TẬP ĐOÀN : ý nghĩa kinh tế và nguy hiểm trước mắt
Tập đoàn : ý nghĩa kinh tế
và
nguy hiểm trước mắt
Vũ Quang Việt
Sự bành trướng ảnh hưởng của tập đoàn ở Việt Nam có thể nói là nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát cao ở Việt Nam qua chính sách bơm tín dụng của nhà nước, kích thích sự phát triển khu vực này, với hy vọng nó là phương tiện đạt tốc độ tăng GDP cao. Tuy nhiên điều này lại không phải là mục tiêu của bài viết. Bài viết nhằm trình bày quan niệm và thực tế về công ty (trong đó có tập đoàn nếu nó là công ty có tư cách pháp nhân) và sự kiểm soát về mặt luật pháp mà các nước phát triển đang thực hiện. Nó cũng bàn thêm về những điều cần tăng cường kiểm soát ở Việt Nam nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Tập đoàn là gì ?
Trước tiên cần định nghĩa tập
đoàn kinh tế là gì. Trong tiếng
Anh có hai từ : conglomerate
và holding
company.
Đồng thời phải kể thêm hai từ
xuất phát từ châu Á : keiretsu
của
Nhật Bản và chaebol
của Hàn Quốc.
Từ tiếng Anh, conglomerate,
thường
được định nghĩa là một
công ty lớn, có sở hữu cổ phần
ở nhiều công ty khác hoạt động
trong các ngành nghề gần như không
liên hệ gì với nhau. Từ này
mang ý nghĩa tập đoàn được
hiểu hiện nay ở Việt Nam. Thí dụ
công ty FPT doanh thu chủ yếu từ bán
điện thoại di động, và sau này
vì một lý do nào đó lại
là một trong ba công ty được hưởng
quyền sử dụng sóng, do đó có
thể mở dịch vụ điện thoại di
động và cung cấp dịch vụ
internet. FPT hiện nay lại được phép
mở trường đại học FPT, ngân
hàng FPT (Tiên Phong), công ty chứng khoán
FPT, v.v.
Điểm căn bản đưa đến việc
thành lập tập đoàn là nó
cho phép môt công ty đang tạo ra nhiều
lợi nhuận, nhưng lại không thể
phát triển mạnh thêm vì thị
trường bão hoà, hướng vào
ngành sản xuất mới có khả năng
phát triển mạnh hơn trong tương
lai. Điều này quan trọng khi công nghệ
thay đổi nhanh, việc đầu tư vào
công nghệ mới là nhằm tránh cho
công ty rơi vào lạc hậu trong tương
lại. Thí dụ công ty làm phần
mềm Microsoft kiếm cách mua công ty Yahoo
(công cụ tìm kiếm trên mạng) vì
sợ rằng phần mềm độc lập như
hiện nay sẽ mất chỗ đứng trong
tương lại. Tập đoàn thường
mang cùng tên để tạo ảnh hưởng
tiếp thị trên thị trường. Tuy
nhiên mặt trái của tập đoàn
là khi bành trướng rộng vào
nhiều ngành nghề khác nhau, quản lý
ở cấp cao của tập đoàn mất
dần khả năng nắm bắt chuyên ngành
sâu, tập đoàn dễ mất phương
hướng, không còn mục tiêu rõ
ràng và dễ mất khả năng cạnh
tranh. Và khi một phần sụp đổ, nó
có thể kéo theo sự sụp đổ
của cả tập đoàn. Điều này
dễ xảy ra trong thời hiện đại khi
các tập đoàn tham gia vào và
tạo ra các loại buôn bán tài
chính phiêu lưu, không thể kiểm
soát được như đang xảy ra hiện
nay trên thế giới (diều này sẽ
nói thêm sau).
