất tự
tha
hoá và bị lệch lạc trong
“tính cách
không có tính
cách” của Rameau đã
mở đường cho nghị luận tâm lý học và
nhân loại học ở thế kỷ 19 và còn
âm
vang trong văn học và triết học thế kỷ 20. Lionel
Trilling, trong Sincerity and
Authenticity, xem “Hắn”
(Rameau) là bước đầu tiên dẫn đến sự
phân
tích đạo đức học của Nietzsche không phải
bằng cách kết án luân lý
mà
bằng cách cho rằng luân lý
không phải
là một sự thể hiện đích thực (authentic
performance); nó có thể không phản
ánh
đúng những gì có trong lòng
người
(đó cũng là nhược điểm cơ bản của đạo
đức học thời khai sáng như nhận định của
Alasdair MacIntyre trong tác phẩm After Virtue
cực
hay của ông).
Rameau là hình mẫu kinh điển của các xu hướng hư vô chủ nghĩa; anh ta hầu như tiếp thu hết mọi luận cứ “phản căn” (“anti-foundational”) chống lại các hình thức truyền thống của quyền uy luân lý, Nhà thờ và Nhà nước, tự nhận mình là hoàn toàn phi-luân và hư vô chủ nghĩa. Rameau toát lên “tinh thần của thời đại” (“Zeitgeist”) như là kẻ tiền phong cho “tâm thức hậu hiện đại” đang lan tràn hiện nay, nếu ta hỏi về “hậu hiện đại” như Lyotard (Hoàn cảnh hậu-hiện đại / La condition post-moderne) rằng: “Hậu-hiện đại là gì? … Rõ ràng nó là một bộ phận của hiện đại… Một tác phẩm chỉ có thể trở thành hiện đại nếu trước đó nó đã là hậu-hiện đại. Hiểu như thế, chủ nghĩa hậu-hiện đại không phải là chủ nghĩa hiện đại ở điểm kết thúc của nó mà là ở trạng thái khai sinh của nó, và trạng thái này là hằng cửu”. Cách nói nghịch lý này có nghĩa: “hậu - hiện đại” là tâm thức, là thử nghiệm có tính tiền phong trong lúc mới ra đời khi nó vi phạm những quy ước, vi phạm sự đồng thuận và các giá trị hiện hành. Trạng thái này là “hằng cửu” trong mọi lãnh vực – văn hoá, chính trị, xã hội... –, trước khi có nỗ lực “thiết lập lại trật tự” của “hiện đại” ! Như thế, đạo đức học hậu - hiện đại có người tiền phong là Diderot, ít ra trong nhận thức rằng ta không cần phải ra sức xoá bỏ tính hàm hồ, nước đôi của cuộc sống mà phải biết học cách đối diện với nó, “sống chung” với nó.
Tuy
nhiên,
ta không thể quá “lạc quan”.
Thật có ý
nghĩa khi ta nghĩ đến tâm thế và cách
hành
xử của “ông triết gia”, nhân
vật xưng “Tôi”
trong tác phẩm : “Tôi
ngẫm nghĩ, tất cả
những
điều anh bạn vừa nói nghe hay ho hơn là
xác
đáng”. Sau khi âm thầm thừa
nhận tính
giả đạo đức của chính “hàng
ngũ” của
mình, “Tôi” vẫn
không thực sự đi vào
đối thoại mà chỉ bình luận kiểu dấm dẳn,
nhát gừng. “Tôi”
liên tục trách
“Hắn” đã thiếu “nhất
quán”. “Hắn”
vừa ngán ngẩm xã hội thối nát, muốn
học theo Diogènes sống trong thùng gỗ để theo
đuổi chân lý, vừa thú nhận rằng
không
thể từ bỏ được bao cám dỗ của cuộc sống
“haute couture”!