Từ holding company (công ty mẹ) cũng rất thông dụng trên thế giới. Holding company là công ty sở hữu toàn diện, đa số, hay một phần cổ phiếu của một hay nhiều công ty con khác. Thường được gọi là công ty mẹ (parent company) vì công ty này luôn nhằm sở hữu đủ số cố phiếu, với mục đích có ảnh hưởng quyết định đối với công ty con (subsidiary) như quyết định người lãnh đạo và mục tiêu phát triển.
Sự khác nhau giữa các nước
Nếu xét trên mặt định nghĩa,
tập đoàn và
công ty mẹ/con
không
khác nhau. Nhưng qua thực tế, ta thấy
công ty mẹ/con, khác với tập đoàn
ở hai điểm. Thứ nhất, công ty
mẹ/con thường hoạt động trong cùng
một ngành nghề, thí dụ như công
ty mẹ làm sản phẩm cuối cùng
thì công ty con cung ứng vật tư và
các dịch vụ cần thiết. Thứ hai,
công ty mẹ có ảnh hưởng trực
tiếp và quyết định đến mục
tiêu kinh doanh và bộ phận quản lý
công ty con. Dù thế nào, không có
luật pháp nào phân biệt giữa
loại hình công ty mẹ/con và tập
đoàn.
Chaebol ở Nam Triều Tiên và keretsu ở Nhật cũng là những loại hình thức tập đoàn nhưng lại không giống nhau. Chaebol của Nam Triều Tiên thường mang hình thức của một công ty mẹ, và có nhiều công ty con hoạt động để đáp ứng yêu cầu vật tư và dịch vụ của công ty mẹ. Chaebol cũng thường thuộc sở hữu và do đó đặt dưới quyền quản lý của một gia đình. Về mặt quản lý, keretsu ở Nhật khá giống tập đoàn (conglomerate) ở Mỹ, là do những người chuyên nghiệp làm thuê quản lý, nhưng về mặt sở hữu chúng là công ty có tư cách pháp nhân độc lập, nhưng hoạt động mang tính liên hệ nối kết lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, dựa vào chữ tín, được cung cấp hàng hoá, tín dụng lâu dài mà không cần phải trả ngay.
Tập đoàn và các quy định pháp lí
Dù khác nhau, cả hai loại chaebol hay keretsu đều bị cấm sở hữu ngân hàng vì ở Hàn Quốc chính phủ muốn kiểm soát những công ty này qua việc kiểm soát tín dụng, còn ở Nhật, keretsu không được làm chủ ngân hàng nhưng thường hoạt động rất chặt chẽ với ngân hàng và thường được ngân hàng đáp ứng tín dụng rất dễ dàng, ít nhất là cho đến cuộc khủng hoảng kéo dài hơn 10 năm ở Nhật mà nó chỉ chấm dứt khoảng năm 2000.
Hạn chế công ti phi tài chính sở hữu ngân hàng
Nó chung về mặt pháp lí, các nước thường hạn chế sự tham gia vào hoạt động tài chính, ngân hàng của các công ti phi tài chính (như sản xuất xe hơi, phần mềm) hoặc quỹ đầu tư, bảo đảm rằng không có sự liên hệ mẹ/con giữa công ti phi tài chính và ngân hàng. Theo luật ngân hàng Mỹ (Bank Holding Company Act hay Savings and Loan Holding Company Act) một công ti được coi là công ti mẹ của ngân hàng nếu nó : (i) hoặc trực tiếp hay gián tiếp kiểm soát được số cổ phiếu ở mức quyết định ở ngân hàng (sở hữu 10 % số cổ phiếu hay hơn thường được coi là thước đo quyền làm chủ), hoặc (ii) có khả năng ảnh hưởng đến việc tuyển chọn đa số thành viên hội đồng quản trị, hoặc (iii) có ảnh hưởng đến quyền quản lý hay chính sách của ngân hàng.
Từ định nghĩa quyền
kiểm soát
(hay làm mẹ
trên) mà các công ti mẹ và con đều phải đặt
dưới sự giám sát chặt chẽ
của cơ quan giám sát tài chính
như FED của Mỹ, đặc biệt liên
quan đến tỉ lệ tín dụng ngân
hàng cấp cho công ti mẹ/con. Luật
Canada hạn chế sở hữu ngân hàng
của bất cứ sở hữu chủ không
phải công ti tài chính nào ở
mức 10 %. Ở Mỹ, tỷ lệ hạn chế
là 25 % nhưng nếu là 10 % trở lên
phải xin phép cơ quan kiểm soát và
phải chứng tỏ rằng nó không có
sự liên hệ mẹ/con theo định nghĩa
ở trên.
Yêu cầu kiểm soát chặt chẽ tính
mẹ/con giữa công ti tài chính và
phi tài chính là dễ hiểu vì
hoạt động ngân hàng, tài chính
có nhiều rủi ro ; việc mất niềm
tin của khách hàng có thể tạo
ra sự sụp đổ dây chuyền của
cả hệ thống và do đó ảnh
hưởng lớn đến toàn nền kinh
tế. Để giảm độ rủi ro, tín
dụng ngân hàng do đó bị pháp
luật nhiều nước đòi hỏi phải
đa dạng cho nhiều khách hàng khác
nhau, và hoạt động ở nhiều lãnh
vực vực khác nhau, chứ không chỉ
phục vụ một thiểu số khách hàng,
nhất là những là khách hàng
làm chủ cổ phần đáng kể
trong ngân hàng. Không chỉ tín dụng
ngân hàng, ngày này các hoạt
động tài chính mang tính tín
dụng (do những công cụ tài chính
mới ra đời) nhưng lại không phải
ngân hàng, vì không bị kiểm
soát, đã là nguyên nhân tạo
ra cuộc khủng hoảng tài chính hiện
nay ở Mỹ và do đó có thể
bị đặt vào vòng kiểm soát
trong tương lai.
Thuế và công ti mẹ con
Ở mức độ nhất định, chính sách thuế sẽ giúp làm lộ rõ sự liên hệ công ti mẹ con. Thí dụ nếu công ti A làm ra lợi nhuận, công ti A sẽ bị đánh thuế lợi nhuận ; không những thế, phần lợi nhuận đem phân phối thành cổ tức cho cổ đông lại bị đánh thuế một lần nữa theo thuế thu nhập cá nhân hoặc thu nhập công ti, tuỳ theo ai là chủ sở hữu cổ phần ; cổ tức mà công ti một công ti B nào đó nhận được khi phân cho cổ phần viên thì họ lại bị đánh thuế một lần nữa. Tức là lợi nhuận có thể bị đánh thuế tới ba lần hay nhiều hơn. Luật pháp như ở Mỹ chẳng hạn sẽ miễn trừ thuế thu nhập công ti (trả từ A tới B), tuỳ theo tỉ lệ sở hữu giữa A và B. Nếu là liên hệ mẹ/con, mà công ti mẹ chẳng hạn nắm 80 % cổ phần của công ti con, thì việc trả cổ tức (dividends) từ công ti con cho công ti mẹ sẽ được miễn trừ thuế thu nhập. Tỷ lệ miễn trừ sẽ là không nếu tỷ lệ sở hữu chủ dưới 20 %. Như thế luật thuế trên khuyến khích phát triển đầu tư ra công ti con, nhưng không khuyến khích đầu tư lợi nhuận vào chứng khoán để trốn thuế.
Tập đoàn và các thủ thuật
tài chính mới :
mối đe dọa hiện
nay ở Mỹ
Sự tránh né ghi nợ trong kết toán
tài sản là thủ thuật làm đẹp
bản báo cáo tài chính của rất
nhiều công ti hiện nay ở Mỹ.