“Tôi” vội phê phán
“Hắn” là đớn hèn
(và “Hắn” vui vẻ
đồng ý!). “Tôi” thừa nhận
những điểm do
“Hắn” vạch trần, nhưng chỉ thừa nhận cho
chính
mình thôi, chứ không tự lên
án
chính mình đã sống và
làm việc
bên trong lòng xã hội ấy. Trong khi
“Hắn”
công khai thú nhận việc thủ lợi trong hệ thống
thối nát là sự phản bội, thì phải
chăng lợi ích của “Tôi”
là ở chỗ bảo
vệ cho “luật chơi” bên trong hệ thống
mà
“Hắn” đã lên án.
Tác phẩm đặc biệt sâu sắc ở nhân vật “Tôi”: vừa biết nghe và hiểu sự phê phán đối với hệ thống, vừa sẵn sàng lên án kẻ phê phán ! Trong thâm tâm, “Tôi” thừa nhận sự phê phán nghiêm khắc của “Hắn”, nhưng, về mặt công khai, vẫn lên án “Hắn” là không “xác đáng”. Sự đời là vậy : sự xác đáng của kẻ phê phán khó mà được công khai thừa nhận khi anh ta “dại dột” phê phán trực diện một hệ thống hay một xã hội nhất định. “Hắn” vốn thừa biết cách “ nói cho hay điều dối trá ” để kiếm miếng ăn hàng ngày, nhưng lại không biết ăn nói (giả đạo đức) sao cho có thể chấp nhận được, vì thế, đã bị “mất uy tín” ngay trong hệ thống mà “Hắn” phê phán. Luận cứ và tâm thế của “Tôi” là một phiên bản tinh vi hơn, sành sỏi hơn của lối sống “Mackeno” (“mặc kệ nó”): nói gì thì nói, phải giữ đúng “luật chơi”. Ai không thích thì đi chỗ khác!.
Diderot “trải đời”, và, nơi mọi góc khuất của xã hội hiện đại và… “không có vua” 6, đâu đâu cũng thấy những Rameau đang sống giữa chúng ta.
Bùi Văn Nam Sơn
10.2006
1 Xem: David J. Adams, Manchester University. Le Neveu de Rameau. The Literary Encyclopedia, 26.8.2004. The Literary Dictionary Company 19.10.2006 http://www.literncye.com/php/sworks.php?
2 Encyclopédie ou dictionnaire raisonné des sciences, des arts et des métiers, par une société de gens de lettres. Jean le Rout d’ ALEMBERT và Denis DIDEROT (công trình được cả hai người thực hiện từ 1751 cho đến năm 1757, tức đến tập VII, sau đó do Diderot một mình điều khiển cho đến 1780, gồm toàn bộ 35 tập.
3 Các trích dẫn là từ bản dịch của GS Phùng Văn Tửu.
4 - Werther, Faust: tên các nhân vật chính trong các tác phẩm của Goethe : Die Leiden des jungen Werthers / Tình sầu của chàng Werther (đã có bản tiếng Việt, không nhớ tên dịch giả và năm xuất bản); và Faust (bản dịch của Quang Chiến, NXB Văn học 2001).
- Karl Moor: nhân vật chính trong tác phẩm Die Räuber / Những tướng cướp của F. Schiller.
- Don Quichott: nhân vật chính trong tác phẩm cùng tên của Cervantès. Xem thêm: Hegel: Hiện tượng học Tinh thần, §360 và tiếp. BVNS dịch và chú giải, NXB Văn học 2006, tr. 754 và tiếp).
5 Xem: Hegel: Hiện tượng học Tinh thần: “Nó [Tự ngã] biết cách làm thế nào để phát biểu chính xác về mỗi yếu tố trong quan hệ với yếu tố đối lập, và nói chung, phát biểu ra được một cách đúng đắn sự đảo ngược đang chế ngự tất cả mọi yếu tố ấy: nó biết về từng yếu tố rõ hơn là chính yếu tố ấy, bất kể yếu tố ấy có đặc tính gì” (…) “nó biết chỉ ra một cách thông minh, trào phúng sự mâu thuẫn nằm ngay trong lòng của những yếu tố cố định của thế giới hiện thực cũng như của những quy định cứng đờ do phán đoán thiết định nên và chính sự mâu thuẫn này mới là sự thật [chân lý] của chúng” (…), §526.
6 Tên một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Các thao tác trên Tài liệu