Họ làm thế nào ? Đơn giản thôi, họ lập ra các công ti tài chính (gọi trong giới chuyên môn là các phương tiện đặc biệt – special vehicles) thường là ở nước ngoài, ở những khu vực tự do, không bị chính quyền kiểm soát chặt chẽ. Chính các công ti con này đi vay dưới sự bảo trợ của công ti mẹ, vốn vay này sẽ phục vụ hoạt động của công ti mẹ, nhưng điều quan trọng là phần vay này sẽ không ghi vào sổ nợ của công ti mẹ. Giới kinh doanh khó nhận ra điều này, nếu luật không đòi hỏi minh bạch hoá các bảo trợ tài chính. Điều này đã được công ti Enron thực hiện và đã trở thành công ti hàng đầu, gây chấn động nước Mỹ khi phá sản vì mất khả năng thanh toán. Tất nhiên công ti Enron còn làm nhiều thủ thuật khác như mua hàng của công ti con (thật ra chỉ là ghi giả), bán hàng theo hợp đồng tương lai nhưng lại ghi là doanh thu trong hiện tại, với chi phí trong hiện tại nhằm tăng lợi nhuận giả, kích động tăng giá cổ phiếu của mình. Vấn đề mua bán khống giấy nợ mua nhà trên thị trường hiện nay ở Mỹ và trên thế giới hiện vẫn đang còn đe doạ sự tồn tại của các đại gia tài chính năng động nhưng lại ít chịu sự kiểm tra nghiêm túc nào.
Tập đoàn và kinh tế Việt Nam
Những vấn đề trên dường như
cũng không có gì xa lại đối
với kinh tế Việt Nam và trở nên
rất nguy hiểm khi luật pháp của ta
hiện nay gần như chưa có gì để
kiểm soát các hoạt động của
tập đoàn. Ở đây cần nói
rõ thêm là hầu hết các tập
đoàn lớn ở ta đều là tập
đoàn nhà nước, thường là
độc quyền, được ưu đãi
và có khả năng lũng đoạn thị
trường rất lớn. Mục đích của
nó, theo sự mong muốn của chính
quyền, là tạo ra quả đấm đẩy
mạnh phát triển nền kinh tế, nhưng
mục đích của chính lãnh đạo
công ti thì có thể không phải
thế, mà là lợi ích cá nhân.
Luật Doanh nghiệp (2005) có hiệu lực
từ ngày 1.7.2006 có một điều duy
nhất nói rất sơ lược và mơ
hồ về tập đoàn kinh tế trong Điều
149 : "Tập đoàn kinh tế
là nhóm
công ti có quy mô lớn. Chính phủ
quy định, hướng dẫn tiêu chí,
tổ chức quản lí và hoạt động
của tập đoàn kinh tế".
Nếu thế thì liệu có cần có
một luật dành cho tập đoàn hay
không ? Điều này thật ra không cần
thiết, bởi vì công ti là công ti và cần được đối xử
ngang hàng trước pháp luật. Hơn
nữa, việc định nghĩa ai là tập
đoàn cũng không dễ dàng.
Tuy nhiên, điều quan trọng đầu tiên
cần thực hiện là tăng cường
luật pháp và các quy chế kiểm
soát sự lấn sân của công ti phi
tài chính vào các hoạt động
tài chính. Việc cho phép FPT, EVN, ..
thành lập ngân hàng là điều
không thể chấp nhận được.
Thực tế hiện nay là dù có
luật, các cơ quan hữu quan gần như
lơ là không thực hiện sự kiểm
soát theo luật hoặc không đủ khả
năng chuyên môn để kiểm soát
hầu hết mọi hoạt động của
công ti, cho nên cần siết chặt khả
năng đầu tư của các công ti
phi tài chính vào hoạt động tài
chính, và chỉ mở rộng khi điều
kiện cho phép ; mục đích là giảm
thiểu khả năng xảy ra các cuộc
khủng hoảng tài chính trong tương
lai.
Điểm quan trọng thứ hai cần làm
là qui định rạch ròi về nợ
của công ti nhà nước. Nợ của
công ti nhà nước phải vừa được
ghi là nợ của công ti, vừa được
ghi là nợ của nhà nước (tức
là công ti nợ ngân sách, ngân
sách nợ người cho vay), nếu như
nhà nước phải trách nhiệm trả
nợ khi công ti phá sản. Tài khoản
quốc gia của Liên Hợp Quốc cũng đã
qui định điều này, dù mục
đích là nhằm phân tích kinh tế.
Chuyện tránh ghi nợ này thực tế
đã xảy ra khi Vinashin cho rằng gần 2
tỷ nợ mà nhà nước vay cho họ
là nợ của nhà nước chứ
không phải nợ của công ti và do
đó nhà nước phải có trách
nhiệm chi trả. Hình như họ cho rằng
nhà nước sẽ có sở hữu
(equiti) lớn hơn đối với công ti
qua số nợ này, và như thế báo
cáo tài chính của công ti sẽ
rất đẹp vì công ti không có
nợ. Thủ thuật này không thể
chấp nhận được.
Điểm thứ ba là cần kiểm
soát chặt chẽ sự bành trướng
các công ti con của tập đoàn
quốc doanh, chừng nào mà việc mở
rộng công ti con tuỳ thuộc rất nhiều
vào việc được chính quyền
cấp đất với giá rẻ mạt và
sau đó công ti con cũng nhanh chóng trở
thành “doanh nghiệp lớn” vì có
quyền sử dụng đất.
Có lẽ đã đến lúc cần
giải quyết đúng đắn vần đề
đất cấp cho công ti và phải ghi
đúng đắn theo giá thị trường
tài sản này trong bản kết toán
tài sản. Có hai cách giải quyết.
Đất có thể coi là nợ của
công ti đối với nhà nước.
Giá trị số nợ này sẽ được
điều chỉnh theo giá thị trường
(lấy giá trung bình 5 năm chẳng hạn)
và công ti phải trả lãi cho nhà
nước theo lãi suất nhất định.
Cách thứ hai là coi đất là do
nhà nước cho thuê và tiền thuê
phải được điều chỉnh tùy
theo giá thị trường. Đất không
thể coi là sở hữu của công ti,
kể cả quyền sự dụng đất.
Và quan trọng hơn là nếu nhà
nước cần bảo vệ nông dân
hiện nay, thì quyền sử dụng đất
phải thuộc về nông dân, nếu đất
giao đã thuộc về nông dân trước
đây.
Có thể nói quá trình tạo ra các nhà tư sản đặc biệt có máu mặt hiện nay ở ta đều dựa vào bốn quá trình thiếu minh bạch hiện nay : (i) quá trình được giao đất của dân hoặc được giao tài sản thiên nhiên (như sử dụng phát sóng) (cho công ti tư hoặc công) với giá rẻ mạt, (ii) quá trình trao cho độc quyền kinh doanh mà không phải trả giá (thí dụ cho VNPT, Viettel, FPT quyền dùng sóng điện thoại di động và cung cấp dịch vụ Internet), (iii) thiết lập các công ti tư là con của các công ti mẹ quốc doanh, cũng với quyền sử dụng đất, (iv) ăn phần trăm cách công trình đầu tư. Tất cả đều cho thấy càng đầu tư mạnh vào các tập đoàn nhà nước càng tạo cơ hội cho việc làm giầu của một thiểu số có đường dây liên hệ. Việc kiểm soát sự bành trướng của công ti nhà nước thành các tập đoàn với nhiều công ti con là điều hiển nhiên. Và như đã nói ở trên, khi báo cáo tài chính và qui luật báo cáo không minh bạch thì việc dùng thủ thuật để tăng hay giảm lợi nhuận là điều đương nhiên xảy ra.
Vũ Quang Việt
Các thao tác trên Tài liệu